Đặc điểm lớn nhất của miền Bắc khi bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì

HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ, CẢI TẠO XÂY DỰNG CNXH [ 1954- 1965]

Đăng lúc: 09/03/2021 [GMT+7]

100%

CHƯƠNG V

HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ, CẢI TẠO XÂY DỰNG CNXH [ 1954- 1965]

Với chiến thắng lịch sử Điên Biên Phủ [7- 5- 1954] miền Bắc hoàn toàn giải phóng bước vào xây dựng CNXH. Nhưng ở miền Nam đế quốc Mỹ đã nhảy vào đặt ách cai trị bằng chủ nghĩa thực dân mới nhằm uy hiếp CamPuChia và

khống chế Lào.

Trước tình hình đó, Đảng ta khẳng định: Dân tộc Việt Nam đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong suốt 9 năm kháng chiến [1945 - 1954], Thanh Hoá là vùng hậu phương vững chắc chi viện cao nhất,nhiều nhất sức người, sức của cho tiền tuyến. Sau hoà bình lập lại dưới sự lãnh đạo của Đàng bộ tỉnh các tầng lớp nhân dân trong tỉnh phấn khởi tự hào và khẩn trương triền khai thực hiện Nghị quyết 6 và 7 của Trung ương Đảng về việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chù, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế văn hoá, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà.

Song vào thời kỳ này cũng như các địa phương khác trong cả nước, tỉnh Thanh phải đối mặt với những khó khăn phức tạp do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gây ra nhằm chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH của nhân dân miền Bắc, trong đóThanh Hoá là một trọng điểm.

Tại miền Tây Thanh Hoá, địch đã cho máy bay lén lút tiếp tế vũ khí, lương thực, thực phẩm và quân trang cho bọn gián điệp, thổ phỉ ở vùng Tam Chung, Quang Chiểu [Quan Hoá], tăng cường tuyên truyền xuyên tạc với các luận điệu : “ Đầu năm hoà bình, cuối năm chiến tranh”, “ chế độmiền Bắc sưu cao, thuế nặng", “bên Lào hàng hoá rẻ và dễ mua” nhằm làm giảm niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Chính phủ, hạ thấp ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bằng biện pháp kíchđộng, lung lạc, hăm doạ, cưỡng ép, chúng đã đưa một số đồng bào các dân tộc di cư sang Lào, phá hoại sự đoàn kết chiến đấu của hai dân tộc Việt - Lào.

Ở một số vùng có dân cư theo đạo Thiên chúa, trước khi rút khỏi miền Bắc, bọn địch đã cài cắm gián điệp nhằm tạo cơ sở phá hoại lâu dài. Dựa vào Điểu 14D của Hiệp định Giơnevơ, bọn phản động đã tung ra luận điệu “miền Bắc sẽ chết đói”, “miền Bắc không được tự do tín ngưỡng”, “chúa đã vào Nam”, “Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc”. Bằng những thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp và sự cưỡng ép tàn bạo của địch, hàng ngàn giáodân đã lìa bỏ quê hương di cư vào Nam. Ởhuyện Nga Sơn, Tĩnh Gia, bọn phản động lợi dụng tôn giáo tập hợp bọn côn đồ chống đối, vu cáochính quyền cách mạng. Ở các huyện Quảng Xương, Nông Cống, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hoá, bọn phản động đã len lỏi vào nhà thờ vào các khu vực tập trung dân theo đạo Thiên chúa để tuyên truyền, kích động và tổ chức di cư....

Cùng với khó khăn phức tạp do địch gây ra là những khó khăn về sự nghèo nàn lạc hậu vốn có của nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc lại bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề. Tuyến đê sông Mã, Sông Chu bị vỡ, mất mùa xẩy ra liên tiếp, năm 1954 nạn đói diễn ra nghiêm trọng trên địa bàn toàn tỉnh, các loại dịch bệnh đồng thời phát sinh.

Đứng trước tình hình khó khăn đó, Đảng bộ Thanh Hoá vẫn bình tĩnh sáng suốt, kịp thời đề ra chủ trương biện pháp đúng đắn, tổ chức lãnh đạo toàn dân khắc phục khó khăn, trở ngại đưa sự nghiệp cách mạng tỉnh nhà tiến lên cùng cách mạng cả nước.

Là một huyện trọng điểm của tinh, sau ngày giải phóng Thọ Xuân cũng phải đối mặt trực tiếp vài những khó khăn phức tạp do địch và thiên tai gây ra.

Tại các nhà thờ và khu vực tập trung dân cư theo đạo Thiên chúa, bọn phản động đội lốt tôn giáo đã ráo riết hoạt động, tung tin bịa đặt, tuyên truyền kích động tập hợp dân chuẩn bị di cư.

Tháng 9 - 1954, mưa lớn kéo dài nước từ thượng nguổn đổ về dữ dội, mực nước sông Chu dâng cao, một số đoạn đê ở Liên Phô [xã Thọ Nguyên] bị vỡ gây ra ngập úng hàng ngàn ha lúa sắp đến ngày thu hoạch. Đặc biệt ở các xã Thọ Thế, Thọ Tân, Thọ Dân, Thọ Cường, Xuân Thịnh, Xuân Lộc... có vùng nhân dân phải lên mái nhà ngồi, nước rút chậm, mùa màng hầu như mất trắng, bệnh tật phát sinh, nạn đói diễn biến gay gắt.

Bên tả đoạn đê Căng Hạ [Thọ Trường] vừa bị vỡ, vừa bị nước sông Cầu Chày dâng cao, các xã Phú Yên, Xuân Tín, Xuân Minh [cũ], Thọ Trường [cũ] đều bị ngập lụt. Cả huyện gần hàng ngàn ha lúa màu bị ngập úng.

Cuối năm 1954 đầu năm 1955 nạn đói diễn ra nghiêm trọng trên địa bàn huyện, hàng trăm người bị đói lả, rải rác ở các làng đã có người bị chết đói, dịch bệnh diễn ra. Tình hình đó đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân toàn huyện bình tĩnh sáng suốt phát huy truyền thống cách mạng giải quyết khó khăn đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

I- HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH VÀ THIÊN TAI KHÔI PHỤC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HOÁ [1954-1960]

Chống âm mưu, thủ đoạn thâm độc của địch cưỡng ép đổng bào giáo dân di cư vào Nam, sang Lào. Ngay sau khi nhận được chỉ thị của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ Thọ Xuân đã có những biện pháp chỉ đạo sát thực kịp thời, tăng cường một số đồng chí huyện uỷ viên và cán bô Dân vận về vùng giáo ởxứ đạo Phúc Địa [Quảng Phú], tứ xứ Hữu Lê [Thọ Xương], xứ đạo Bích Phương, Ngọc Lạp [Xuân Sơn] cùng với bộ phận bám sát nắm tình hình từng gia đình, ngõ xóm, vận động quần chúng không mắc mưu địch.Với tinh thần: Chúa có ở khắp mọi nơi, mọi nhà, chỉ cần kính chúa yêu nước, đồng bào hãy yên tâm ở lại quê hương làm ăn sinh sống.

Huyện Đoàn Thọ Xuân chịu trách nhiệm trước Đảng bộ tổ chức thanh thiếu niên cắm trại, liên hoan văn nghệ, lấy lại không khí đầm ấm phấn khởi đến từng gia đình.Đảng bộ còn mở các lớp tập huấn cho cán bộ cơ sở nhằm triển khai chỉthị của Liên khu uỷ IV, của Tỉnh ủy Thanh Hoá vận động giáo dân đấu tranh đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của dịch và tranh thủ các linh mục thuyết phục đồng bào ở lại quê hương, cử cán bộ cơ sở bám làng, bám dân giải thích giác ngộcho mọi người hiểu và thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Chính phủ, vạch trần âm mưu, hành động phản cách mạng của địch.

Nhờ làm tốt chính sách tuyên truyền vận động nên đã kịp thời làm cho những người có ý định di cư quay trở lại quê nhà. Một số giáo dân do được giác ngộ đã viết đơn thư gửi Uỷ ban Quốc tế tố cáo bọn phản động tay sai đế quốc, vi phạm Hiệp định Giơnevơ, cưỡng ép họ và gia đình di cư vào Nam, làm cho nhiều gia đình ly tán khốn khổ, họ kiến nghị Ủy ban Quốc tế giám sát can thiệp để gia đình được đoàn tụ.

Khi nhận được đơn, thưTổ chức Quốc tế giám sát thi hành Hiệp định Giơnevơ ở Việt Nam đã đến vùng giáo xã Quảng Phú [Thọ Xuân] kiểm tra sự thật. Tại đây đồng bào đã vạch trần sự bịa đặt xuyên tạc của bọn phản động vu khống chính quyền địa phương ngăn cản việc tự do chọn nơi cư trú của giáo dân theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, làm thất bại âm mưu nham hiểm của địch.

Tại xã Xuân Bái [Thọ Xuân], khi Tổ chức Quốc tế vào chùa Bái Thượng gặp sư Tráng, nhà sư đã tố cáo việc ném bom, bắn phá vào chùa của thực dânPháp cho đến nay vẫn còn gây tâm lý hoang mang lo lắng trong giáo dân.

Qua đợt kiểm tra tra của Tổ chức Quốc tế tại các vùng giáo dân [Thọ Xuân] đã làm cho tình hình chính trị trở lại ổn định. Đông đảo giáo dân tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước yên tâm ở lại quê hương làm ăn sinh sống.

Cùng với ngăn chặn sự quấy phá của các tổ chức phản động, Đảng bộ, Chính quyền chỉ đạo nhân dân tiến hành các biện pháp chống đói.

Huyện chủ trương bước đầu động viên từng xã, từng làng giúp đỡ tương trợ nhau nhường cơm sẻ áo, lá lành đùm lá rách. Các vùng gặp khó khăn ít giúp các vùng khó khăn nặng hàng tấn gạo, ngô, khoai, sắn và hàng trăm ngàn đồng.

Do nạn đói kéo dài, số người đói ngày càng tăng. Đứng trước tình hình cấp bách đó, Huyện uỷ chỉ đạo thành lập “Ban cứu đói” do đồng chí Trịnh Ngọc Bích, Chủ tịch UBHC huyện làm Trưởng ban. Ban vận động đã cùng kết hợp cán bộ chủ chốt của các xã kiểm tra thực tế tình hình ờ từng làng, báo cáo với Ban chỉ đạo cứu đói cấp tỉnh bàn biện pháp hỗ trợ, Huyện uỷ - UBHC phát động phong trào toàn dân đoàn kết tương trợ cứu đói tại chỗ, phòng chống dịch bệnh, tích cực trồng rau xanh ngắn ngày. Thau giếng, khôi phục nguồn nước sinh hoạt, dọn vệ sinh ở từng giađình, thôn xóm, làng xã. Huyện đã huy động hàng ngàn lượt người đem theo trâu, bò và các loại giống đến các vùng bị đói để giúp nhân dân phục hồi sản xuất.

Ban chỉ đạo cứu đói huyện đã báo cáo kịp thời, Tỉnh đã trợ cấp nhân dân bị đói 800 tấn gạo [chia làm 3 đợi].

Nhờ sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo huyện và nhân dân, giữa năm 1955 nạn đói được đẩy lùi, đời sống nhân dân trở lại bình thường và được ổn định dần.

Ngay sau khi hoà bình vừa lập lại, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo Uỷ ban hành chính tỉnh lập kế hoạch sửa chữa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sôngChu để trình Chính phủ. Được Chính phủ phê duyệt, Tỉnh uỷ quyết định mở công trường tu sửa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sông Chu và ra quyết định thành lập Ban chỉ đạodo đồng chí Phó Chủ tịch tỉnh trực tiếp phụ trách. Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh quyết định huy động 22 ngàn dân công ở các huyện, một trung đoàn bộ đội, 700 thợ kỹ thuật và công nhân cùng hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm, các loại nguyên vật liệu cần thiêt phục vụ công trường.

Để cung cấp đá, tỉnh thành lập 2 công trường khai thác đá ở Mục Sơn và Hang Ma. Thành lập đội xe thồ và huy động dân công vận chuyển nguyên liệu, lương thực, thực phẩm. Các huyện miền núi cung cấp gỗ, luồng.... Với tinh thần chuẩn bị khẩn trương, ngày 1 - 9-1954 việc khởi công tu sửa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sông Chu được tiến hành. Việc tu sửa đập Bái Thượng được chia ra nhiều công đoạn. Vào thời điểm này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư động viên cổ vũ mọi người trên công trường. Bác viết: “Các cô, các chú phải làm mau, làm tốt và đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Chúc các cô, các chú lập nhiểu thành tích”

Cùng với Đảng bộ Thanh Hoá và nhân dân trong tỉnh. Đảng bộ huyện Thọ Xuân đã vận động nhân dân địa phương đóng góp sức người, sức của cho công trường sửa chữa đập Bái Thượng. Huyện đã huy động hơn 5.000 lượt dân công tham gia công trường. Nhân dân các xã Xuân Bái, Thọ Xương, Thọ Thanh, Xuân Dương đã trực tiếp ủng hộ công nhân công trường nhiều tấn thịt lợn, gà, cá, rau, cùng vật liệu làm lán trại, bố trí nơi ăn ở cho cán bộ, công nhân xây dựng đập. Thời gian hàn khẩu đê quai sanh cả công trường tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công. Nhiều tấm gương điển hình xuất hiện. Chị Mai Thị Hược thôn Xá Lê [Xuân Minh] đã vác tảng đá 70 kg đầu tiên đặt lên đập quai sanh được bầu là Chiến sỹ thi đua.

