Công văn số 757 btc-ndss ngày 17 01 2023 năm 2024

1. Cử tri TP Hà Nội kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng đầu tư kinh phí mở rộng đường Quốc lộ 6 đoạn từ ngã 3 Ba La, quận Hà Đông đến thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.

Trả lời: Tại công văn số 8392/BGTVT-KHĐT ngày 01/8/2018

Theo Luật Thủ đô Hà Nội [có hiệu lực từ ngày 01/7/2013], các quốc lộ qua địa phận thành phố Hà Nội nói chung và tuyến QL.6 đoạn từ ngã ba Ba La đến thị trấn Xuân Mai là công trình giao thông do UBND thành phố Hà Nội quản lý, đầu tư.

Tuyến QL.6là tuyến hướng tâm quan trọng nối trung tâm Thủ đô Hà Nội với các tỉnh khu vực phía Tây Bắc, vì vậy Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri cần thiết sớm đầu tư hoàn thành đoạn tuyến QL.6 nêu trên để đáp ứng nhu cầu vận tải, phát triển kinh tế - xã hội. Đề nghị UBND thành phố Hà Nội chủ động huy động các nguồn vốn hợp pháp để đầu tư công trình trên và thông báo đến cử tri thành phố được biết về tiến độ thực hiện đầu tư công trình.

2. Cử tri tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kiến nghị: Hiện nay việc mua vé máy bay từ đất liền ra Côn Đảo rất khó khăn [hiện tượng khan hiếm vé và giá rất cao], hãng VASCO hiện đang phục vụ độc quyền tuyến bay Thành phố Hồ Chí Minh – Côn Đảo nhiều ngày không kịp vận chuyển hành khách ra – vào Côn Đảo; sân bay hiện nay đã được Bộ Giao thông vận tải xúc tiến các bước mở rộng đường băng nhưng chưa triển khai thực hiện. Người dân Côn Đảo rất bức xúc, kiến nghị sớm triển khai mở rộng sân bay Côn Đảo để người dân đi lại được dễ dàng

Trả lời: Tại công văn số 9212/BGTVT-KHĐT ngày 20/8/2018

  1. Tình hình chung

Hoạt động khai thác đến Côn Đảo hiện do Công ty bay dịch vụ hàng không Việt Nam [VASCO] Chi nhánh Tổng công ty Hàng không Việt Nam-CTCP khai thác với 2 đường bay là Tp. Hồ Chí Minh - Côn Đảo [SGN-VCS] tần suất 66 chuyến bay/tuần/chiều và Cần Thơ - Côn Đảo [VCA-VCS] tần suất 07 chuyến bay/tuần/chiều, sử dụng loại tàu bay ATR72 [mở bán 67 ghế/68 ghế theo thiết kế].

4 tháng đầu năm 2018, sản lượng thông qua VCS đạt 2.361 lượt cất hạ cánh [tăng 12,3% so cùng kỳ 2017], 142.149 lượt hành khách [tăng 14,9% so cùng kỳ 2017] và 336 tấn hàng hóa [tăng 14,3% so cùng kỳ 2017]. Tính trung bình, lượt hành khách trên mỗi chuyến bay đạt trên 60 hành khách, hệ số sử dụng ghế trung bình đạt 90%.

  1. Chính sách quản lý vận tải hàng không

Trên cơ sở Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng năm 2014, ngành hàng không dân dụng Việt Nam đã triển khai thực hiện chính sách tự do cạnh tranh trong vận tải hàng không. Chính sách này đã tạo điều kiện bình đẳng cho các hãng hàng không Việt Nam tiếp cận, gia nhập thị trường, dần nâng cao chất lượng dịch vụ vận chuyển hàng không, góp phần để hành khách có cơ hội mua và sử dụng dịch vụ đa dạng của vận chuyển hàng không với giá cạnh tranh.

Việc cấp quyền vận chuyển hàng không cho các hãng hàng không được thực hiện bình đẳng dựa trên các điều kiện về hạ tầng cảng hàng không, sân bay và năng lực khai thác của các hãng hàng không. Các hãng hàng không Việt Nam đều được cấp phép khai thác các đường bay nội địa nói chung và đường bay đến Côn Đảo nói riêng trong điều kiện kế hoạch khai thác đường bay phải phù hợp với khả năng đáp ứng của cảng hàng không. Hãng hàng không Việt Nam đã được cấp quyền khai thác thường lệ đến Côn Đảo là Vietnam Airlines/VASCO và Air Mekong [đã dừng khai thác từ 01/03/2013].

Với kích cỡ đường hạ cất cánh là 1.830m x 30m, Côn Đảo hiện chỉ tiếp nhận được các tàu bay nhỏ như ATR72 và tương đương. Sau khi Air Mekong dừng khai thác, hiện chỉ có VASCO với đội tàu bay ATR72 là phù hợp với khả năng đáp ứng của Côn Đảo. Các hãng hàng không khác như VietJet và Jetstar Pacific Airlines hiện chỉ khai thác loại tàu bay A320/A321 nên chưa thể khai thác đến Côn Đảo. Do đó, tính đến thời điểm hiện tại, Côn Đảo chưa thể có hoạt động khai thác đến của hai hãng hàng không chi phí thấp.

  1. Quy hoạch nâng cấp Cảng hàng không Côn Đảo để tiếp nhận các loại tàu máy bay phản lực tầm trung [A320/A321/B737...]

Bộ GTVT đang triển khai điều chỉnh Quy hoạch chi tiết Cảng hàng không [CHK] Côn Đảo. Ngày 01/6/2018, Bộ GTVT đã tổ chức họp Hội đồng thẩm định điều chỉnh quy hoạch CHK Côn Đảo với sự tham gia của các Bộ, ngành và UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hiện nay, Tư vấn ADCC và Cục Hàng không Việt Nam tiếp tục hoàn thiện theo ý kiến của các thành viên Hội đồng thẩm định để trình Bộ GTVT thẩm định, phê duyệt.

Tuy nhiên, do việc điều chỉnh Quy hoạch chi tiết CHK Côn Đảo từ cấp 3C lên 4C để có thể tiếp nhận các loại tàu bay phản lực thế hệ mới như: A319/A320/A321 [neo/ceo] thì cần phải quy hoạch bổ sung thêm 46,78 ha đất cho CHK Côn Đảo so với diện tích đất tại Hồ sơ Quy hoạch chung xây dựng Côn Đảo đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1518/QĐ-TTg ngày 5/9/2011 [Cụ thể: Quy hoạch cũ của Bộ GTVT là 111,12 ha; Quy hoạch chung Côn Đảo được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là 111 ha; Quy hoạch mới của Bộ GTVT đề xuất là 157,9 ha tức là cần bổ sung 46,78 ha]. Do vậy, để đảm bảo thủ tục pháp lý phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chi tiết CHK Côn Đảo, sau cuộc họp Hội đồng thẩm định, Bộ GTVT sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép Bộ GTVT phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chi tiết CHK Côn Đảo và giao UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cập nhật kết quả vào Quy hoạch chung xây dựng Côn Đảo trình Thủ tướng Chính phủ trong kỳ điều chỉnh Quy hoạch Côn Đảo gần nhất.

Sau khi điều chỉnh Quy hoạch chi tiết được Bộ GTVT phê duyệt, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam - CTCP [ACV] sẽ tiến hành các thủ tục đầu tư nâng cấp CHK Côn Đảo đáp ứng nhu cầu đi lại bằng đường hàng không đến Côn Đảo, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Hiện nay, ACV đã chuẩn bị nguồn vốn giai đoạn 2019-2021 sẵn sàng đầu tư nâng cấp CHK Côn Đảo.

Về kiến nghị nối dài thêm đường cất hạ cánh: Trong quá trình lập quy hoạch điều chỉnh CHK Côn Đảo, Tư vấn ADCC đã nghiên cứu các phương án nâng cấp, mở rộng, kéo dài đường cất hạ cánh CHK Côn Đảo để có thể tiếp nhận các loại tàu bay phản lực tầm trung hiện hữu như A320/A321/B737... và thế hệ mới A319/A320/A321 [neo/ceo]; cũng như môi trường sinh thái, hạ tầng dịch vụ xã hội của Côn Đảo. Theo đó, do tính chất địa hình, hạ tầng dịch vụ xã hội [điện, nước, khách sạn...] của Côn Đảo rất hạn chế, môi trường sinh thái cần được giữ gìn để phát triển bền vững, Tư vấn đã kiến nghị đến giai đoạn năm 2030 sẽ nâng cấp và mở rộng đường cất hạ cánh hiện hữu với chiều dài là 1.830m, chiều rộng 45m là đủ khả năng tiếp nhận được các loại tàu bay phản lực tầm trung thế hệ mới A319/A320/A321 [neo/ceo] mà không cần phải kéo dài thêm đường cất hạ cánh. Hiện nay, các hãng hàng không của Việt Nam đã có kế hoạch trang bị các loại tàu bay này để khai thác các đường bay đến Côn Đảo.

  1. Cơ chế xây dựng giá vé và quản lý giá vé máy bay
  2. Khung giá dịch vụ vận chuyển hàng không nội địa theo đơn giá cước đồng/hành khách.km [đ/hk.km] đang được thực hiện theo Quyết định số 3282/QĐ-BTC ngày 19/12/2014 của Bộ Tài chính. Do tính chất đặc thù của ngành vận tải, vận chuyển càng xa thì đơn giá cước đ/hk.km càng giảm. Bộ Tài chính đã quy định mức trần khung giá dịch vụ vận chuyển hàng không nội địa là 4.250đ/hk.km [chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng].

Việc quy định khung giá đối với các nhóm đường bay khác nhau đã được các cơ quan liên quan của Bộ Tài chính và Bộ GTVT thẩm định cụ thể trên cơ sở chi phí hợp lý, phù hợp với chất lượng dịch vụ, tình hình cung cầu, chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ và phù hợp với mức giá trung bình của cùng loại dịch vụ trong Khu vực ASEAN. Căn cứ khung giá, các hãng hàng không Việt Nam thực hiện việc kê khai giá; tự quy định giá theo chi phí thực tế và có lợi nhuận; chủ động xây dựng và thực hiện các phương án kinh doanh ngắn, trung và dài hạn; thực hiện đa dạng hóa giá vé theo chất lượng dịch vụ trên tất cả các đường bay nội địa; chủ động “phản ứng giá” với sự biến động của các yếu tố chi phí đầu vào một cách hợp lý, bù đắp được chi phí, tăng doanh thu, tránh thua lỗ.Như vậy, giá dịch vụ vận chuyển hành khách nội địa hạng phổ thông hàng không tại Việt Nam đã được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các hãng hàng không; đồng thời tạo môi trường cạnh tranh về giá, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và tạo điều kiện cho các hãng hàng không tổ chức và mở rộng khai thác cả các đường bay ngắn [trước đây là đường bay thường xuyên bị thua lỗ và chủ yếu bay phục vụ mục đích chính trị - xã hội].

  • Mức giá trần đường bay Tp. Hồ Chí Minh - Côn Đảo, Cần Thơ - Côn Đảo [thuộc đường bay dưới 500km] hiện tại là 1.600.000đ [chưa bao gồm: thuế giá trị gia tăng - nộp ngân sách Nhà nước; giá phục vụ hành khách; giá soi chiếu an ninh - thu hộ ACV]. Tổng công ty Hàng không Việt Nam [Vietnam Airlines], VASCO đã kê khai và thực hiện phương án giá hợp lý: [i] đối với đường bay Tp. Hồ Chí Minh - Côn Đảo với mức giá được duy trì ổn định với 8 mức giá từ 600.000đ/chiều đến 1.550.000đ/chiều [chưa bao gồm: thuế giá trị gia tăng - nộp ngân sách Nhà nước; giá phục vụ hành khách; giá soi chiếu an ninh - thu hộ ACV], mức cao nhất bằng 96% giá trần cao nhất theo quy định của Bộ Tài chính áp dụng cho nhóm đường bay dưới 500km; [ii] đối với đường bay Cần Thơ - Côn Đảo với 8 mức giá từ 350.000đ/chiều đến 1.350.000đ/chiều [chưa bao gồm: thuế giá trị gia tăng - nộp ngân sách Nhà nước; giá phục vụ hành khách; giá soi chiếu an ninh - thu hộ ACV], mức cao nhất bằng 84% giá trần cao nhất theo quy định của Bộ Tài chính áp dụng cho nhóm đường bay dưới 500km.
  • Ngoài ra, nhằm tiếp tục góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội đối với huyện đảo Côn Đảo, với các điều kiện giao thông tiếp cận đất liền còn nhiều khó khăn, Vietnam Airlines và VASCO đã triển khai một số chính sách ưu đãi trên chặng bay Tp. Hồ Chí Minh - Côn Đảo: giảm 30% so với mức giá áp dụng [một số giá thuộc loại giá phổ thông linh hoạt/phổ thông tiêu chuẩn/phổ thông tiết kiệm] cho hành khách Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại Côn Đảo, quân nhân, công nhân viên chức Nhà nước làm việc tại Côn Đảo; giảm 15% so với mức giá phổ thông cho hành khách là Việt Nam từ 60 tuổi trở lên, người khuyết tật; chính sách giảm giá cho trẻ em, trẻ nhỏ có hộ khẩu thường trú tại Côn đảo,…; đồng thời bảo đảm quyền đặt giữ chỗ và các quyền lợi khác theo hạng vé.
  • Đánh giá

Từ nội dung trên, có thể thấy, không có bất kỳ sự độc quyền trong việc cấp phép khai thác đến Côn Đảo. Việc chỉ có VASCO khai thác đến Côn Đảo bằng chủng loại tàu bay ATR72 do hạn chế về năng lực tiếp nhận của cảng hàng không; các hãng hàng không Việt Nam khai thác chủng loại tàu bay A320/A321 trở lên chưa thể khai thác đến Côn Đảo. Các hãng hàng không Việt Nam nghiên cứu và lập kế hoạch khai thác chủng loại máy bay A319/A320/A321neo có thể khai thác tại đường cất hạ cánh sau khi điều chỉnh quy hoạch CHK Côn Đảo được phê duyệt và triển khai.