Sau 3 tháng khẩn trương thi công, ngày 19 - 12-1954 nước từ hộ thông nông giang sông Chu [Thọ Xuân] đã bắt đầu chảy về các cánh đồng, phục vụ sản xuấtvụ chiêm xuân năm 1955. Trung tuần tháng 3 - 1955 toàn bộ hộ thống nông giang sông Chu đã được khôi phục, 50.000 ha ruộng đất của 6 huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Triệu Sơn, Nông Cống, Quảng Xương được tưới nước cả 2 vụ.

Cùng với việc vận động nhân dân tham gia sữa chữa đập Bái Thượng, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo các huyện, nâng cấp, tu bổ hệ thống đê điều đẩy mạnh công tác thuỷ lợi và tích cực khai hoang phục hoá mở rộng diện tích canh tác.Tỉnh chủ trương miễn thuế cho tất cả các loại ruộng đất khai hoang phục hoá để phát triển sản xuất và quy định các huyện nhỏ như Vĩnh Lộc, Hậu Lộc phải đạt 250 mẫu ruộng đất canh tác, các huyện lớn như Thọ Xuân, Nông Cống phải đạt 1.000 mẫu. Phong trào khai hoang phục hoá diễn ra sôi động, rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh. Bộ đội dân quân được huy động vào việc tháo gỡ bom mìn, đảm bảo an toàn chonhân dân sản xuất. Trong 2 năm 1955 - 1956 toàn huyện đã khai hoang 1.000 ha ruộng đất để trồng cây rau màu và câylương thực. Nhờ đó, nông nghiệp phát triển thêm một bước, khó khăn về lương thực giảm dần.

Sau chiến tranh, việc khôi phục và phát triển giao thông vận tải phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá là yêu cầu cần thiết. Tỉnh uỷ đã chỉ đạo Ty Giao thông và các huyện trong tỉnh sửa chữa và mở rộng đường sá, cầu cống, mở rộng giao lưu giữa các miền trong tỉnh và với các tỉnh bạn, theo phương châm: phát huy sử dụng năng lực sẵn có của địa phương, tranh thủ sự chỉ đạo kỹ thuật và cấp vốn của Trung ương, vừa kiến thiết khôi phục, vừa bảo dưỡng thường xuyên.

Nhân dân Thọ Xuân đã tích cực tham gia tu sửa nâng cấp các tuyến đường huyện, xã và mở đường: Mục Sơn - Vạn Mai, Bái Thượng - Cửa Đạt, huy động dân công tham gia mở đường 217 A.

Hàng trăm công nhân là lực lượng lao động của huyện đã tham gia sản xuất công nghiệp và thủcông nghiệp ở Nhà máy giấyLam Son, ở các cơ sở sản xuất đồ gỗ, đan lát. Góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.

Cùng với việc khôi phục phát triển kinh tế, các mặt văn hoá, giáo dục, y tế và các hoạt động xã hội được cấp uỷ quan tâm chỉ đạo.

Ngay sau khi hoà bình lập lại, Thọ Xuân đã sắp xếp lại hệ thống trường lớp, hoàn thành việc xoá nạn mù chữ cho nhân dân lao động.

Theo chủ trương của Bộ Giáo dục, huyện Thọ Xuân bỏ chương trình giáo dục 9 năm, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 10 năm .

Năm 1955 các trường học ở Thọ Xuân có thêm học kỳ 3, các trường cấp 2 ở một số nơi dồn về huyên lỵ Thọ Xuân thành lập trường cấp II Thọ Xuân.

Thực hiện Chỉ thị số 57 của Tỉnh uỷ về tăng cường công tác y tế, huyện củng cố, phát triển mở rộng các bệnh xá huyện, trạm xá xã, các tổ đông y, hộ sản, các tổ y tế lưu động phòng trừ các bệnh sốt rét, đau mắt hột và một số bệnh xã hội khác.

Toàn huyên tích cực hưởng ứng phong trào “Sạch làng, tốt ruộng, sạch bản, tốt nưong” do Ty Y tế phát động.

Phong trào văn hoá, văn nghê, thể thao được đông đảo nhân dân tham gia nhiệt tình, phàn ánh khí thế sôi nổi của toàn dân trong sản xuất và xây dựng, góp phần vạch trần tội ác của Mỹ ngụyở miền Nam.

Ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ [7 - 5-1954] thực hiên đường lối nhân đạo của Đảng, Thọ Xuân được tỉnh giao nhiệm vụ quản lý nuôi giữ 5.000 tù binh Pháp, một tiểu đoàn ngụy quân, 3 đại đội Tây trắng, lập thành các trại ở Thịnh Mỹ [Thọ Diên], Quần Kênh [Xuân Giang], làng Hón [Thọ Hải]... Cơ quan Huyên đội đã cùng lực lượng quản giáo tuyên truyền giáo dục giác ngộ nhiều tù binh, giúp họ nhận rõ lỗi lầm cải tạo thành người tốt.

Sau khi tiến hành trao trả tù binh Pháp, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá tiếp tục tổ chức đón tiếp cán bộ, chiến sĩ, đồng bào miền Nam tập kết tại Sầm Sơn.

Huyện Thọ Xuân đã cùng với các huyện Quảng Xương, Nga Sơn, Đông Sơn, Hoàng Hoá, Nông Công, Thiệu Hoá, Yên Định cung cấp hàng ngàn con trâu, bò, lợn, hàng vạn gà vịt, hàng chục ngàn bộ quần ấo, màn, chăn, áo âm đảm bảo cho đồng bào, chiến sĩ, cán bộ miổn Nam có điều kiện sinh hoạt bình thường.

Tiếp tục hoàn thành triệt để nhiệm vụ dân chủ, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng “, Thọ Xuân thực hiện Luật cải cách ruộng đất của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban bố ngày 4 - 12-1953.

Cải cách ruộng đất ở Thọ Xuân được tiến hành 2 đợt. Đợt đầu [đợt thí điểm] được tiến hành ở 7 xã: Xuân Tân, Xuân Vinh, Thọ Trường, Thọ Nguyên, Xuân Khánh, Xuân Phong, Thọ Lộc [3 xã vùng tả ngạn, 4 xã vùng hữu ngạn sông Chu]. Dưới sự chỉ đạo của Đoàn uỷ cải cách ruộng đất, các đội cải cách ruộng đất phụ trách các xã, đã cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nông dân, tiến hành ôn nghèo kể khổ, xây dựng rễ chuỗi phátđộng nông dân vạch mặt bọn địa chủ cường hào gian ác. Với phương châm dựa hẳn vào bần - cố nông, đoàn kết với trung nông, liên kết với phú nông đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến tịch thu. trưng thu, trưng mua ruộng đất tài sản chia cho nông dân lao động... Đợt đầu đã quy 350 địa chủ, tịch thu 12.000 mẫu ruộng, 3.000 trâu bò, 55.000 công cụ sản xuất và nhiều tài sản khác chia cho bần, cố, trung nông [đợt đầu cải cách ruộng đấtở Thọ Xuân nằm trong đợt 3 toàn tỉnh].

Đợt 2 cải cách ruộng đất được tiến hành ở các xã còn lại trên địa bàn toàn huyện [đợt này nằm trong cải cách ruộng đất đợt 4 toàn tỉnh]. Hai đợt cải cách ruộng đất, Thọ Xuân đã xoá bỏ triệt đểquan hệ sản xuất phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất, đem lại quyền lợi cho nông dân lao động, mở đường cho sản xuất nông nghiệp phát triển. Nhưng cải cách ruộng đất kết hợp chỉnh đốn tổ chức đã phạm những sai lầm nghiêm trọng. Doquy định 5% tổng số hộ nông dân là địa chủ nênhàng loạt gia đình không đủ tiêu chuẩn cũng bịquy lên địa chủ. Nhiều gia đình cán bộ, đảng viên có công với cách mạng cũng bị quy lên địa chủ cường hào gian ác. Nhiều cán bộ chủ chốt trong huyện bị tình nghi là phản động, nhiều người bị khai trừ khỏi Đảng, bị bắt tù đầy... Tình hình đó đã ảnh hưởng đến khối đoàn kết trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong nhân dân. Quân thù lợi dụng vào những sai lầm đó tuyên truyền xuyên tạc ảnh hưởng uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng...

Trước tình hình nghiêm trọng đó Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời phát hiện sai lầm, đề ra chính sách sửa sai, Đảng bộ và quần chúng được tổ chức học tập Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch - thực hiện cuộc vận động sửa saitrong cải cách ruộng đất.Công việc tuy phức tạp nhưng được sự chỉ đạo chặt chẽ Tỉnh uỷ, Đảng bộThọ Xuân đã tiến hành sửa sai đạt kết quả tốt. Toàn huyện có 1.338 gia đình quy lên địa chủ, trong sửa sai còn lại 597 địa chủ. Hơn 60% giađình bị quy sai được trảlại ruộng đất, tài sản. Cánbộ, đảng viên bị quy sai được trả lại chức vụ vàĐảng tịch, khối đoàn kết toàn dân được củng cố, an ninh chính trị xã hội ổn định.

Sau khi hoàn thành công tác cải cách ruộng đất, khắc phục được một phần hậu quả chiến tranh và thiên tai. Đảng bộ tỉnh chỉ đạo các Đảng bộ cơ sở tiến hành chỉnh đốn tổ chức Đảng.

Đối với Đảng bộ Thọ Xuân, Tỉnh uỷ triệu tập đại biểu của các cơ sở Đảng về Hậu Hiền [xã Thiệu Tâm] để chỉnh huấn chính trị, kiện toàn tổ chức, Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 17 đồng chí và 2 đồng chí dự khuyết. Đồng chí Lê Văn Lữ được bầu làm Bí thư Huyện uỷ, đồng chí Nguyên Thị Nhẫn làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện.

Hội nghị xác định nhiệm vụ chính trị trọng tâm của huyện là: Phát huy thắng lợi của cải cách ruộng đất, động viên nông dân làm chủ ruộng đồng, hăng hái tăng gia lao động sản xuất, phục hóa tăng vụ, mở rộng diện tích phát triển kinh tế, phát động toàn dân tham gia xóa nạn mù chữ và tham gia các lớp học bổ túc văn hoá trong toàn huyện. Phátđộng phong tràobồi đắp đê sông Chu, phòng chống lụt bão và mở các chi giang, tiểu câu, mương máng, đưa nước về đồng...

Tiếp đến tháng 10 năm 1956, hội nghị Huyện ủy mở rộng được tổ chức tại xã Thọ Ngọc [thuộc Triệu Sơn hiên nay], đồng chí Trịnh Ngọc Điệt Phó Bí thư Tỉnh ủy về dự và chỉ đạo. Hội nghị xácđịnh nhiệm vụ chính của thời kỳ này là: Thực hiên Nghị quyết 10 của Trung ương Đảng và Thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cuộc vận động sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất. Động viên chính trị tư tưởng, minh oan cho những cán bộ bị quy sai thành phần, hoàn trả lại tài sản, bố trí lại chức danh lãnh đạo, nhanh chóng ổn định lại tình hình, ổn định tổ chức, đồng thời phát động nhân dân đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế,hàn gắn vết thương chiến tranh, tiếp tục đẩy mạnh công tác tu bổ đê điều phòng chống lụt bão, làmthuỷ lợi, chống hạn, mở rộng diện tích cấy lúa, nông dân vào các tổ đổi công, củng cố xây dựng cơ sở giáo dục, y tế , văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng tin tưởng và thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 17 đồng chí chính thức và 2 đồng chí dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Hồ được bầu làm Bí thư Huyên uỷ. Đồng chí Phạm Tường, Phó Bí thư làm Chủ tịch UBHC huyện.

Sau hội nghị, Huyện đã phát động chiến dịch “Toàn dân ra quân đắp đê”. Hàng ngày có từ 3.500 đến 5.000 người, đợt cao điểm có tới 10.000 lao động trên công trường. Ngoài lực lượng thanh niên, dân công, còn có các cụ trên 60 tuổi cũng xung phong tham gia đắp đê, nhiều phụ nữ trực tiếp gánh đất đắp đê, hoặc phục vụ công trường. Các xã Phú Yên, Xuân Tín, Xuân Lai, Xuân Khánh, Xuân Thành, Hạnh Phúc, Thọ Hải... đã ủng hộ hàng ngàn tấn gạo, thịt cho dân công. Các lực lượng quân đội [Sư đoàn 330] đóng trên địa bàn huyện cũng tích cực tham gia đắp đê.