Trong thời gian qua, Cục Hàng không Việt Nam cũng đã làm việc với các hãng hàng không Việt Nam và ACV, Tổng công ty Quản lý bay [VATM] nhằm đưa ra các giải pháp tăng cường khai thác đến VCS, theo đó, VietnamAirlines sẽ lập đề án nghiên cứu tổng thể thị trường, hạ tầng lưu trú, du lịch để đưa ra kế hoạch phát triển vận tải hàng không đi/đến VCS;

Đối với chủng loại tàu bay cánh quạt ATR72 như hiện tại, việc hãng hàng không chỉ khai thác 2 đường bay từ Tp. Hồ Chí Minh và Cần Thơ tới Côn Đảo là phù hợp với tính năng kỹ thuật tàu bay cũng như hiệu quả kinh tế. Việc kết nối từ Hà Nội cũng như các địa phương khác tại Việt Nam tới Côn Đảo thông qua cửa ngõ TP. Hồ Chí Minh cũng như Cần Thơ là phương án tối ưu. Ngoài ra, Cục Hàng không Việt Nam cũng đã chỉ đạo Vietnam Airlines nghiên cứu tăng tần suất đường bay VCA-VCS lên tối thiểu 2 chuyến/ngày.

Các mức giá áp dụng nằm trong khung giá do liên Bộ Tài chính - Bộ Giao thông vận tải thẩm định và hãng hàng không khai thác đã có chính sách giảm giá vé cho hành khách trên chặng bay Tp. Hồ Chí Minh - Côn Đảo. Việc xảy ra khan hiếm vé máy bay vào các thời điểm cũng như tình trạng khách di chuyển lệch đầu do đặc thù nhu cầu đi lại của hành khách. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của cử tri, trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo Vietnam Airlines và VASCO tăng cường rà soát, kiểm tra hệ thống đặt giữ chỗ, hệ thống phân phối qua đại lý và giá vé tàu bay để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động khai thác, đáp ứng nhu cầu đi lại của quân và dân tại huyện đảo Côn Đảo; đồng thời sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp quản lý đồng bộ theo quy định nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng dịch vụ với giá cả hợp lý trên nguyên tắc cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.

3. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Hiện nay, việc thực hiện dự án đường nối QL4A - QL3 [tránh thành phố Cao Bằng] đang rất cần nguồn vốn để hoàn thiện một số hạng mục như: thanh toán nợ khối lượng đã hoàn thành, hoàn thiện các hạng mục đầu tư xây dựng cơ bản, nguồn chi trả bồi thường GPMB [bao gồm khối lượng đã được phê duyệt và đang trình phê duyệt]. Do vậy, cử tri Cao Bằng tiếp tục kiến nghị với Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương xem xét, giải quyết trong thời gian sớm nhất.

Trả lời: Tại công văn s 7949/BGTVT-KHĐT ngày 20/7/2018

Dự án đầu tư xây dựng đư­ờng nối Quốc lộ 4A với Quốc lộ 3 [Dự án] đã được phê duyệt với TMĐT là 177 tỷ đồng, khởi công năm 2009, dự kiến hoàn thành năm 2013. Bộ GTVT đã bố trí đủ vốn theo TMĐT được phê duyệt. Tuy nhiên, do có nhiều thay đổi về chế độ chính sách, giá cả vật tư, vật liệu nên đã làm TMĐT của Dự án tăng lên 382 tỷ đồng nên không đủ kinh phí để hoàn thành. Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho điều chỉnh Dự án [Văn bản số 10672/VPCP-KTN ngày 22/12/2015 của VPCP]

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã phê duyệt điều chỉnh Dự án với dự kiến sử dụng nguồn vốn dư kế hoạch TPCP giai đoạn 2012 - 2015 để bổ sung cho Dự án. Tuy nhiên, hiện nay Thủ tướng Chính phủ có chủ trương không cho phép kéo dài thời hạn giải ngân của các dự án các nguồn vốn đã bố trí cho các bộ, ngành từ năm 2015 trở về trước và yêu cầu rà soát danh mục, quy mô, TMĐT các dự án thuộc nhiệm vụ chi từ kế hoạch năm 2015 trở về trước cần bổ sung vốn để thu hồi các khoản ứng trước, thanh toán nợ xây dựng cơ bản, khối lượng hoàn thành [văn bản số 5395/VPCP-KTTH ngày 7/6/2018 của Văn phòng Chính phủ]. Hiện Bộ GTVT đang rà soát các dự án cần bổ sung vốnđể trả nợ, thanh toán khối lượng hoàn thành… theo nội dung của Văn bản số 5395/VPCP-KTTH của Văn phòng Chính phủ. Sau khi bố trí được vốn cho Dự án sẽ tiếp tục triển khai.

4. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị:Cử tri đề nghị Bộ chỉ đạo các đơn vị thi công sớm hoàn thành tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn qua huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương và hoàn thiện hệ thống thoát nước hai bên tuyến đường nhằm phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, tránh tình trạng ngập lụt làm ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân khi mùa mưa đang đến.

Trả lời: Tại công văn số 8460/BGTVT-ĐTCT ngày 02/8/2018

Dự án đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa thuộc quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 01/03/2016 [trước đây là Quyết định số 1734/QĐ-TTg ngày 01/12/2008] với quy mô 4 làn xe.

Thực hiện Nghị quyết số 38/2004/QH11 ngày 03/12/2004 của Quốc hội, Bộ Giao thông vận tải đã phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 3950/QĐ-BGTVT ngày 17/12/2007 với chiều dài 84km, tiêu chuẩn kỹ thuật cơ bản đạt đường cao tốc, mặt cắt ngang giai đoạn phân kỳ 02 làn xe, tổng mức đầu tư 3.389 tỷ đồng bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Dự án đã được khởi công từ năm 2009, đã cơ bản thi công hoàn thành phần nền đường. Tuy nhiên, do khó khăn về nguồn vốn, thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ và Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ, dự án đã tạm đình hoãn.

Được sự đồng ý chủ trương của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã phê duyệt Đề xuất dự án đầu tư theo hình thức BOT với quy mô 02 làn xe, đặt 02 trạm thu phí theo lượt để hoàn vốn. Tuy nhiên, Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 của UBTV Quốc hội đã chỉ ra tính bất cập của hình thức thu phí hở không đảm bảo tính công bằng, không nhận được sự đồng thuận của người dân, đặc biệt đối với dự án Chơn Thành - Đức Hòa phải cần tới 02 trạm thu phí mới có thể hoàn vốn.

Trên cơ sở đó, Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 3843/BGTVT-ĐTCT ngày 13/4/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án đầu tư hoàn thiện dự án Chơn Thành - Đức Hòa theo quy mô 04 làn xe cao tốc và sử dụng hình thức thu phí kín [theo chiều dài đường sử dụng] nhằm đảm bảo công bằng cho người sử dụng. Tại văn bản số 4141/VPCP-CN ngày 07/05/2018, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Giao thông vận tải quyết định theo thẩm quyền.

Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đang chỉ đạo các cơ quan, đơn vị khẩn trương cập nhật, hoàn chỉnh hồ sơ Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án để phê duyệt. Như vậy, nếu dự án triển khai thuận lợi thì khoảng năm 2020 mới có thể khởi công.

5. Cử tri tỉnh Đăk Nông kiến nghị:Cử tri đề nghị Bộ Giao thông vận tải sớm bàn giao một số diện tích đất nằm giữa đường mới và đường cũ khi nắn đường QL.14 về cho địa phương quản lý để địa phương có phương án sử dụng đất hiệu quả trên diện tích này.

Trả lời: Tại công văn số 8344/BGTVT-KCHT ngày 31/7/2018

1. Liên quan đến các đoạn tuyến cũ đường Hồ Chí Minh [QL.14] qua khu vực Tây Nguyên, Bộ GTVT đã có Quyết định số 2346/QĐ-BGTVT ngày 09/8/2017 chuyển các đoạn tuyến cũ đã được chỉnh tuyến cục bộ trên đường Hồ Chí Minh qua khu vực Tây Nguyên thành đường địa phương. Triển khai Quyết định số 2346/QĐ-BGTVT ngày 09/8/2017 của Bộ GTVT, Tổng cục ĐBVN đã chỉ đạo Cục QLĐB III phối hợp với các cơ quan chức năng của tỉnh Đắk Nông thực hiện công tác bàn giao.

Ngày 30/5/2018, Cục QLĐB III đã phối hợp với Sở GTVT Đắk Nông, UBND huyện Đắk Song, UBND huyện Đắk Mil, UBND huyện Cư Jut tổ chức bàn giao nguyên trạng các đoạn tuyến đã được chỉnh tuyến cục bộ trên đường Hồ Chí Minh để UBND các huyện quản lý, khai thác, sử dụng theo quy định.

2. Về kiến nghị của cử tri tỉnh Đắk Nông, Bộ GTVT giao Tổng cục ĐBVN phối hợp với Sở GTVT tỉnh Đắk Nông và các cơ quan chức năng địa phương rà soát làm rõ thông tin cụ thể về lý trình, điểm đầu, điểm cuối, diện tích đất nằm giữa đường mới và đường cũ khi nắn QL.14; báo cáo cụ thể phần diện tích nằm giữa đường mới và đường cũ dự kiến sẽ bàn giao cho địa phương quản lý, gửi Bộ GTVT xem xét, giải quyết theo quy định.

6. Cử tri TP Cần Thơ kiến nghị:Chỉ đạo nghiên cứu mở thên đường bay nội địa, đường bay quốc tế, kết nối Cảng hàng không Cần Thơ đến một số tỉnh Trung bộ, phía Bắc và một số nước trong khu vực.

Trả lời: Tại công văn số 7915/BGTVT-VT ngày 20/7/2018

  1. Tình hình khai thác chung tại Cảng hàng không quốc tế [CHKQT] Cần Thơ

CHKQT Cần Thơ [VCA] hiện đang tiếp nhận 04 đường bay nội địa thường lệ là Hà Nội - Cần Thơ [HAN-VCA] do Vietnam Airlines và Vietjet Air khai thác bằng tàu bay A321/A320 với tổng tần suất 35 chuyến/tuần, Đà Nẵng - Cần Thơ [DAD-VCA] do Vietjet Air khai thác bằng tàu bay A320 với tần suất 14 chuyến/tuần, Cần Thơ - Côn Đảo [VCA-VCS] và Cần Thơ - Phú Quốc [VCA-PQC] do VASCO khai thác bằng tàu bay ATR72 với tần suất 1 chuyến/ngày/đường bay.

Kết quả 6 tháng đầu năm 2018, sản lượng thông qua VCA đạt 3.020 lượt cất hạ cánh [tăng 23,2% so cùng kỳ 2017], 402,6 nghìn lượt hành khách [tăng 25,8% so cùng kỳ 2017] và 2.558 tấn hàng hóa [tăng 46,8% so cùng kỳ 2017].

  1. Chính sách quản lý vận tải hàng không

Trên cơ sở Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2014, ngành hàng không Việt Nam đã triển khai thực hiện chính sách tự do cạnh tranh trong vận tải hàng không, đặc biệt là tự do hóa vận chuyển hàng không tới các cảng hàng không quốc tế thứ cấp như Phú Bài, Cát Bi, Cần Thơ, Phú Quốc... Chính sách này cũng được thể hiện cụ thể tại các Hiệp định, thỏa thuận hàng không song phương, đa phương mà Việt Nam đã ký kết gần đây cũng như công bố chính thức tại các diễn đàn hợp tác hàng không nhằm quảng bá cảng hàng không mới.

Chính sách này nhằm khuyến khích các hãng hàng không tăng cường hoạt động khai thác đến các cảng hàng không cũng như tạo điều kiện bình đẳng cho các hãng hàng không trong việc tiếp cận, gia nhập thị trường, nâng cao chất lượng dịch vụ vận chuyển hàng không, góp phần để hành khách có cơ hội mua và sử dụng dịch vụ đa dạng của vận chuyển hàng không với giá cạnh tranh.

Như vậy, Vietnam Airlines, Vietjet Air, Jetstar Pacific Airlines cùng các hãng hàng không nước ngoài đều được khuyến khích, tạo cơ hội khai thác các đường bay quốc tế đi/đến VCA cũng như các hãng hàng không Việt Nam đều được phép khai thác các đường bay nội địa đi/đến VCA.

  1. Công tác quảng bá CHKQT Cần Thơ

Trong các năm qua, Cục Hàng không Việt Nam [HKVN] đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan như UBND thành phố Cần Thơ, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam tổ chức các Hội nghị quảng bá cảng hàng không quốc tế mới, trong đó có CHKQT Cần Thơ.