Sau hơn một năm, tuyến đê sông Chu với chiều dài 20 km được bồi trúcvà nâng cao, hai bờ tả ngạn [từ Thọ Lập đến xã Thọ Trường], hữu ngạn [từ Thọ Diên xuống đến Xuân Khánh] thành đê to, vững chắc được kè hàng triệu mét khối đất đá, những nơi xung yếu hay sạt lở được xử lý triệt để. Nhờ làm tốt công tác đắp đê, hàng chục trận lụt lớn xảy ra, tính mạng, tài sản, mùa màng của nhân dân vẫn được bảo vệ an toàn.

Trong kháng chiến chống Pháp, huyện Thọ Xuân đã xây dựng hàng trăm tổ đổicông. Những năm hoà bình lập lại việc xây dựng tổ đổi công đã trở thành phong trào rộng khắp trong toàn huyện. Nông dân đã đoàn kết sản xuất, áp dụng kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất cây trồng, tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất. Những năm 1957 - 1958, phong trào xây dựng tổ đổi công lan rộng; toàn huyện đã xây dựng được 1.987 tổ đổi công, chiếm 80% tổng số hộ gia đình nông dân tham gia. Tổ đổi công Trịnh Xuân Bái, xã Xuân Thành có nhiều thành tích thâm canh, tăng vụ nâng caonăng suất, sản lượng lúa và hoa màu. Ông Trịnh Xuân Bái được tham dự Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc và được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động vào năm 1958.

Trên cơ sở nền móng các tổ đổi công, một số nơi chuyển lên xây dựng hợp tác nông nghiêp. Năm 1958 HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] ở Thọ Xuân được xây dựng để rút kinh nghiệm nhân rộng ra các điểm khác. Đây là HTX nông nghiệp đầu tiên ở Thọ Xuân.

Đi đôi với việc thành lập HTX nông nghiệp, HTX mua bán, tín dụng cũng được xác lập ở một số cơ sở.

Năm 1957 do yêu cầu của phát triển kinh tế và đời sống nhân dân, HTX mua bán huyện được hình thành ở ba khu vực trung tâm: thị trấn Thọ Xuân, Tứ Trụ, Neo do hàng ngàn hộ nông dân đóng góp cổ phần.

Sự nghiệp giáo dục cũng được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Năm 1958 giáo viên cấp I tập trung về tỉnh, giáo viên cấp II, III tập trung vềHà Nội học tập chủ trương xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.

Quyết tâm của Huyện uỷ, UBHC huyện là đẩy manh công tác xoá mù, mở rộng Bình dân học vụ trong toàn huyện. Nhiều xã trong huyện đã làm tốt. Xã Xuân Thành, Xuân Minh, Xuân Bái được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động về thành tích chống mù chữ. Toàn huyện có 108 cán bộ xã, 2.480 giáo viên được tặng Huy hiệu chiến sỹ Bình dân học vụ.

Để nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, tỉnh tăng cường cho huyện Thọ Xuân 70 giáo viên chuyên trách Bổ túc văn hoá. Ban đầu tập trung mở lớp ở các xã Xuân Thành, Thọ Nguyên, Bắc Lương, Xuân Lai, Xuân Minh, Xuân Vinh. Đến năm 1958 huyện mở trường Văn hoá tập trung tại xã Nam Giang, sau này chuyển vềHạnh Phúc. Trường đã đào tạo hàng trăm cán bộ chủ chốt cho huyện và xã.

Tháng 5 - 1958 Đại hội đại biểuĐảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ V được tổ chức tại đình làng Thôn A, xã Xuân Quang, đồng chí Ngô Đức, Phó Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đã biểu dương những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân trong huyện giành được, tâp trung bàn định nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ trong nhiêm kỳ là: cải cách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và thợ thủ công, đưa nông dân từ làm ăn riêng lẻ đi dần vào tổ đổi công, rồi tiến lên HTX nông nghiệp bậc thấp, tiến lên HTX nông nghiệp bậc cao, hợp tác hoá phải gắn liền với cơ giới hoá và thủy lợi hoá.

Đối với thương nghiệp, Đảng bộ đề ra chủ trương thành lập các HTX mua bán và HTX tín dụng, thành lập các HTX tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho thợ thủ công.

Đại hội xác định nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ chính trị là : Đảng bộ phải tập trung xây dựng cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể và đội ngũ cánbộ,đảng viên vững mạnh, Đại hội đãbầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá V, gồm 19 đồng chí, đồng chí Phạm Tường được bầu làm Bí thư, đồng chí Hồ Sĩ Nhân làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch UBHC huyện.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện. Cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp ở Thọ Xuân trở thành phong trào rộng lớn đều khắp. Từng xã tiến hành tổ chức cho nông dân học tập Điều lệ Hợp tác xã và đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về hợp tác hoá nông nghiệp.

Huyện thành lập Ban chỉ đạo để tuyên truyền giáo dục hướng dẫn nông dân gia nhập HTX, chọn HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] và HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc] làm điểm chỉ đạo chính và 4 điểm phụ: Đông Phương Hồng [Thọ Hải], Đại Long [Xuân Quang], Hồng Kỳ [Xuân Thọ], Thu Đông [Xuân Thịnh].

Qua hai đợt phát động, đợt 1 từ cuối năm 1958 đến đầu năm 1959 ở 6 xã đã có 621 hộ nông dântự nguyện nộp đơn vào HTX. Đợt 2 vào cuối năm 1959 ở 12 xã có 4.281 hộ nông dân vào HTX.

Để thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hộì chủ nghĩa, từ ngày 5 đến ngày 15 - 4 -1959 Tỉnh uỷ tiến hành tổ chức Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh. Nghị quyết Hội nghị ghi rõ : tiếp tục đẩy mạnh công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, người buôn bán nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị đại biểu Đảngbộ tỉnh, tháng 12 năm1959, Đại hội đại biểu Đảngbộ huyện lần thứ VI được khai mạc tại thôn Cộng
Hoà xã Thọ Ngọc [Triệu Sơn], đồng chí Lê ThếSơn, Phó Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đề ra nhiệm vụ trọng tâm của huyện là: Tĩếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp, đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, phấn đấu đến năm 1960 - 1961 có từ 90% số hộ nông dân tự nguyên gia nhập HTX nông nghiệp.

Đại hội được nghe một số háo cáo điển hình vê xây dựng HTX của HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc], Thắng Lợi [Xuân Thành], Bát Căng [Thọ Nguyôn], Đại Long [Xuân Quang], HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc] có phong trào sản xuất giỏi và các mặt văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao của quần chúng phát triển khá tốt, được nhiều đơn vị trong huyện và các huyện bạn đến tham quan học tập. Hợp tác xã Cộng Hoà đã được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.

Đại hội đề cập vấn đề đẩy mạnh phát triển sản xuất, phục hóa tăng vụ, chú trọng công tác thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng, cải tiến công cụ sản xuất, phát động nhân dân đóng góp cổ phần xây dựng hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng, đẩy mạnh công tác giáo dục, y tế, văn hoá, văn nghệ, thể dục - thể thao...

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ huyện gồm 17 Ủy viên chính thức và 2 Ủyviên dự khuyết.Đồng chí Phạm Tường được bầu làm Bí thư, đồng chí Trịnh Xuân Lưỡng làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch huyện.

Thấm nhuần tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng hộ huyện lần thứ VI, năm 1960 phong trào thi đua, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp đã diễn ra sôi nổi trên địa bàn huyện.

Phong trào xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp phát triển rộng khắp ở 36 xã. 100% gia đình cán bộ, đảng viên tự nguyện làm đơn gia nhập HTX.

Trong cải tạo công thương nghiệp, Đảng bộ chỉ đạo các ngành tập trung ở 3 khu vực: thị trấn Thọ Xuân, phố Đầm [Xuân Thiên], Bái Thượng [Xuân Bái] đưa gần 2.000 lao động tiểu thương nghèo vào HTX và thành lập 5 HTX thủ công nghiệp: HTX Tương Lai làm thảm xuất khẩu, HTX Nông cụ, HTX may Trường Xuân, HTX Đông Xuân làm mành xuất khẩu, HTX Minh Tiến [sau chia thành 2 HTX là Minh Thành và Quyết Thắng].

Năm 1960, 3 cơ sở Nông - Bắc - Dược được nhập thành HTX mua bán huyện. Với tổng số cán bộ, nhân viên là 280 người, đảm nhiệm việc thu mua nông - lâm sản - thực phẩm - rau đậu của nông dân ở các vùng và bán phân phối các mặt hàng thương nghiệp phục vụ sản xuất, tiêu dùng.

Sự nghiệp giáo dục ở Thọ Xuân trong những năm 1959 - 1960 phát triển mạnh. Toàn huyện đã thanh toán xong nạn mù chữ. Phong trào thi đua dạy tốt - học tốt, xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa, phong trào học tập và làm theo Bắc Lý diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu là trường Phổ thông cấp II Bắc Lương có phong trào làm đồ dùng phục vụ tốt cho việc dạy và học, giáo viên có nhiều giờ dạy tốt, học sinh có phong trào "Hàng cây em nuôi" và "Đường làng em sạch ", trường Thọ Nguyên với phong trào" Đội học tốt làm tốt ", trường Xuân Thành nhiều năm liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến, trường cấp I Thọ Hải điển hình về vở sạch, chữ đẹp, về lao động thể dục - vệ sinh, thường xuyên nề nếp.

Thời kỳ này Phòng Giáo dục huyện Thọ Xuân được thành lập, có sự tổ chức quản lý chuyên ngành giáo dục phát triển lên những đỉnh cao mới.

Năm học 1960 - 1961 hầu hết các xã mở lớp học Bổ túc văn hóa cấp I, cấp II, có hàng ngàn học viên được theo học. Trong đó đa số là cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên.

Cùng với học văn hóa , Đảng bộ chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng cho bộ, đảng viên và quần chúng. Nâng cao nhận thức về Cách mạng xã hội chủ nghĩa, và xây dựng quyết tâm chống Mỹ cứu nước.

Đảng bộ đã tích cực đấu tranh với những tư tưởng lệch lạc, triển khai thực hiện triệt để các cuộc vận động lớn của tỉnh như: “Ba xây - Ba chống”, “Cải tiến quản lý hợp xã”, “Đẩy mạnh các biện pháp khoa học thủy lợi ".

Bằng sự Đàng sự nỗ lực phấn đấu, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã thực hiện thắng lợi kế hoạch 3 năm lần thứ nhất và lần thứ hai [1955 - 1957, 1958 - 1960] hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục, phát triển kinh tế, văn hoá, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Với thành tích đạt được, Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân vững bước chuyển sang thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

II- ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THI ĐUA THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT [1961 - 1965]

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 05 đến 10 - 9 - 1960, định ra đường lối Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất đất nước.

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đôi với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.

Muốn đạt được mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng và văn hoá, về khoa học kỹ thuật, biến nước ta thành một nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến.

Đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, Tỉnh uỷ Thanh Hoá tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V [từ ngày 25-2 đến 5-3-1961]. Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch 3 năm [1958 - 1960], đề ra chủ trương biện pháp thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965] và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã khẳng định: Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân trong tỉnh đã căn bản hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra nhiều khả năng mới, các ngành kinh tế, văn hoá bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh và có chiều hướng ngày càng tiến bộ, khối đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố, chính quyền các cấp ngày càng được tăng cường, Đảng bộ được rèn luyện là yếu tố quyết định mọi thắng lợi.

Từ thực tế cách mạng trong tỉnh, Đại hội đã quán triệt sâu sắc đường lối Cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra. Chuyển hướng mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng bộ, xây dựng Đảng bộ mạnh về chính trị - tư tưởng - tổ chức.

- Củng cố khối đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh đấu tranh giữa 2 con đường, củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp trên cả 3 vùng, chú trọng khu vực miền núi, nâng cao tổng sản lượng lương thực, thực phẩm, tạo điều kiện để phát triển sản xuất công nghiệp, đảm bảo đủ hàng tiêu dùng cho nhân dân. Đồng thời tích cực phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, hoàn thành từng bước mục tiêu kinh tế, vãn hoá, xã hội của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

- Ra sức củng cố quốc phòng, sẵn sàng đập tan âm mưu thủ đoạn thâm độc của Mỹ - Diệm, bảo vệ miền Bắc, đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

Đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V đã được triển khai kịp thời rộng khắp. Toàn tỉnh dấy lên phong trào thi đua sôi nổi mạnh mẽ nhằm thực hiện 3 cuộc cách mạng “Cách mạng về quan hệ sản xuất, Cách mạng khoa học kỹ thuật, Cách mạng tư tưởng văn hoᔠtrong đó Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.