Cục HKVN đã ban hành Quyết định số 1019/CHK-VTHK ngày 17/5/2017 về việc thành lập Tổ nghiên cứu, xây dựng đề án nhằm tăng cường hoạt động khai thác đường bay đến Cảng HKQT Cần Thơ với thành phần gồm Cục HKVN, UBND thành phố Cần Thơ, Tổng cục Du lịch, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam, các Công ty du lịch Saigontourist, Vietravel. Tổ nghiên cứu đã tổ chức họp, khảo sát tại Cần Thơ và thống nhất phân công nhiệm vụ cũng như xây dựng Bộ tài liệu quảng bá chung bao gồm các nội dung liên quan đến thông tin về CHKQT Cần Thơ, các chính sách ưu đãi về quyền vận chuyển cũng như về chính sách ưu đãi giá dịch vụ chuyên ngành hàng không [Cục HKVN phụ trách] và các chương trình du lịch, kết nối sản phẩm du lịch đồng bằng sông Cửu Long, hỗ trợ tài chính cho hãng hàng không [UBND thành phố Cần Thơ, Tổng cục Du lịch, các công ty du lịch lữ hành phụ trách].

Về phía ngành hàng không, chính sách tự do hóa khai thác quốc tế đến Cần Thơ đối với các quyền vận chuyển thứ 3, 4 và 5, không hạn chế hình thức khai thác thường lệ/không thường lệ đã được Cục HKVN công bố, đưa vào các Hiệp định, thỏa thuận hàng không ký kết trong giai đoạn 2017-2018 với Israel, Oman, Kuwait và Nga. Đối với thị trường nội địa, Cục HKVN đã chỉ đạo Vietnam Airlines nghiên cứu tăng tần suất đường bay VCA-VCS lên tối thiểu 2 chuyến/ngày.

  1. Một số giải pháp triển khai trong thời gian tới

Để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu thị trường đi/đến Cần Thơ, trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo Cục HKVN:

- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị hoàn thiện Bộ tài liệu quảng bá chung về CHKQT Cần Thơ, trong đó nghiên cứu và tham mưu cho Lãnh đạo Bộ sớm ban hành chính sách ưu đãi giá dịch vụ chuyên ngành hàng không đối với các hãng hàng không khai thác đường bay quốc tế đi/đến các cảng hàng không Việt Nam.

- Làm việc trực tiếp với các hãng hàng không quốc tế trong khu vực đang khai thác thường lệ đến Việt Nam để giới thiệu, định hướng để các hãng mở rộng mạng đường bay đến Việt Nam, cụ thể là Cần Thơ.

- Chỉ đạo các hãng hàng không tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình thị trường hàng không đi/đến Cần Thơ và nghiên cứu mở thêm các đường bay nội địa/ quốc tế đi/đến Cần Thơ để đáp ứng nhu cầu thị trường. Tiếp tục chỉ đạo Vietnam Airlines tăng tần suất trên các đường bay HAN-VCA và VCA-VCS với các khung giờ bay phù hợp nhằm kết nối khách từ phía Bắc đi Côn Đảo qua Cần Thơ trong điều kiện các chuyến bay từ thành phố Hồ Chí Minh đi Côn Đảo luôn trong tình trạng quá tải.

Đồng thời, Bộ GTVT cũng cần có sự quan tâm và vào cuộc quyết liệt của UBND thành phố Cần Thơ về việc sớm công bố, ban hành chính sách hỗ trợ cụ thể đối với hãng hàng không khai thác đường bay quốc tế/nội địa đi/đến Cần Thơ. Bên cạnh đó, 13 tỉnh/thành phố khu vực đồng bằng sông Cửu Long cần có một định hướng chung về xây dựng sản phẩm du lịch, kết nối toàn vùng nhằm duy trì, phát triển bền vững các đường bay đến VCA với vai trò là cảng hàng không của khu vực.

7. Cử tri TP Cần Thơ kiến nghị:Đẩy nhanh tiến độ thi công, hoàn thành dự án kênh Quan Chánh Bố, nạo vét luồng Định An để khai thác hiệu quả cụm Cảng số 6 và tiềm năng phát triển của các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Trả lời: Tại công văn số 8578/BGTVT-KCHT ngày 06/8/2018

1. Về dự án ĐTXD công trình Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu [Dự án]

- Đây là dự án trọng điểm ngành giao thông vận tải với mục tiêu xây dựng luồng cho tàu biển có trọng tải đến 10.000 tấn đầy tải, tàu trọng tải đến 20.000 tấn giảm tải có thể hành hải vào, ra các cảng biển khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Dự án được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 3744/QĐ-BGTVT ngày 30/11/2007 và phê duyệt điều chỉnh tại Quyết định số 2368/QĐ-BGTVT ngày 09/8/2013, sử dụng nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ [TPCP] giai đoạn 2014 - 2016.

Giai đoạn thông luồng kỹ thuật của Dự án đã hoàn thành và được bàn giao cho Cục Hàng hải Việt Nam quản lý, vận hành, khai thác từ tháng 4 năm 2017. Tuyến luồng khi được đưa vào sử dụng đã phát huy tốt hiệu quả; đã bắt đầu hình thành một số tuyến vận tải công ten nơ mới kết nối giữa các cảng trong khu vực. Năm 2017, tuyến luồng đã thông qua khoảng 781 lượt tàu và 1,8 triệu tấn hàng hóa, 13.000 TEU công ten nơ, góp phần rất tích cực trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực, giảm giá thành sản phẩm, rút ngắn thời gian lưu thông của hàng hóa, giảm áp lực lên hệ thống giao thông đường bộ.

- Năm 2018, Bộ GTVT đã bố trí 90 tỷ đồng và đang triển khai thực hiện nạo vét duy tu tuyến luồng hàng hải sông Hậu qua kênh Quan Chánh Bố đảm bảo chuẩn tắc luồng theo thiết kế, nhằm đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải.

- Nguồn vốn được bố trí theo Nghị quyết 65/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội chỉ bố trí vốn cho Giai đoạn thông luồng của Dự án để đảm bảo yêu cầu thông luồng kỹ thuật, chưa đảm bảo yêu cầu đầu tư hoàn chỉnh, đồng bộ Dự án. Một số khu vực xung yếu của Dự án cần phải theo dõi chặt chẽ để kịp thời xử lý sạt lở, sụt trượt mái luồng. Dọc kênh Quan Chánh Bố hiện hữu được thi công nạo vét với mái dốc m = 6 trên nền địa chất tương tự như đoạn luồng kênh Tắt nhưng trong Giai đoạn thông luồng kỹ thuật, Dự án chưa được bố trí vốn để xây dựng hệ thống kè bảo vệ bờ đoạn kênh này.

Xác định việc đầu tư xây dựng kè bảo vệ bờ khu vực bờ Nam ngã ba sông Hậu và các điểm xung yếu dọc kênh Quan Chánh Bố hiện hữu nhằm bảo vệ luồng tàu, đảm bảo ổn định dân sinh dọc hai bên bờ kênh là nhu cầu cấp thiết, Bộ GTVT đã có văn bản số 3215/BGTVT-KHĐT ngày 25/3/2016, văn bản số 14830/BGTVT-KHĐT ngày 13/12/2016, văn bản số 13332/BGTVT-KHĐT ngày 24/11/2017, văn bản số 2568/BGTVT-KHĐT ngày 15/3/2018 và mới đây nhất đã có văn bản số 7626/BGTVT-KHĐT ngày 12/7/2018 báo cáo và đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép báo cáo riêng Dự án với cơ quan có thẩm quyền để có thể sớm sử dụng toàn bộ nguồn vốn dư Giai đoạn thông luồng của Dự án [nguồn vốn TPCP giai đoạn 2014 - 2016 đã được chuyển nguồn sang kế hoạch giai đoạn 2016 - 2020 theo Nghị quyết 26/2016/QH14 ngày 10/11/2016 của Quốc hội về kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016 - 2020] dự kiến khoảng 1.676,3 tỷ đồng để thực hiện ngay các hạng mục thiết yếu của Dự án mà Bộ GTVT đã báo cáo tại văn bản số 13332/BGTVT-KHĐT ngày 24/11/2017 nêu trên, đáp ứng yêu cầu đồng bộ, ổn định của toàn Dự án và an toàn dân sinh địa phương.

2. Đối với việc nạo vét luồng Định An

- Sau gần 20 năm nghiên cứu các phương án nạo vét, chỉnh trị luồng Định An với mục đích cho phép tàu biển có trọng tải lớn hơn 10.000 tấn ra vào làm hàng tại cảng Cần Thơ, những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực chỉnh trị cửa sông ven biển… đã cho thấy rằng việc nạo vét, cải tạo luồng Định An là hợp lý, khả thi cho tàu trọng tải đến 5.000 tấn.

- Những năm qua, tuyến luồng Định An vẫn được Bộ GTVT quan tâm bố trí khoảng 30 tỷ đồng hàng năm để thực hiện công tác nạo vét duy tu luồng, đáp ứng nhu cầu vận tải biển của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tuyến luồng này hiện vẫn đang được duy trì đáp ứng cho cỡ tàu trọng tải đến 5.000 tấn ngay cả khi dự án Luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu qua kênh Quan Chánh Bố đã được hoàn thành giai đoạn thông luồng kỹ thuật nhằm giảm mật độ tàu thuyền hành hải trên luồng kênh Quan Chánh Bố, đáp ứng các hoạt động xuất nhập khẩu, lưu thông hàng hóa phục vụ phát triển kinh tế xã hội khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Như vậy, việc khai thác đồng thời tuyến luồng hàng hải sông Hậu qua kênh Quan Chánh Bố cho tàu trọng tải đến 20.000 tấn giảm tải và tuyến luồng hàng hải qua cửa Định An cho cỡ tàu trọng tải đến 5.000 tấn sẽ phát huy hiệu quả vai trò phục vụ vận tải hàng hóa khu vực; góp phần nâng cao khả năng khai thác các bến cảng biển tại khu vực Cần Thơ nói riêng và trong nhóm cảng biển số 6 nói chung.

8. Cử tri TP Cần Thơ kiến nghị:Tham mưu cho Chính phủ có giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ và sớm đưa dự án vào sử dụng, tạo sự kết nối thông suốt, rút ngắn thời gian lưu thông giữa TP. Hồ Chí Minh với các tỉnh, thành phố trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Trả lời: Tại công văn số 8648/BGTVT-ĐTCT ngày 07/8/2018

Đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ nằm trong quy hoạch phát triển đường bộ cao tốc được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại các Quyết định số 140/QĐ-TTg ngày 21/01/2010 và số 356/QĐ-TTg ngày 25/02/2013; đồng thời, nằm trong kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng GTVT vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020. Bộ GTVT xác định đây là dự án lớn, là tuyến đường có tính chất quan trọng và cần phải đẩy nhanh tiến độ triển khai, sớm đưa vào khai thác đáp ứng mong mỏi của người dân địa phương, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và củng cố an ninh, quốc phòng của vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung.

Đường cao tốc Trung Lương - Cần Thơđược Bộ GTVT triển khai thành 03 dự án độc lập [gồm: Trung Lương - Mỹ Thuận, Mỹ Thuận - Cần Thơ và cầu Mỹ Thuận 2] để thuận lợi trong việc huy động nguồn vốn và triển khai thực hiện.

1.Dự án đầu tư đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận

Dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận [gọi tắt là Dự án Trung Lương - Mỹ Thuận] được Bộ GTVT phê duyệt đầu tư theo hình thức đối tác công tư, hợp đồng BOT tại Quyết định số 4145/QĐ-BGTVT ngày 31/10/2014 và phê duyệt điều chỉnh tại Quyết định số 1700/QĐ-BGTVT ngày 15/6/2017. Dự án Trung Lương - Mỹ Thuận đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư số 109/BKHĐT-GCNĐKĐTTN ngày 21/01/2016; Bộ GTVT ký Hợp đồng số 14/HĐ.BOT-BGTVT ngày 18/11/2016 với Nhà đầu tư [Liên danh Công ty CPĐT xây dựng Tuấn Lộc - Công ty CP tập đoàn Yên Khánh - Công ty CPĐT xây dựng BMT - Công ty TNHH tập đoàn Thắng Lợi - Công ty CP Hoàng An - Công ty CPĐT cầu đường CII] và Doanh nghiệp dự án [Công ty CP BOT Trung Lương - Mỹ Thuận] để triển khai.

Hiện nay, Bộ GTVT và Nhà đầu tư đang phối hợp với UBND tỉnh Tiền Giang để triển khai công tác giải phóng mặt bằng [GPMB]; địa phương đã phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ với kinh phí 1.330,4 tỷ đồng [tổng kinh phí 1.689 tỷ đồng], Nhà đầu tư đã chuyển cho địa phương 1.334,4 tỷ đồng từ nguồn vốn chủ sở hữu để chi trả cho công tác GPMB. Nhà đầu tư đã nhận được mặt bằng của 49,3/51,1km [đạt khoảng 96%], cơ bản đã có công địa để có thể triển khai thi công. Nhà đầu tư đã triển khai thi công ngay đối với phần mặt bằng đã được bàn giao. Trong thời gian vừa qua, Dự án Trung Lương - Mỹ Thuận gặp vướng mắc trong việc huy động nguồn vốn tín dụng [phần vốn vay thương mại là 8.125,7 tỷ đồng], các ngân hàng trước đây có cam kết tài trợ vốn đầu tư dự án nhưng còn có một số vấn đề chưa thống nhất về lãi suất vay trong phương án tài chính nên chậm ký hợp đồng tín dụng. Sau khi Bộ GTVT báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, Bộ Tài chính đã ban hành các Thông tư số 75/2017/TT-BTC ngày 21/7/2017 và số 30/2018/TT-BTC ngày 28/3/2018 để tháo gỡ vướng mắc trong việc xác định lãi suất vay vốn. Do vậy, ngày 15/6/2018các ngân hàng Vietinbank, BIDV, VPBank và AgriBank đã ký hợp đồng tín dụng tài trợ vốn cho dự án. Với nguồn vốn được xác định đầy đủ, Bộ GTVTchỉ đạo Nhà đầu tư quyết liệt triển khai,đẩy nhanh tiến độ sớmhoàn thành, đưa vào khai thác đoạn Trung Lương - Mỹ Thuận.