Ngày19-5-1961 Ban thường vụ Tỉnh uỷ ra Nghị quyết phát động phong trào “Thi đua đuổi kịp và vượt Hợp tác xã Đại Phong” nhằm thúc đẩy các HTX trong tỉnh tiến nhanh - mạnh trên mọi lĩnh vực.

Hưởng ứng phong trào thi đua sôi nổi của nhân dân trong tỉnh, Đảng bộ và nhân dân huyên Thọ Xuân đã cố gắng vượt bậc trong việc thực hiên hợp tác hoá nông nghiệp.

Cuối năm 1961, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức HTX bậc thấp ở Thọ Xuân đã căn bản hoàn thành, toàn huyện xây dựng được 293 HTX với 98,2% số hộ vào HTX. Đầu năm 1962 có 98,69% số hộ vào HTX, 96% đất đai đưa vào làm ăn tập thể, xây dựng 116 HTX từ bậc thấp lên bậc cao [tức là HTX liên xóm liên thôn]. Thực hiên công hữu hoá toàn diện trâu, bò, ruộng đất. Nhiều HTX đã công hữu vườn cây, ao cá, vườn chè, đồi luồng...

Việc xây dựng HTX bậc cao thực sự tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư khoa học kỹ thuật, xác lập quan hệ sản xuất và quan hê xã hội mới ở nông thôn. Tạo ra bướcchuyển biến tiến bộ trong đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương.

Tại hội nghị sơ kết phong trào thi đua đuổi kịp và vượt Đại Phong do UBHC tỉnh tổ chức ngày 16-10-1961, HTX Xuân Lai đã được công nhận là “ Lá cờ đầu” về cải tiến nông cụ, chứng tỏ sự trưởng thành và tiến bộ của nhân dân huyện nhà.

Cùng với phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, nông dân Thọ Xuân hưởng ứng chủ trương của Đảng, hăng hái tham gia mua cổ phần gia nhập HTX mua bán và HTX vay mượn tín dụng đạt 90%.

Năm 1961, nhờ sự chuyển đổi nhiều mặt trong sản xuất nông nghiệp nên cả 3 vụ lúa [màu] đều được mùa, bình quân mức thu nhập lương thực của nông dân toàn huyện đạt trên 300 kg/đầu người, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện, diện hộ thiếu đói được thu hẹp, đời sống văn hoá, tinh thần đang dần được nâng cao. Quan hệ sảnxuất [mới] cơ bản được xác lập. Chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Tạo ra những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hoá của nhân dân.

Đặc biệt: Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, Đảng bộ nhân dân Thọ xuân đã tạo ra sự biến đổi căn bản trên các lĩnh vực: giáo dục, y tế, thể dục thể thao.

Toàn huyện đã xây dựng mở rộng hệ thống trường lớp [mỗi xã xây dựng 1 trường cấp I, trường cấp II, toàn huyện xây dựng mở rộng trường cấp III] đảm bảo cho con em đồng bào các dân tộc học tập. Phong trào thi đua xây dựng trường lớp và giảng dạy học tập đạt chất lượng cao được tỉnh đánh giá là một trong những huyện dẫn đầu. Hệ thống bệnh viện, bệnh xá trong huyện được đầu tư xây dựng mới, được trang bị thuốc men và phương tiện chữa bệnh chăm lo sức khoẻ cho toàn xã hội. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển rộng và chất lượng cao: toàn huyện xây dựng 6 đội bóng chân giày, 23 đội bóng chân đất, 18 đội bóng chuyền. Các đội bóng chân giày Thọ Xuân đã từng thi đấu với các đội bóng của tỉnh trình độ chiến kỹ thuật không thua kém.

Các môn điền kinh: chạy, bơi lội đã từng đoạt giải cao trong các kỳ hội thao do tỉnh tổ chức. Sự nghiệp văn hoá - xã hội phát triển đã góp phần đưa thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN.

Trong không khí phấn khởi của nhân dân huyện nhà, tháng 12-1962 Đại hội đại biểu Đảng bộ Thọ Xuân lần thứ VII đã diễn ra. Đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII đề ra nhiệm vụ trọng tâm những năm tiếp theo là: xây dựng củng cố tổ chức Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường sự đoàn kết trong Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn, thành lập các Đảng uỷ xã và mở các lớp đối tượngkết nạp đảng viên 6/1 nhằm trẻ hóa đội ngũ đảng viên...

Về nông nghiệp, Đại hội chỉ rõ: Củng cố HTX, phát triển toàn diện, vững chắc, chú trọng cải tiến quản lý HTX đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích canh tác, tích cực thâm canh tăng vụ nâng cao năng suất và tổng sản lượng lúa và cây trồng. Tổ chức làm ruộng thí điểm [cấy thẳng hàng], đưa giống lúa có năng suất cao [như Mộc Tuyền, Quyết Thắng, Quyết Tiến, Nam Ninh] vào gieo trồng... Đẩy mạnh phong trào thi đua làm phân bùn ao, phân bắc, phân xanh, bèo hoa dâu. Thực hiện “sạch làng tốt ruộng”. Tổ chức phong trào làm thuỷ lợi, đào đắp kênh mương tưới tiêu khoa học, chủ động chống úng chống hạn. Cải tiến công cụ sản xuất [cày cải tiến, cày 51, bừa trục, bừa cỏ Nghệ An, xe cải tiến]. Phát triển chăn nuôi bảo vệ đàn gia súc, đảm bảo sức kéo và sinh sản. Thành lập xưởng Công nông [nông cụ] có mộc, rèn, cơ khí, sản xuất công cụ cầm tay, xe cải tiến phục vụ sản xuất cho nông dân... Tích cực phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, hoàn thành từng bước mục tiêu kinh tế, văn hoá xã hội của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Về an ninh - quốc phòng: Nâng cao cảnh giác cách mạng, củng cố an ninh quốc phòng, sẵn sàng đập tan âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động, góp phần đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 19 đồng chí [có 2 đồng chí là Ủy viên dự khuyết], 9 đồng chí là uỷ viênThường vụ. Đồng chí Trịnh Xuân Lưỡng được bầu làm Bí thư Huyện uỷ. Đồng chí Lê Văn Lữ, Phó Bí thư kiêm Chủ tịch UBND huyện. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII đã có tác dụng to lớn, thúc đẩy các phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Tháng 7 - 1963, Đảng bộ tỉnh tiến hành Đại hội lần thứ VI tiếp tục chỉ đạo toàn dân thi đua hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Tháng 11-1963, Thường vụ Tỉnh uỷ ra Nghi quyết về “Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi”.

Triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ các cấp, Huyện ủy Thọ Xuân đã tổ chức chỉ đạo nhân dân toàn huyện tiến hành các phong trào thi đua sôi nổi rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị, quân sự...

Từ đầu năm 1962 Huyện uỷ đã chọn HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] làm đơn vị chỉ đạo điểm về cải tiến quản lý HTX nông nghiệp. Quá trình tiến hành HTX Thắng Lợi đã thực hiện cải tiến quản lý sản xuất, quản lý tài vụ, xác định đúng mức khoán, thực hiện phân phối sản phẩm theo lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến công cụ sản xuất, đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, tưới tiêu chủ động khoa học, đẩy mạnh làm phân bón, nâng cao trình độ thâm canh tăng năng suất cây trồng và giải phóng đôi vai [bằng các xe cải tiến]. Do cải tiến quản lý, HTX Thắng Lợi đã trở thành đơn vị dẫn đầu toàn huyện và được Huyện uỷ đúc kếtkinh nghiệm chỉ đạo phong trào cải tiến quản lý HTX nông nghiệp trên địa hàn toàn huyện.

Giữa lúc phong trào thi đua sôi nổi đang diễn ra trên mọi lĩnh vực, tháng 6-1962 Đảng bộ và nhân dân huvện Thọ Xuân vinh dự được đón đồng chí Lê Duẩn về thăm. Đồng chí đến thăm đồng ruộng, làng xóm HTX Thắng Lợi [Xuân Thành], biểu dương thành tích trong lao động sản xuất và thực hiện cải tiến quản lý HTX. Đồng chí mong rằng Thọ Xuân sẽ có nhiều điểm sáng như Thắng Lợi [Xuân Thành] và phấn đấu đưa năng suất lúa, hoa màu cao hơn nữa...

Đáp ứng niềm mong muốn của đồng chí Lê Duẩn, những năm 1962 - 1965 HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] đã phấn đấu đi lên toàn diện trở thành đơn vị Anh hùng Lao động.

Từ sau trận lụt lớn năm 1954 đến đầu năm 1960, Thọ Xuân đào đắp hàng triệu mét khối đất đá, tu sửa nâng cấp hoàn thiện các tuyến đê sông Chu, sông Cầu Chày và sông Hoàng. Nhân dân các địa phương, chuẩn bị đất dự trữ, phương tiện, lực lượngphòng chống lụt bão. Nhờ vậy, trận lụt lớn năm 1962 các tuyến đê không hề bị sụt lở, mùa màng, tài sản, tính mạng của nhân dân trong huyện được an toàn.

Cùng với đắp đê, phòng chống thiên tai, Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân không ngừng tiến công mạnh mẽ trên mặt trận thuỷ lợi. Nhiều công trình thuỷ lợi trọng điểm được tập trung xây dựng, tu bổ, hàng trăm con mương tiểu câu được đào đắp đưa nước vào đồng ruộng. Trạm bơm Xuân Vinh xây dựng hoàn thành đã tưới nước cho các xã Thọ Trường, Xuân Vinh, Xuân Tân, Xuân Lập, Xuân Lai, Xuân Minh. Đào đắp hệ thống kênh mương [mới] dẫn nước tưới cho các xã Thọ Tân, Thọ Dân, Xuân Lộc, Xuân Thịnh. Xây dựng hệ thống thuỷ nông Cầu Nha phục vụ nước tưới cho các xã vùng tả ngạn [sông Chu]. Đào đắp hệ thống mương tiêu thuỷ chống úng, đào kênh Trường Giang ra đồng Ba Chạ. Đắp tiểu câu dẫn nước tưới cho vùng Thọ Xương. Xẻ tiểu câu đưa nước tưới cho vùng giáo Bích Phương, Ngọc Lạp.

Chỉ tính trong năm 1962, toàn huyện đã động viên 1.5 triệu ngày công, hoàn thành đào đắp 2 triệu mét khối đất đá trên các công trường nông giang, chi giang 6, đê sông Chu, sông Mực...

Do làm tốt công tác thuỷ lợi, Thọ Xuân đã chuyển được 1.000 ha đất hoa màu sang sản xuất lúa [2 vụ], chủ động tưới tiêu cho cây trồng.

Năm 1963 Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba về công tác thuỷ lợi.

Năm 1964 - 1965 Thọ Xuân tiếp tục huy động lực lượng lớn [với hàng ngàn lượt dân công, vật tư kỹ thuật, lực lượng cơ giới] tập trung vào đắp thêm 2 km đê bao quanh thị trấn Thọ Xuân phòng tránh lũ. Xây lắp cống ba cửa, cùng cống tiêu thuỷ, rút nước ngập úng từ cánh đồng Ba Chạ. Tuy phải hy sinh cục bộ một phần diện tích đất đai của xã Xuân Trường, Thọ Hải, thị trấn Thọ Xuân nhưng đã có tác dụng cứu úng cho hàng ngàn ha đồng ruộng của vùng Triệu Sơn

Nhờ làm tốt công tác đắp đê phòng chống lũ lut, xây dựng mở mang công trình thuỷ lợi, Tho Xuân đã giải quyết tốt việc chống úng, chống hạn, góp phần vào việc cải tạo đồng ruộng, nâng cao trình độ thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, bảo vệ an toàn mùa màng, tài sản, tính mạnh nhân dân. Góp phần đẩy lùi đói nghèo, hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hôi.

Để tiếp tục chỉ đạo nhân dân toàn huyện phấn đấu hoàn thành thắng lợi Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965]. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VIII được tiến hành trong 3 ngày: từ ngày 21 đến ngày 23-3-1963. Đồng chí Nguyễn Trong Vĩnh, Bí thư Tinh Uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đã đánh giá các mặt thành công và hạn chế trong phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, trong xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị, đời sống xã hội... Công bố việc Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.

Đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích canh tác, tăng trưởng, đẩy mạnh chăn nuôi, phát triển tiểu thủ công nghiệp, chuyển một số HTX nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao, bồi dưỡng đội ngũ bộ phận sản xuất, cán bộ HTX, củng cố phong trào hợp tác sử dụng, thực hiện 3 khoán: Khoán cho nhóm, công việc, công ty điểm. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công việc thương mại, tài chính, ngân hàng.Nâng cao trình độ, dân trí, sức khỏe, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, vệ sinh, thể dục thể thao. Nâng cao giác ngộ chính trị cho bộ phận và nhân dân, mài sắc tinh thần cảnh giác cách mạng, xây dựng lực lượng vững chắc, sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến.