2. Dự án đầu tư đường cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ

Dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ [sau đây gọi tắt là Dự án Mỹ Thuận - Cần Thơ] được Bộ GTVT phê duyệt đầu tư theo hình thức đối tác công tư [PPP], hợp đồng BOT tại Quyết định số 2519/QĐ-BGTVT ngày 28/8/2017. Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 20/NQ-CP ngày 28/3/2018 thống nhất một số nội dung trong triển khai các dự án đầu tư đường cao tốc Bắc - Nam, Bộ GTVT đã phê duyệt hồ sơ mời sơ tuyển và giao Ban Quản lý dự án Thăng Long làmBên mời thầu tổ chức sơ tuyển quốc tế.Qua sơ tuyển có 04 nhà đầu tư quan tâm nộp hồ sơ dự sơ tuyển. Hiện Bên mời thầu đã trình Bộ GTVT phê duyệt kết quả sơ tuyển. Sau khi có kết quả sơ tuyển sẽ tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo đúng trình tự quy định của Luật đấu thầu và Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 của Chính phủ.

Theo kế hoạch dự kiến, sẽ hoàn thành lựa chọn nhà đầu tư, ký hợp đồng dự án vào đầu năm 2019 [do thời gian đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư cần khoảng 10tháng] và triển khai GPMB, thi công công trình, phấn đấu hoàn thành cơ bản vào cuối năm 2021.

3. Dự án đầu tư cầu Mỹ Thuận 2

Thực hiện Nghị quyết số 52/2017/QH14 ngày 22/11/2017 của Quốc hội, cầu Mỹ Thuận 2 được đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Hiện Bộ GTVT đang tổ chức lập báo cáo NCKT vàdự kiến sẽ phê duyệt trong tháng 9/2018. Đây là công trình cầu đặc biệt lớn, có kết cấu phức tạp nên cần thời gian thi công dài. Tuy nhiên, xác định tầm quan trọng của tuyến cao tốc, Bộ GTVT đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan tập trung đẩy nhanh tiến độ, phấn đấu sớm hoàn thành để kết nối hai đoạn cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận và Mỹ Thuận - Cần Thơ, phát huy cao hiệu quả đầu tư.

9. Cử tri TP Cần Thơ kiến nghị:Chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam chấp thuận cấp phép thi công lưới điện 22 kV qua các cầu trên Quốc lộ 91; xem xét sửa đổi, bổ sung Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23/9/2015 và Thông tư số 35/2017/TT-BGTVT ngày 09/10/2017 của Bộ Giao thông vận tải theo hướng cho công trình điện được phép lắp đặt vào cầu nếu đảm bảo an toàn giao thông, an toàn vận hành khai thác, sửa chữa, cải tạo và bảo trì công trình đường bộ theo quy định của pháp luật.

Trả lời: Tại công văn số 8424/BGTVT-KCHT ngày 01/8/2018

1. Trước đây, liên quan đến nội dung kiến nghị nêu trên, Bộ Giao thông vận tải đã có Công văn số 3996/BGTVT-KCHT ngày 17/4/2018 trả lời Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Cần Thơ. Theo đó, Bộ Giao thông vận tải đã trả lời với nội dung chính như sau:

- Căn cứ vào các quy định hiện hành, Tổng cục Đường bộ Việt Nam chưa chấp thuận cấp phép thi công lưới điện 22 kV qua các cầu trên Quốc lộ 91 là đúng quy định.

- Bộ Giao thông vận tải giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam:”…phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan tiến hành khảo sát, đánh giá và nghiên cứu nhằm sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế những nội dung có liên quan đến quy định về công trình thiết yếu gắn vào cầu tại Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23/9/2015 và Thông tư số 35/2017/TT-BGTVT theo hướng cho công trình điện lực được phép lắp đặt vào cầu nếu đáp ứng được yêu cầu về đảm bảo an toàn điện theo quy định của pháp luật về điện lực, bảo đảm an toàn giao thông, an toàn vận hành, khai thác, sửa chữa, cải tạo và bảo trì công trình đường bộ...”.

2. Ngày 17/5/2018, Bộ Giao thông vận tải tiếp tục có Công văn số 5153/BGTVT-KCHT đề nghị Tổng cục Đường bộ Việt Nam:”…khẩn trương rà soát, nghiên cứu, tham mưu, đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung quy định tại các Thông tư số: 50/2015/TT-BGTVT, 35/2017/TT-BGTVT để phù hợp với Nghị định số 08/2018/NĐ-CP và giải quyết kiến nghị của cử tri thành phố Cần Thơ…” để tiếp tục thực hiện kiến nghị của cử tri thành phố Cần Thơ.

Do việc rà soát, nghiên cứu, tham mưu, đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sungThông tư phải tuân theo trình tự thủ tục xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Thông tư số 21/2016/TT-BGTVT ngày 25/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải nên cần phải có thời gian, nguồn lực thực hiện. Vì vậy, Bộ Giao thông vận tải sẽ tiếp tục quyết liệt chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam và các cơ quan, đơn vị có liên quan khẩn trương, tích cực hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế những nội dung có liên quan đến quy định về công trình thiết yếu gắn vào cầu tại Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23/9/2015 và Thông tư số 35/2017/TT-BGTVT ngày 09/10/2017 trong thời gian sớm nhất.

10. Cử tri TP Cần Thơ kiến nghị:Đề nghị Bộ GTVT chỉ đạo đơn vị chức năng xem xét giải quyết kiến nghị của các hộ dân ngụ tại ấp Phụng Hưng, thị trấn Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ [đính kèm Công văn số 145/UBND-KT ngày 06/2/2018 của Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Thạnh] về việc đề nghị thay đổi thiết kế từ cống hộp thành cầu nút giao thông tại vị trí Km23+941 [đường Kênh cống 16] thuộc gói thầu CW1 của dự án đường Lộ Tẻ - Rạch Sỏi, nhằm phục vụ nhu cầu giao thông thủy, cũng như sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ nông sản của nhân dân sống trong vùng dự án.