Tăng cường giáo dục và nâng cao chất lượng, chú ý phát triển trẻ, xây dựng chi bộ Đảng ở nông thôn phát triển toàn diện và vững chắc.Nâng cấp đời sống nhân dân nhằm mục đích hoàn thành lợi ích của Đảng và Nhà nước trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965]. Đại hội bầu Ban chấp hành đảng bộ gồm 21 ủy viên chính thức, 2 Ủy viên dự khuyết, 9 Ủy viên thường vụ, đồng chí Nghiêm Quý Ngãi được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lê Văn Lữ làm Phó Bí thư Chủ tịch huyện.

Trong những năm 1963 - 1964, cuộc vận động cải tiến công việc quản lý HTX,cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp bước vào giai đoạn củng cố và đưa HTX nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao. Cải tiến hệ thống thủy lợi, tưới tiêu khoa học, đắp bờ vùng, bờ thửa, đưa giống mới có năng suất cao vào sản xuất [Nông nghiệp 8, Nông nghiệp 5, Khe nam lùn], thay vụ chiêm bằng vụ lúa xuân, thêm vụ màu, mở rộng dịch vụ, tích cực phòng trừ sâu bệnh, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng. HTX Đông Phương Hồng là một trong những đơn vị có trình độ thâm canh tăng năng suất lúa đã được bác học Lương Đình Của chọn làm điểm chỉ đạo sản xuất các loại lúa mới để nhân rộng trên địa bàn nhiều tỉnh.

Nhờ áp dụng tốt các biện pháp khoa học kỳ thuật vào sản xuất, Thọ Xuân đã thành hình điển hình của tỉnh trong phong trào thi đua 5 tấn vàHTX Thắng Lợi [Xuân Thành] và HTX Đông Phương Hồng [Thọ Hải] ngọn cờ tiêu biểu về thâm canh tăng năng suất lúa. Năm 1964 đạt 6,6 - 6,8 tấn thóc/ha.

Tại Thọ Xuân, trong 3 ngày [từ 15 đến 17-6-1964] Tỉnh ủy, UBHC tỉnh mở hội nghị tổng kết kinh nghiệm thâm canh, tăng năng suất của HTX Đông Phương Hồng.Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương và các đại biểu tỉnh bạn, các nhà khoa học đã tham gia Hội nghị.

Tổng hội nghị, đồng chí Nguyễn Chí Thanh khen ngợi Đông Phương Hồng có một chi bộ mạnh, với 24 đảng viên, tỷ lệ nữ khá [8 đồng chí] đội ngũ cán bộ hái nhiệt tình, có tinh thần cách mạng tiến công.Đồng ruộng của Đông Phương Hồng có hệ thống kênh mương máng hoàn chỉnh, chủ động tưới tiêu khoa học, bờ vùng, bờ thửa thẳng hàng vững chắc trông đẹp mắt.Từ kinh nghiệm thực tế sinh động sáng tạo này, mong rằng Đông Phương Hồng sẽ còn tiến mạnh hơn nữa ...

Từ sau hội nghị tổng kết tại Thọ Xuân, phong trào nhanh chóng và vượt qua Đông Phương Hồng đã trở thành phong trào thi đua sâu rộng trong toàn tỉnh.

Năm 1963 - 1965 thực hiện Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy về "Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi", năm 1962 Đảng bộ đã phát động nhân dân ở một số xã đi khai hoang xây dựng quê hương mới ở vùng trung du của huyện.

Ở Thọ Xuân có 54 xã với 293 HTX nông nghiệp, ruộng đất bình quân trên dưới 2 sào/khẩu. Một số xã dân số đông, đất sản xuất nông nghiệp ít nhưXuân Yên, Phú Yên, Tây Hồ, Xuân Thành, Xuân Khánh, Hạnh Phúc bình quân chỉ trên dưới 1 sào/khẩu.Vì thế nhiều vùng dân cư phải chợ búa ngược xuôi.Trong khi ở vùng trung du dân cư thưa thớt, đất đai màu mỡ, diện tích bỏ hoang nhiều.Vì thế tổ chức cho nhân dân một số xã mật độ dân số cao xây dựng vùng kinh tế mới là việc làm cần thiết để thể hiện sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ.Với phương châm: Vừa tiến hành thực hiện vừa mở rộng diện tích sản xuất, bố trí lại dân cư, phân bổ lao động phù hợp giữa các vùng kinh tế trong huyện, vừa xây dựng quê hương mới, phát triển kinh tế - văn hóa vùng trung du của huyện và đi xây dựng kinh tế mới ở các huyện miền núi Thanh Hóa. The Thực hiện tốt chủ trương trên, Đảng bộ chỉ đạo các cấp, các tổ chức ngành cho nhân dân học tập, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc "khai hoang xây dựng phát triển vùng kinh tế mới"

Buớc đầu đưa ra thanh niên đi khai phá, sau đó đưa các hộ gia đình đến làm nhà cửa, tiếp tục khai phá đất đai tổ chức sản xuất.Thực hiện chính sách khuyến khích giúp đỡ đồng bào đi khai hoang, đồng thời phát động nhân dân ở địa phương đoàn kết giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn buổi đầu.

Đồng chí Chủ tịch xã Tây Hồ đã cùng gia đình và 20 hộ vào Đồng Cáo xã Thọ Bình khai hoang xây dựng HTX mới. Đồng chí Chủ tịch xã Xuân Yên cùng gia đình và 19 hộ gia đình ở làng Mác, làng Quảng [Thọ Bình] khai hoang thành lập HTX. Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Phú Yên cùng gia đình và 25 hộ gia đình đến Đồng Chó xā Xuân Cẩm, Xuân Dương khai hoang thành lập làng mới. Đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy xã Xuân Thành cùng gia đình và 25 hộđến xã Ngọc Phụng khai hoang thành lập HTX [nay thuộc huyện Ngọc Lặc]. Đồng chí chủ nhiệm HTX Hồng Kỳ xã Xuân Bái tình nguyện đem 32 hộ sang Thường Xuân khaihoang thành lập HTX Tân Lập [trong đó có 8 hộ thương nghiệp ở Bái Thượng]. Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Thọ Diên cùng 22 hộ đivề 2 xã Cao Thịnh và Thái Sơn [Ngọc Lặc] khai hoang phát triển kinh tế. Xã Thọ Nguyên đã tích cực vận động được 68 hộ = 237 nhân khẩu đi định cư khai hoang tại Thường Xuân và Ngọc Lặc.

Từ năm 1962 đến năm 1964, 18 xã đông dân cư như Xuân Yên, Phú Yên, Xuân Thiên, Xuân Khánh, Hạnh Phúc, Tây Hổ, Xuân Lai, Thọ Trường, Thọ Nguyên ... đã vận động gần 500 hộ, gồm 1.680 khẩu đi xây dựng quê hương mới tại các xã Phùng Giáo, Kiên Thọ [Ngọc Lặc], Khe Hạ, Xuân Cao, Xuân Cẩm [Thường Xuân], Thọ Bình, Thọ Sơn [Triệu Sơn], Xuân Thắng, Xuân Phú [Thọ Xuân]. Đã khai hoang đưa vào sản xuất 560 ha đất, bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế khá tốt. Riêng xã Thọ Nguyên đã vận động 68 hộ gồm 237 khẩu đi khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới.

Các gia đình đi khai hoang xây dựng quê hươngmới tích cực phấn đấu được chính quyền và nhân dân địa phương giúp đỡ tận tình, nhờ đó đời sống kinh tế,văn hóa dần dần phát triển, nhiều khu vực khai hoang lập làng mới trở thành vùng kinh tế trù phú.Nhiều HTX khai hoang trở thành mô hình tốt về tổ chức sản xuất.

Năm 1961-1962 ngành Thương mại phát triển mạnh, Huyện chủ trương phân chia thành các cửa hàng ăn uống, thực phẩm, bách hóa và mua bán tập thể. Mở thêm một số quầy, cụm thu mua nông sản, thực phẩm làm đại lý cho Mậu dịch quốc doanh.

Năm 1963, nhân dân trong huyện đã bán cho Nhà nước trên 800 tấn nông sản các loại, cung cấp nguyên liệu cho một số nhà máy, xí nghiệp đóng trên địa bàn huyện, xuất khẩu một số mặt hàng. Khai thác trên 9.000 mét khối gỗ và hơn 1,5 triệu cây luồng, nứa cung cấp cho các công ty trong huyện ...

Huyện chỉ đạo ngành Tài chính, Thương nghiệpthực hiện cuộc vận động “Ba xây, Ba chống”. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức cần kiệm, nâng cao năng lực quản lý kinh tế, ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động sản xuất và công tác. Kiên quyết định chống tham ô và lãng phí, quan liêu. Nâng cao quan điểm phục vụ. Khắc phục xu hướng kinh doanh đơn thuần, thiếu tính hợp tác xã hội chủ nghĩa.

Huyện chủ trương đào tạo tổ chức bố trí từ 25 đến 30% lao động trong các HTX nông nghiệp làm các ngành nghề tiểu thủ, hướng tới xây dựng các HTX tiểu thủ công nghiệp vào đầu năm 1970. Nhằm giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định xã hội.

Năm 1962 ngành Giáo dục Thọ Xuân được vinh dự đón Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên. Bộ trưởng đã đi thăm một số trường tiêu biểu: Thọ Hải, Thọ Nguyên, Thọ Lâm, Phú Yên, Xuân Minh, Xuân Hoà, Bắc Lương, và khen ngợi sự nghiệpgiáo dụcở Thọ Xuân đã xây dựng được nhiều trường tiên tiến, làm cho sự nghiệp giáo dục trở thành sự nghiệp chung của Đảng bộ, nhân dân toàn huyện. Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã đầu tư xây dựng mở rộng lớp hệ thống trường lớp, mua sắm trang thiết bị học tập đảm bảo cho thanh thiếu niên trong huyện có điều kiện học tập phát triển tài năng.Số lượng học sinh năm sau cao hơn năm trước.

Tính đến năm 1962, toàn huyện có 9.617 học sinh vỡ lòng, có 20.022 học sinh cấp I với 56 trường 482 lớp, có 2.011 học sinh cấp II với 7 trường 62 lớp, có 597 học sinh cấp III với 12 lớp. Bổ túc văn hóa cấp I có 5.371 học viên, cấp II có 1.709 học viên, cấp III có 180 học viên. Năm 1962, huyện thành lập thêm 3 trường phổ thông chức năng ở Xuân Lập, Thọ Hải, Xuân Thịnh. Học viên được học văn hóa hết cấp II, vừa học văn hóa, vừa thực hiện kỹ thuật sản xuất nông nghiệp.

Cùng với sự phát triển của sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp y tế, văn hóa, thể dục thể thao được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức các hoạt động.

Hệ thống bệnh viện huyện, tạm xá xã cung cấp đầy đủ thuốc men và phương tiện chữa bệnh. Đội ngũ thầy thuốc được tăng cường về số lượng và được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn; khả năng chữa bệnh. Trạm xá xã trồng 45 loại thuốc nam chữa bệnh thông thường và kết hợp đông - tây y trong chuẩn đoán và điều trị bệnh tật.

Huyện chỉ đạo xây dựng, cùng cố và đầu tư kinh phí hoạt động cho các đội văn nghệ, bóng đá, bóng chuyền. Nhờ đó phong trào văn hóa nghệ thuật quần chúng phát triển mạnh, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân tích cực xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên què hương thân yêu của mình.

Kiên quyết đập tan âm mưu chống đối của các thế lực thù địch, dưới sự chỉ đạo của Huyện Ủy, quân và dânThọ Xuân đã kết hợp công an đập tan tổ chức phản động do Lường Mạnh Huân cầm đầu.

Lường Mạnh Huân quê xã Hoàng Lưu, huyện Hoằng Hóa.Trong kháng chiến chống Pháp, y tham gia tổ chức phản động "Liên tôn diệt cộng", cải cách ruộng đất bị quy thành phần địa chủ phản động, bị kết án 5 năm. Y đã trốn ra Hà Nội, lên Sơn La chui vào cơ quan Nhà nước, sau đó trở về Hoằng Hóa tiếp tục con đường chống phá cách mạng. Y đã liên hệ với phản động tổ chức cái gọi là “Đảng Cách mạng quốc gia Việt Nam” xây dựng chân rết tổ chức ở các huyện: Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Thường Xuân, Lang Chánh, Yên Định, Hoằng hóa, Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc ...

Tại Thọ Xuân: Năm 1959, Huân đến xứ đạo Phúc Địa [Quảng Phú] liên hệ với một số phần từ phản động gây dựng cơ sở. Sau đó sang khu Hữu Lễ liên lạc Lý Xuân xây dựng cơ sở ở khu vực đồng bào Mường thuộc các xã giáp ranh 2 huyện Thọ Xuân - Ngọc Lặc. Sau đó mở rộng các lớp nói trên.

Đến tháng 4 - 1962 tổ chức phản hồi Lường Mạnh Huân đã xây dựng được 1l chi bộ, gồm 157 cấp viên, sau đó phát triển lên 347 đảng viên và mở rộng hoạt động ở khu vực miền núi Thanh Hóa. Riêng Thọ Xuân và Ngọc Lặc tay chân của họ đã được bầu vào Ban chấp hành của huyện.

Chủ trương của chúng thời kỳ đầu không hoạt động vũ trang mà chỉ xây dựng tổ chức và tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo, tìm cách mua chuộc, cưỡng ép, tha hoá cán bộ ... Chúng cấu kết Mỹ - ngụy ở Sài Gòn thông qua con đường liên hệ với quán sứ của Diệm ở Viên Chăn [Lào] xin vũ khí, phương tiện chiến tranh và người chỉ đạo.

Được nhân dân địa chỉ theo dõi phát hiện và trình báo,Ty Công an tỉnh đã điều tranắm bắ âm mưu thủ đoạn và hoạt động của chúng. Ngày 26-3-1962 quyết định thành lập chuyên án T 236 ", cử đồng chí Tống Xuân Nhuận, Phó ty trực tiếp chỉ đạo thực hiện chuyên án.

Ngày 25-4-1962 Thường vụ Tỉnh Ủy chỉ thị Ty Công an phá án với chiến thuật nhanh chóng. Lường Mạnh Huân và Nguyễn Tiến Sinh, Nguyễn Vân Chức dã bị bắt tại cầu Thiều [trên đất Nông Cống, nay thuộc Triệu Sơn], cùng 109 tên đầu sỏ khác.

Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án, tuyên phạt Lường Mạnh Huân tử hình, 25 tên tòng phạm nguy hiểm lĩnh án tù giam từ 3 đến 20 năm. Năm 1963 Tòa án tối cao phê duyệt y án tử hình Lường Mạnh Huân và tổ chức thi hành án tại Sân vận động Bái Thượng [Thọ Xuân].

Giữa lúc nhân dân cả nước đang hăng hái thi đua phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961-1965], vào tháng 3-1964, Tổng thống Mỹ L. Giôn Xơm đã phê chuẩn kế hoạch ném bom miền Bắc [thông qua 94 mục tiêu, trong đó Thanh Hóa là một trọng điểm đánh phá lớn] hòng phá hoại sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, ngăn chặn việc tiếp tế cho cách mạng miền Nam, nhằm cứu nguy cho chiến lược chiến tranh đặc biệt đang có nguy cơ bị sụp đổ.

Trước tình hình đó, ngày 27 và 28 tháng 4 năm 1964 Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt và cất tiếng gọi "Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt".

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 6-5-1964, Ban Thư ký Tỉnh ủy ra chi thị cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đề cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi hành độngkhiêu khích phá hoại của giặc Mỹ và ngăn chặn kịp thới hành động chống phá của bọn phản động.

Cũng như Đảng bộ và nhân dân các huyện, thị trong tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân kịp thời chuyển hướng từ thời bình sang thời chiến, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường côngtác quốc phòng, sẵn sàng đối phó với tình hình địch mở rộng quy mô trên toàn miền Bắc.

Huyện chỉ đạo hướng dẫn tổ chức nhân dân ở mỗi gia đình, ngõ xóm, làng xã, trong toàn huyện đào hào trú ẩn, tích cực bảo mật phòng gian. Cùng với các ban, ngành chuyên môn lập phương án bảo vệ vùng trọng điểm như: Đập Bái Thượng, Nhà máy Điện Bàn Thạch, các kho hàng, lương thực, sân bay Sao Vàng, mở đường giao thông chiến lược, đẩy mạnh công tác củng cố, huấn luyện, trang bị cho lực lượng dân quân, tiến hành đăng ký quân dự bị ...

Nhận rõ vai trò quan trọng của lực lượng quân đội đóng trên địa bàn, Đảng bộ huyện đã tích cực, động viên nhân dân đóng góp công sức, cùng với bộ đội đào đắp công sự, ụ pháo ra đa, làm lán trại, đào hầm hào đóng góp vật liệu [luồng, gỗ, tranh, tre, nứa, lá]. Nhân dân ở các xã Xuân Phú, Xuân Thắng, Thọ Lâm, Xuân Hưng, Xuân Bái, Xuân Hoà, Thọ Hải ... đã ủng hộ bộ đội số lượng vật liệu lớn. Các chi đoàn, xã đoàn, các đội thiếu niên đã tổ chức kết nghĩa với các đơn vị bộ, xây dựng tình cảm "Quân dân thắm thiết".

Sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến, ngay trong năm 1964, huyện đã tổ chức tiểu đoàn gồm 300 chiến sĩ tình nguyện đi tiền phương, trang bị lương thực, thực phẩm 10 ngày và long trọng làm lễ xuất quân bàn giao cho tỉnh tại 2 xã Xuân Phú, Xuân Thành.

Với tinh thần "Tất cả vì miền Nam ruột thịt, mỗi người làm việc bằng hai". Nhiều hợp tác đã phát động phong trào thi đua "5 tấn thắng Mỹ" điển hình là HTX Thắng Lợi, HTX Đông Phương Hồng ... Nhiều “Cánh đồng 5 tấn” xuất hiện trên địa bàn huyện.

Huyện chỉ đạo toàn dân làm đường giao thông liên hương, liên xã, tích cực làm nghĩa vụ lương thực, thực phẩm cho Nhà nước. Sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến với tinh thần"Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", thi đua sản xuất xây dựng quê hương, góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội được Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đặc biệt quan tâm. Hai trung đoàn thuộc Sư đoàn 330 và một số đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn đã được Đảng bộ, nhân dân huyện nhà cung cấp lương thực, thực phẩm, cho mượn nhà, mượn đất để xây dựng doanh trại đóng quân và tập luyện.Cán bộ, chiến sĩ ốm đau, các mẹ, các chị thăm nuôi giúp đỡ.Thanh niên các địa phương kết nghĩa với từng đơn vị, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và huấn luyện quân sự. Bằng tình cảm dân quân cá nước, Sư đoàn đã được xây dựng cho con em xã Tây Hồ trường cấp I và cấp II gồm hàng chục phòng học. Sư đoàn đã tham gia xây dựng Nhà máy Thuỷ điện Bàn Thạch, đắp đê, chống úng, chống hạn.Sư đoàn đã tham gia xây dựng các Lâm trường Sông Âm, Lam Sơn, Thống Nhất ... Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 330 đã để lại hình tượng cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ trong trái tim nhân dân Thọ Xuân. Tình cảm cao quý của Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân tiếp thêm sức mạnh cho Sư đoàn chiến đấu và chiến thắng.

Việc thực hiện chính sách đối với các gia đình bộ đội, thương binh, liệt sĩ được cụ thể chi tiết hóa. Giải quyết việc làm cho các chiến sĩ còn sức khỏe, phân công chăm nuôi thương binh nặng, giúp đỡ tạo điều kiện cho con em thương binh, liệt sĩ học tập, thăm hỏi giúp đỡ các gia đình neo đơn khó khăn ...Thanh thiếu niên tổ chức các phong trào đền ơn đáp nghĩa các gia đình chính sách, phụ nữ chăm lo cho thương binh, các gia đình liệt sĩ, HTX thực hiện chính sách điều hoà lương thực, giúp đỡ cày cấy, xây dựng nhà cửa, chăm sóc lúc ốm đau ... Việc thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội đã tạo ra động lực cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ công tác chiến đấu trên các chiến trường lập công xuất sắc

Xây dựng Đảng bộvà hệ thống vững mạnh, nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi cho việc tổ chức lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Trong những năm 1961 - 1965 Đảng bộ tập trung vào nhiệm vụ tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận. Đồng thời tích cực bồi dưỡng kết nạp đảng viên, đặc biệt là đảng viên nữ trẻ khỏe, có năng lực trình độ, đào tạo đội ngũ nữ sẵn sàng thay thế nam giới ... xây dựng hệ thống tổ chức mạnh từ Đảng bộ xã đến chi bộ HTX.

Hội đồng nhân dân, UBHC và đoàn thể quần chúng: Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ... đã thực hiện tốt chức năng, tổ chức đoàn kết chỉ đạo toàn dân xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, góp phần đấu tranh thống nhất Tổ quốc Các nội chính ngành: Tòa án, Công an, Kiểm sát không ngừng củng cố về tổ chức và nghiệp vụ, tích cực đi về cơ sở [HTX] để tuyên truyền, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần củng cố HTX, đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ quyền lợi tinh thần, vật chất cho nhân dân.

10 năm hòa bình xây dựng quê hương, bằng sự phấn đấu nỗ lực, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã kiên cường dũng cảm và sáng tạo, khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, khôi phục phát triển kinh tế, văn hóa, hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, tạo ra thực lực to lớn góp phần cùng quân dân cả tỉnh, cả nước đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của giặc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945

[ĐCSVN] - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.

Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ [Ảnh tư liệu]

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn [như công nghiệp vận tải, ngân hàng…] của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga [1917], đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[1]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [Dự án để thảo luận trong Đảng] được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[2]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3]. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày”[4]. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”[5]. Trong thư này, Ban thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó [địa chủ] mà giao cho bần và trung nông”[6]. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất [3/1935]. Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” [phê bình và tự phê] với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[7]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[8]. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân [kẻ thù] chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập [thi hành quyền dân tộc tự quyết]. 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công [Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la][10]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[11].

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ [5/1936]. Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12].

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[16]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[17]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt minh]. Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[18]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[19].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[20].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” [1927] và cương lĩnh cách mạng đầu tiên [chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt] của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Trang 562

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 235

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 236

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 299

[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[16] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[19] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[20] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

BÀI 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - NGƯỜI TỔ CHỨC, LÃNH ĐẠO MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Thứ ba - 21/07/2020 08:30 141.100 0


I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI, CHẤM DỨT SỰ KHỦNG HOẢNG VỀ ĐƯỜNG LỐI GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, MỞ RA SỰ PHÁT TRIỂN MỚI CỦA CÁCH MẠNG VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

1.1. Sự khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam

Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, đẩy mạnh xâm chiếm các nước thuộc địa. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ra đời. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt.

Trước tình hình đó, phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến Việt Nam. Đặc biệt, thắng lợi của cuộccách mạngtháng Mười Nga [năm 1917] và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản [Quốc tế III năm 1919] làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới, mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Đối với Việt Nam, ngày01-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Năm 1884, triều đình nhà Nguyễn ký với Chính phủ Pháp bản Hiệp ước Pa-tơ-nốt thừa nhận sự thống trị của thực dân Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Thực dân Pháp xác lập chế độ cai trị và khai thác thuộc địa ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực:

Về chính trị: thực dân Pháp thực thi chính sách “chia để trị”.

Về kinh tế: thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất [1897-1914], lần thứ hai [1919-1929].

Về văn hoá: thi hành triệt để chính sách văn hoá nô dịch, ngăn chặn mọi ảnh hưởng của nền văn hoá tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam.

Dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc:

Về tính chất xã hội: từ xã hội phong kiến thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.

Về mâu thuẫn cơ bản trong xã hội: nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản:mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai;mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.

Về cơ cấu giai cấp trong xã hội:giai cấp cũ bị phân hoá [địa chủ phong kiến và nông dân]; đồng thời, xuất hiện những giai cấp và tầng lớp mới [công nhân, tư sản và tiểu tư sản].

Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra những yêu cầu cơ bản cần phải giải quyết, đó là: đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, tự do cho Nhân dân và xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho Nhân dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ trước mắt và nổi lên hàng đầu.

Trước yêu cầu của lịch sử, phong trào đấu tranh chống Pháp đã diễn ra mạnh mẽ:

- Phong trào Cần Vương [1885 - 1896]: điển hình là các cuộc khởi nghĩa Ba Đình [Thanh Hoá], Bãi Sậy [Hưng Yên], Hương Khê [Hà Tĩnh]…, với những sĩ phu phong kiến yêu nước như: Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng...

- Khởi nghĩa nông dân Yên Thế [Bắc Giang] dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh nông dân Hoàng Hoa Thám, là cuộc đấu tranh anh dũng của nông dân Việt Nam kéo dài gần 30 năm [1884 - 1913].

-Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh.

Phan Bội Châu chủ trương bạo động để giành độc lập dân tộc nhưng dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài [dựa vào Nhật để đánh Pháp], thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến như của Nhật [1905] và sau đó theo chế độ cộng hoà tư sản như ở Trung Quốc [1912].

Phan Chu Trinh chủ trương bất bạo động, tiến hành cải cách văn hóa, mở mang dân trí, làm cho dân giàu, nước mạnh, nhưng lại dựa vào nhà nước “bảo hộ Pháp”.

+ Phong trào Quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên [1919-1923].

+ Phong tràoYêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới [1925 - 1926].

+ Phong trào Cách mạng quốc gia tư sản củaViệt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu [1927 - 1930] và cuộc khởi nghĩa Yên Bái [tháng 02-1930].

Như vậy, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến, tư sản của Nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi và liên tục, nhưng tất cả đều không thành công. Sự thất bại đó do nguyên nhân các giai cấp lãnh đạo đã lạc hậu, non yếu; không nhận thức đúng yêu cầu khách quan của lịch sử gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; không tập hợp và tổ chức được đông đảo các giai tầng yêu nước; những hạn chế trong phương pháp đấu tranh… Việt Nam lâm vào khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho các thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.

1.2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong hoàn cảnh Việt Nam đang rơi vào khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc,với nhiệt huyết cứu nước, với thiên tài trí tuệ, nhãn quan chính trị sắc bén và được kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, ngày 05-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.

Nguyễn Tất Thành sang Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân. Trải qua nhiều nghề lao động khác nhau, Người đã rút ra một kết luận quan trọng: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác, ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man.

Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ ở Pháp lúc đó. Tháng 6-1919, các nước thắng trận họp Hội nghị Hoà bình ở Vécxây [Pháp], Nguyễn Ái Quốcthay mặt Hộinhững người Việt Nam yêu nước ở Phápgửi tới hội nghị bản yêu sách tám điểm[1]. Những yêu sách của Người không được Hội nghị đáp ứng. Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn”. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địacủa V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanite [Nhân đạo], số ra ngày 16 và 17-7-1920. Những luận điểm cách mạng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc mà sau gần mười năm tìm kiếm [1911 - 1920] Nguyễn Ái Quốc mới bắt gặp.

Tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp [tháng 12 - 1920], Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba [Quốc tế Cộng sản do Lênin thành lập]. Đây cũng là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản.

Từ đây, Người tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị các tiền đề vềtư tưởng, chính trị và tổ chức, cán bộ cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở Việt Nam.

Về tư tưởng:Người tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với Nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh Nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng.

Về chính trị:thông qua những tác phẩm lý luận tiêu biểu, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc. Cách mạng muốn giành được thắng lợi thì “trước hết phải có Đảng cách mệnh”.

Về tổ chức:tháng 6-1925, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập tại Quảng Châu [Trung Quốc], từ đó đã có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Tháng 3-1929, tại số nhà 5D, phố Hàm Long, Hà Nội, Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam ra đời. Tiếp đó, các tổ chức cộng sản liên tiếp được thành lập: Đông Dương Cộng sản Đảng tại Bắc Kỳ [tháng 6-1929], An Nam Cộng sản Đảng tại Nam Kỳ [tháng 11-1929] và Đông Dương Cộng sản liên đoàn tại Trung Kỳ [tháng 01-1930].

Sự ra đời của các tổ chức cộng sản phản ánh sự phát triển nhảy vọt của phong trào cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên,sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia là nguy cơ dẫn đến chia rẽ trong phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân vàNhân dân Việt Nam.

Với sự nhạy bén về chính trị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ ngày06-01 đến ngày07-02-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long [Hương Cảng, Trung Quốc] dưới sự chỉ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, Hội nghị thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng. Trong đó, nội dung của Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt thể hiện rõ đường lối của cách mạng Việt Nam, với chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã phản ánh sự kết hợp giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; đồng thời,là sản phẩm của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụNguyễnÁi Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.

II. QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NAY

2.1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền và bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc

2.1.1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền và Tổng khởi nghĩatháng Tám năm 1945


Với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và tầng lớp yêu nước không phân biệt dân tộc, tôn giáo xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp trong cả nước, đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai.

Qua 15 năm [1930-1945] lãnh đạo cách mạng, trải qua đấu tranh gian khổ, mặc dù gặp phải những tổn thất hy sinh to lớn nhưng Đảng vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, kiên định cách mạng, trung thành với mục tiêu tư tưởng của mình. Đảng đã lãnh đạoNhân dân tiến hành ba cao trào cách mạng, đó là:
- Cao trào cách mạng [1930-1931] với đỉnh cao Xô viết-Nghệ Tĩnh.
- Cao trào cách mạng dân sinh, dân chủ [1936-1939].

- Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc [1939-1945] với đỉnh cao Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trên cơ sở nắm bắt tình hình trong nước và quốc tế, Đảng đã dự báo đúng thời cơ lịch sử và chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để lãnh đạoNhân dân tiến hành khởi nghĩa. Với nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩaCách mạngtháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn. Chỉ trong một thời gian ngắn [từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945],Nhân dân Việt Nam đã vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, lật nhào chế độ phong kiến tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.

Ngày02-9-1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước củaNhân dân, doNhân dân và vìNhân dân, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do, tiến lênchủ nghĩa xã hội. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:“Chẳng những giai cấp lao động vàNhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng:lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

2.1.2. Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng [1945-1946]

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt những khó khăn, thách thức nghiêm trọng: nền kinh tế kiệt quệ, ngân sách quốc gia trống rỗng, nạn đói tiếp tục đedọa; hơn 90% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại nặng nề; trong khi đó, ngoại xâm và nội phản câu kết với nhau để cùng chống phá chính quyền cách mạng non trẻ. Vận mệnh của Tổ quốc như“ngàn cân treo sợi tóc”.

Trước yêu cầu mới của lịch sử, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng...Cụ thể là:
- Lãnh đạo xây dựng chế độ dân chủ nhân dân:tiến hành bầu cử Quốc hội khoá I [06-01-1946], thành lập Chính phủ chính thức [02-3-1946] và thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà [09-11-1946].

- Phát động phong trào chống “giặc đói”, “giặc dốt”, xây dựng nền văn hoá mới, xoá bỏ tàn dư văn hoá nô dịch của thực dân.

- Lãnh đạoNhân dân Nam Bộ tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp ngay từ thời điểm thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam lần thứ hai [23-9-1945].

- Tiến hành đấu tranh trên mặt trận ngoại giao:trên cơ sở phân tích âm mưu, thủ đoạn của các kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam, Đảng đã thực hiện sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù để phân hoá chúng, tránh tình thế cùng một lúc đương đầu với nhiều kẻ thù. Đó là:
+ Thực hiện sách lược nhân nhượng,hòahoãn với quân đội Trung Hoa Dân quốc và tay sai của chúng ở miền Bắc để tập trung kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ [từ tháng09-1945 đếntháng 03-1946].

+ Thực hiện sách lượchòahoãn, nhân nhượng với Pháp để đẩy nhanh quân đội Trung Hoa Dân quốc về nước, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược [từ tháng 3-1946 đến tháng 12-1946].

Với đường lối đúng đắn, sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng đã huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm, củng cố giữ vững chính quyền cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
2.1.3. Đảng lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp [1946-1954].

Bất chấp nguyện vọng yêu chuộng hòa bình củaNhân dân ta, mặc dù chúng ta đã nhân nhượng, chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta một lần nữa. Ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương công bố Chỉ thị Toàn dân kháng chiến và cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Thực hiện chủ trương kháng chiến của Đảng và đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh,Nhân dân cả nước đã nhất tề đứng lên với quyết tâm:“thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng ta đã tổ chức, lãnh đạoNhân dân vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến09 năm chống thực dân Pháp xâm lược.

Chiến thắng Điện Biên Phủ [từ ngày 13-3-1954 đến ngày07-5-1954] đã đi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân cũ. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này, Hồ Chủ tịch viết:“Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của các lượng hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội thế giới”...

Thắng lợi đó đã làm sáng tỏ một chân lý:trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ yếu nhưng một khi đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính Đảng Mác-Lênin để giành độc lập và dân chủ thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

2.1.4. Đảng lãnh đạoNhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược [1954-1975]

Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm:đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Miền Bắc đã có hoà bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang bắt đầu xây dựng một xã hội mới. Miền Nam vẫn còn dưới ách đô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Con đường phát triển của cách mạng nước ta lúc này được Đảng ta xác định là phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:

Một là, tiến hành cách mạngxã hội chủ nghĩaở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc của cả nước.

Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Như vậy, đặc điểm lớn nhất, nét độc đáo của cách mạng Việt Nam thời kỳ này là một Đảng thống nhất lãnh đạoNhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược. Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Cách mạng miền Nam giữ vị trí quan trọng, tác động trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Hơn 20 năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt từ năm 1965 trở đi miền Bắc phải trực tiếp đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng,Nhân dân miền Bắc đã kiên cường trong sản xuất và chiến đấu, giành được những thành tựu to lớn, đồng thời chi viện đắc lực cho miền Nam...Hàng triệu tấn lương thực và vũ khí, trang bị; hàng vạn thanh niên nam nữ hăng hái lên đường vào miền Nam chiến đấu. Miền Bắc đã dốc sức vào chiến tranh cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa của cách mạng cả nước, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội.

Đế quốc Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn, thử nghiệm mọi chiến lược chiến tranh, sử dụng các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Quymô, tính chất cũng như mức độ ác liệt của cuộc chiến tranh màNhân dân ta phải đương đầu chịu đựng chưa từng có trong lịch sử.
Song,Nhân dân miền Nam nói riêng vàNhân dân Việt Nam nói chung đã kiên cường vượt qua gian khổ hy sinh, kiên quyết đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ:

- Chiến lượcChiến tranh điển hình của chủ nghĩa thực dân mới [1954-1960].
- Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” [1961-1965].

- Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” [1965-1968].

- Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” [1969-1975].

Với những thắng lợi đó, miền Nam đã xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”, sát cánh cùng đồng bào miền Bắc đánh bại mọi âm mưu, chiến lược của đế quốc Mỹ, góp phần trực tiếp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trải qua 21 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng,Nhân dân cả nước đã chiến đấu kiên cường anh dũng với sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế; bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,Nhân dân ta đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi củaNhân dân ta trong sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước sẽ mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

2.2. Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ năm 1975 đến nay
2.2.1. Chủ trương và sự lãnh đạo của Đảng trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước [1975-1986]


Ngay sau khi giải phóng miền Nam, mặc dùNhân dân đã làm chủ toàn bộ đất nước, nhưng về mặtnhà nước thì vẫn còn haiChính phủ, hai tổ chức mặt trận và các đoàn thể quần chúng ở hai miền Nam-Bắc. Đáp ứng nguyện vọng tha thiết củaNhân dân cả nước, đáp ứng quy luật khách quan của cách mạng và lịch sử dân tộc Việt Nam, Đảng đã lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Ngày 25-4-1976, cử tri cả nước bỏ phiếu [bầu Quốc hội chung của cả nước với 492 đại biểu đủ các thành phần [Quốc hội khoá VI]. Ngay sau đó, các tổ chức đoàn thể cách mạng cũng nhanh chóng được thống nhất.

Từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước trong giai đoạn mới và đường lối xây dựng kinh tế -xã hội. Đại hội đã bổ sung Điều lệ Đảng và đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Đảng đã lãnh đạoNhân dân cả nước thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm [1976-1980] và tiến hành cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.

Từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã chỉ ra chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ bao gồm 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến năm 1990; đồng thời, chỉ ra những nhiệm vụ bứcthiết trước mắt về kinh tế - xã hội của đất nước.

Thực hiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng,Nhân dân cả nước đã hăng hái tham gia khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống. Đồng thời, tập trung thực hiện nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự - an toàn xã hội.

Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được trong hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước [1975-1986] còn thấp so với yêu cầu đặt ra và so với tiềm năng của đất nước; nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, phân phối lưu thông rối ren, lạm phát “phi mã”, tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng; niềm tin củaNhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng giảm sút.

Trước những khó khăn, thách thức đó, các địa phương, cơ sở và các tầng lớp nhân dân đã có những tìm tòi, đổi mới cách nghĩ, cách làm. Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Trung ương Đảng đã có những bước đổi mới từng phần nhằm giải đáp những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.

2.2.2. Đường lối đổi mới và quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến nay

- Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng [tháng12-1986] đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những thành tựu đã đạt được, đồng thời chỉ ra những yếu kém trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, từ đó phân tích những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo phát triển kinh tế. Với tinh thần trách nhiệm vì nước, vì dân, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và đối ngoại, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Đại hội chỉ rõ Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.

Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, thể hiện bước trưởng thành mới của Đảng, “đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quá trình kế thừa và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thành công của Đại hội là sức mạnh mới, là cơ sở hết sức quan trọng để tăng cường hơn nữa sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và toàn dân ta”.

-Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
[tháng6-1991] diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường tác động sâu sắc đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta: các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lâm vào khủng hoảng toàn diện; các thế lực thù địch ra sức chống phá quyết liệt từ nhiều phí nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực; Việt Nam sau05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI đã có những bước khởi sắc, tuy nhiên chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội…

Đại hội VII của Đảng xác định: “mục tiêu tổng quát của05 năm tới vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”[1].

Đặc biệt, Đại hộiđã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độlên chủ nghĩa xã hội[gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991], Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hộiđến năm 2000 và Nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 1991-1995. Đại hội đưa ra quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

-Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, đất nước đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go, nhất là sự khủng hoảng của hệthống xã hội chủ nghĩa những năm 1989-1991. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng [từ ngày 22-6 đến ngày01-7-1996] đã nhận định:công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Đại hội quyết định chuyển đất nước sang thời kỳ mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” và đề ra nhiệm vụ kinh tế - xã hội từ năm 1996 đến năm 2000.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng [tháng 4-2001] đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII và khẳng định, trong 5 năm 1996-2000, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng. Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội đã khẳng định:thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng vàNhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đại hội thông qua Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010, đề ra mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng [tháng4-2006] đã bổ sung, phát triển nhiều vấn đề về lý luận chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đặt ra nhiệm vụ tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010. Với chủ đề: “Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”, Đại hội X của Đảng đã đánh dấu bước phát triển về đường lối, chính sách, về tổ chức và nhân sự đáp ứng yêu cầu của đất nước trong xu thế hội nhập thế giới.

- Đại hội XI của Đảng [tháng 01-2011] đã tiến hành tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2011theo Nghị quyết Đại hội X. Đặc biệt, một trong những đóng góp quan trọng có ý nghĩa lịch sử của Đại hội XI là đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011].

Trên cơ sở kế thừa những nội dung cơ bản của Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã có nhiều điểm mới như: bổ sung thành tựu của cách mạng Việt Nam sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, bổ sung thêm 02 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa màNhân dân Việt Nam đang xây dựng; đồng thời, có sự điều chỉnh trong hầu hết các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa…

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng [tháng 01-2016] đã tiến hành tổng kết 30 năm đổi mới, khẳng định: “Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng là quá trình cải biến sâu sắc và toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành ựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệTổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành và phát triển. Chính trị- xã hội ổn định; quốc phòng- an ninh được tăng cường. Văn hóa-xã hội có bước phát triển; bộmặt đất nước và đời sốngNhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựngĐảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh.

Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệđộc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độxã hội chủ nghĩa. Quan hệdối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được,Đại hội XII cũng cho rằng chúng ta còn nhiều hạn chế, khuyết điểm:
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ.

Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ môthiếu ổn định, tốc độtăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộphậnNhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa động bộvới đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.

Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.

Bốn nguy cơ được Đảng chỉ ra tại Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII [tháng 01-1994] là:tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướngxã hội chủ nghĩa, “diễn biến hòa bình” và tham ô, tham nhũng vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới nhất, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng để chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào Đảng, chế độcó mặt bị giảm sút.

Những hạn chế khuyết điểm trên đây đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nỗ lực phấn đấu, không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạoNhân dân tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại:thắng lợi của cách mạngtháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủcộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập tự do;thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệTổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độlên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới, đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam”.

Với những thắng lợi đã giành được từ khi Đảng ra đời, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, chủ quyền đất nước được củng cố vững chắc, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa;Nhân dân ta từ thân phận nôlệđã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, ngày càng ấm no, hạnh phúc, văn minh; đất nướctađã vươn lên trở thành nước đang phát triển, vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.Với những thành tựu to lớn đã đạt được,có thểkhẳng định rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

III. ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
3.1. Yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị


Thứ nhất,xuất phát từ bối cảnh của xã hội hiện đại đã làm thay đổi cấu trúc quyền lực giữa các chủ thể trong đời sống chính trị - xã hội trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Theo đó, các chủ thể có các khả năng và nguồn lực riêng trong việc tạo dựng quyền lực, dẫn tới sự tham gia, tác động đến nhiều hoạt động chính trị và buộc các hệ thống chính trị phải thay đổi cách thức tổ chức và hoạt động của mình để có thể thích ứng và đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chẳng hạn, việc tổ chức và thực thi quyền lực đang có xu hướng giảm dần tính thứ bậc, tầng nấc trung gian để tăng hiệu lực và hiệu quả, xu hướng dùng quyền lực trí tuệ, quyền lực thông minh cũng chiếm ưu thế hơn so với dùng sức mạnh bạo lực, cưỡng chế. Cách thức tổ chức và phương thức thực thi quyền lực thay đổi, dẫn tới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cũng phải thay đổi một cách tương thích.

Thứ hai,đổi mới hệ thống chính trị là yêu cầu khách quan nhằm khắc phục những yếu kém tồn tại trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay. Thực tiễn hoạt động của hệ thống chính trị đã bộc lộ những hạn chế của nó: “Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ, còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ... Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chậm đổi mới…”[1].

Thứ ba,xuất phát từ sự chủ động trong lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị Việt Nam. Nhận thức được những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở mỗi thời kỳ, các nghị quyết đại hội Đảng đều xác định nhiệm vụ quan trọng là đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựngNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện cải cách nền hành chính và gần đây nhất, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII đã tập trung vào việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn,hoạt độnghiệu lực, hiệu quả.

3.2. Nguyên tắc, nhiệm vụ và giải pháp cơ bản
3.2.1. Nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị


- Đổi mới hệ thống chính trị phải bảo đảm ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội bền vững.Đây là nguyên tắc quan trọng nhất để từng bước đổi mới vững chắc, tránh sự nóng vội, chủ quan và có thể sai lầm về mặt chính trị.Dovậy, đổi mới hệ thống chính trị phải được tiến hành một cách đồngbộ, thống nhất, nhưng cũng phải có lộ trình, bước đi phù hợp.

- Đổi mới hệ thống chính trị phải đảm bảo nâng caohiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội là một nguyên tắc hiến định và trong hệ thống chính trị một đảng thì vấn đề không nằm ở việc tăng cường sự lãnh đạo mà quan trọng là làm thế nào để tăng hiệu lực lãnh đạo.

- Đổi mới hệ thống chính trị không làm thay đổi bản chất của chế độ mà là làm cho hệ thống chính trị ngày càng được tổ chức hợp lý, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi củaNhân dân, xã hội và sự phát triển của đất nước trong điều kiện hội nhập khu vực, quốc tế và sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

3.2.2. Nhiệm vụ vàgiải phápđổi mớitổ chứcvà hoạt độngcủa hệ thống chính trịtrong giai đoạn hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ: “tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,Nhân dân làm chủ”, nhất là nội dungNhân dân làm chủ và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”[2].

Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu khóa XIIvề một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp đổi mới hệ thống chính trị[3].Trong thời gian tới cần tập trung vào những giải pháp chủ yếu sau:

-Nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

- Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trên cơ sở đó rà soát lại hệ thống tổ chức hiện có để nhận diện và khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các tổ chức này, đồng thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, Nhà nước về tổ chức bộ máy hệ thống chính trị,tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

- Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽbằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện.

- Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của toàn hệ thống chính trị. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành các quy định về sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị. Kiên quyết thực hiện các biện pháp nhằm loại bỏ các tổ chức, các cấp trung gian, trùng lắp chức năng, tinh giản biên chế.

Ngoài các giải pháp cho toàn hệ thống ở trên, cần thực hiện một số giải pháp riêng cho các tổ chức của hệ thống:
Đối với Đảng:
Thứ nhất,kiện toàn và nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu và các tổ chức Đảng ở trung ương theo hướng làm tăng hàm lượng trí tuệ cho các chủ trương, định hướng chính sách lớn của Đảng trong bối cảnh hiện nay.

Thứ hai,tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối vớiNhà nước và xã hội theo hướng phát huy tính tự chủ, chủ động, tích cực của các tổ chức này trong thực thi chức năng của mình.

Thứ ba,xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là đối với cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế. Đồng thời kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, làm trong sạch đội ngũ của Đảng, củng cố niềm tin của dân đối với Đảng.

Đối với Nhà nước:
Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ chế “kiểm soát” giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo hiến.
Quốc hộicần phải nâng cao chất lượng hoạt động, nhất là trong hoạt động lập pháp để đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống pháp luật đáp ứng được yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu của xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cần phảităng số đại biểu chuyên trách, giảm số lượng đại biểu kiêm nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp.

Chính phủ,cần phải đổi mới theo hướng xây dựng một Chính phủ hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả. Theo đó,Chính phủ, các bộ, ngành tiếp tục thực hiện đổi mới, kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, luật pháp, cơ chế, chính sách; nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành và hiệu quả tổ chức thực hiện; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành.

Rà soát nhiệm vụ, quyền hạn để phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương để góp phần tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực.

Tiếp tục cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính,kiện toàn tổ chức, giảm đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế của các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân.Đẩy mạnh và kiên quyết thực hiện tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh.Định rõ quyền và trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan trực thuộc chính phủ và chính quyền địa phương.

Đối với hệ thốngTòa án vàViệnKiểm sát:Tòa án phải được đảm bảo xét xử độc lập. Xét xử độc lập của tòa án là nguyên tắc hiến định, nhưng nếu trong thực tế không tạo ra các điều kiện đảm bảo thì các thẩm phán vẫn có khả năng bị chi phối, ảnh hưởng bởi các quyền lực mạnh và lợi ích lớn trong xã hội. Tiếp tục thực hiện xây dựng tòa án khu vực và dần tách tòa án khỏi hệ thống hành chính nhà nước. Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tòa bằng việc xây dựng và chuẩn hóa đội ngũ luật sư, hiệp hội luật sư. Sắp xếp, đổi mới ViệnKiểm sát theo hướng tập trung vào thực hiện chức năng điều tra, công tố.

Đối với chính quyền địa phương:
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế xây dựng chính quyền địa phương.Rà soát, bổ sung, hoàn thiện Luật Tổ chức chính quyền địa phương, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; quy định rõ cơ chế phân cấp, uỷ quyền và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi được phân cấp, ủy quyền giữa các cấp chính quyền địa phương.

Nghiên cứu, thực hiện giảm hợp lý số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và giảm đại biểu Hội đồng nhân dân công tác ở các cơ quan quản lý nhà nước; giảm số lượng phó chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Quy định khung số lượng các cơ quan trực thuộc Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và khung số lượng cấp phó của các cơ quan này.

Rà soát, sắp xếp tổ chức bên trong của các sở, ngành theo hướng tinh gọn đầu mối.Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, chuyên nghiệp; tổ chức thực hiện có hiệu quả mô hình trung tâm phục vụ hành chính công, cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở các cấp.
Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội:
Kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong mỗi tổ chức, chú trọng ở hai cấptrung ương và cơ sở; khắc phục tình trạng “hành chính hoá” trong tổ chức bộ máy, giảm bớt những cấp, vị trí trung gian, tạo cho bộ máy tổ chức gọn nhẹ, năng động, thiết thực.

Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng đảm bảo đúng tôn chỉ, mục đích, tập trung cho cơ sở; đại diện và bảo vệ một cách thiết thực quyền lợi chính đáng và hợp pháp của hội viên, đoàn viên, tích cực tham gia xây dựng Ðảng, chính quyền và quản lý xã hội.

Để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội có sự độc lập nhất định trong tổ chức và hoạt động,Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội phải nỗ lực, chủ động trong việc huy động nguồn lực của tổ chức, dần tự chủ về kinh phí. Trong khi đó sự hỗ trợ kinh phí hoạt động từNhà nước nên được bàn thảo và và quyết định trước theo các nhu cầu công việc và điều kiện hoạt động, vừa đảm bảo sự độc lập, chủ động của các tổ chức vừa nâng cao được hiệu quả sử dụng.

Để nâng cao tính hiệu quả của việc giám sát, phản biện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước: một mặt, Đảng,Nhà nước cần cụ thể hoá cơ chế tư vấn, giám sát, phản biện của Mặt trận và các tổ chức chính trị xã hội, mặt khác, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội cũng cần được tổ chức và thay đổi cách thức giám sát, phản biện. Hoạt động giám sát được thực hiện theo đúng tính chất là ai ở đâu, làm gì thì giám sát và phản biện cái đó. Việc giám sát và phản biện được thực hiện xuất phát từ chính lợi ích, lĩnh vực hoạt động của các cá nhân, tổ chức, hiệp hội và do vậy cũng có tính chuyên môn. Mặt trận sẽ đóng vai trò tiếp nhận sự phản hồi, giám sát của các tổ chức thành viên, kết nối tạo mạng lưới hỗ trợ hoặc huy động nguồn lực, kết nối với Đảng và Nhà nước trong việc phản ánh, đề xuất, kiến nghị, tư vấn về các vấn đề giám sát và phản biện.



Video liên quan

Chủ Đề