Trả lời: Tại công văn số 8285/BGTVT-CQLXD ngày 30/7/2018

  • Trong giai đoạn lập nghiên cứu khả thi, trên cơ sở đề nghị của Tư vấn, đại diện các cơ quan chức năng của thành phố Cần Thơ [Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại văn bản số 140/SNN&PTNT ngày 16/02/2008 và Sở GTVT tại văn bản số 21/SGTVT-KHKT ngày 05/01/2009] đã thống nhất phương án xây dựng cống ngang đường cho các vị trí giao cắt trên tuyến trong đó có đường Kênh cống 16 tại Km23+927. Ban QLDA Mỹ Thuận [nay là Tổng công ty Cửu Long] đã trình Bộ GTVT phê duyệt nghiên cứu khả thi tại Quyết định số 786/QĐ-BGTVT ngày 26/3/2010.
  • Giai đoạn thiết kế kỹ thuật [TKKT], Tổng công ty Cửu Long đã tiến hành lấy ý kiến thỏa thuận chi tiết và được Sở GTVT [tại văn bản số 522/SGTVT-KHTC ngày 24/4/2015] và UBND huyện Vĩnh Thạnh [tại văn bản số 250/UBND-KT ngày 23/4/2015] thống nhất phương án làm cống theo đề xuất của Tư vấn. Trên cơ sở đó, Tổng công ty Cửu Long đã trình TKKT và đã được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 2809/QĐ-BGTVT ngày 05/8/2015 [theo quy mô 2 làn xe]. Theo đó, tại vị trí Km23+927 sẽ bố trí cống hộp 2x[4x4]m, móng cọc PHC D400.
  • Giai đoạn TKKT điều chỉnh [4 làn], tại văn bản số 1828/UBND-XDĐT ngày 17/5/2017, UBND thành phố Cần Thơ đã thống nhất bố trí cống tại vị trí nêu trên. Theo đó, giữ nguyên thiết kế đã được phê duyệt trước đây, kéo dài cống phù hợp với quy mô mặt đường mới, bổ sung đường gom để phục vụ đi lại của người dân địa phương. Trên cơ sở đó, Tổng công ty Cửu Long đã trình và Bộ GTVT phê duyệt TKKT điều chỉnh tại Quyết định số 3222/QĐ-BGTVT ngày 21/11/2017.

Như vậy, trong quá trình triển khai thiết kế đã nhận được các ý kiến thống nhất của các cơ quan chức năng và UBND thành phố Cần Thơ đối với các phương án thiết kế của dự án. Tuy nhiên, sau khi có kiến nghị của các hộ dân ngụ tại ấp Phụng Hưng và nhận được Công văn số 145/UBND-KT ngày 06/2/2018 của UBND huyện Vĩnh Thạnh, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng công ty Cửu Long rà soát, làm việc cụ thể với UBND thành phố Cần Thơ và báo cáo Bộ để xem xét giải quyết.

Ngày 22/3/2018, tại Văn phòng UBND thành phố Cần Thơ, Phó chủ tịch UBND thành phố Đào Anh Dũng đã chủ trì buổi làm việc về Dự án tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi và có kết luận: “Nhằm tạo sự đồng thuận trong nhân dân, giao Sở GTVT chủ trì, phối hợp với UBND huyện Vĩnh Thạnh, chủ đầu tư khảo sát thực tế xem xét đánh giá toàn diện kiến nghị của nhân dân trong khu vực. Trong trường hợp chưa thật sự bức xúc, cản trở giao thông thủy thì tổ chức họp dân, tuyên truyền, vận động nhân dân bị ảnh hưởng bởi các hạng mục công trình đồng thuận và chấp hành để dự án triển khai đúng tiến độ [có Biên bản ký thống nhất]; báo cáo kết quả về UBND thành phố trước ngày 06/4/2018. Việc thỏa thuận các quy mô các công trình trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh, yêu cầu UBND huyện Vĩnh Thạnh cần phải nghiên cứu, đánh giá khách quan, có sự nhất quán trong thực hiện” [Thông báo số 96/TB-VPUB ngày 04/4/2018].

Đến ngày 06/7/2018, UBND thành phố Cần Thơ mới có ý kiến chính thức [Công văn số 2203/UBND-XDĐT] gửi Tổng công ty Cửu Long đề nghị xem xét điều chỉnh từ cống sang cầu tại vị trí Km23+927 [cống 16]. Hiện nay Bộ GTVT đang yêu cầu Tổng công ty Cửu Long chỉ đạo Tư vấn rà soát, nghiên cứu. Trên cơ sở đề xuất của Tổng công ty Cửu Long và Tư vấn, Bộ GTVT sẽ xem xét, quyết định.

11. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị:Cử tri kiến nghị việc đầu tư xây dựng đường cao tốc Bắc – Nam kinh phí bỏ ra rất nhiều, đề nghị lựa chọn nhà thầu nước ngoài có đủ năng lực, uy tín tham gia đấu thầu thực hiện [như nhà thầu nước Cuba].

Trả lời: Tại công văn số 8006/BGTVT-CQLXD ngày 23/7/2018

Tại Nghị quyết số 52/2017/QH14 ngày 22/11/2017, Quốc hội đã thông qua chủ trương đầu tư Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017 – 2020, dự kiến đầu tư 654km, chia thành các dự án thành phần vận hành độc lập, trong đó bao gồm 03 dự án đầu tư công sử dụng toàn bộ vốn ngân sách Nhà nước [vốn Trái phiếu Chính phủ] và 08 dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đang tổ chức thực hiện lập, phê duyệt dự án đầu tư theo quy định để triển khai công tác lựa chọn Nhà đầu tư, lựa chọn nhà thầu thực hiện các dự án.

Đối với các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, theo Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư, các dự án đầu tư này phải áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi quốc tế để lựa chọn Nhà đầu tư. Bộ Giao thông vận tải đang triển khai các thủ tục để tổ chức lựa chọn nhà đầu tư theo đúng quy định nêu trên. Các Nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, muốn tham gia các dự án có thể tham dự thầu lựa chọn Nhà đầu tư để thực hiện dự án. Việc lựa chọn nhà thầu [tư vấn, xây lắp, mua sắm hàng hóa,....] thực hiện dự án thuộc thẩm quyền của Nhà đầu tư.

Đối với các dự án đầu tư công sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, việc tổ chức lựa chọn nhà thầu sẽ phải tuân thủ theo quy định tại Luật Đấu thầu năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thực hiện; theo đó, Điều 15 Luật Đấu thầu quy định việc tổ chức đấu thầu quốc tế chỉ thực hiện khi nhà thầu trong nước không có khả năng đáp ứng yêu cầu thực hiện gói thầu. Với quy mô, tính chất kỹ thuật của các dự án, các nhà thầu trong nước hiện nay có đủ năng lực, kinh nghiệm thi công xây dựng và khả năng về tài chính để thực hiện các gói thầu của dự án. Do vậy, về cơ bản, 03 dự án xây dựng đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông sử dụng vốn ngân sách Nhà nước sẽ được tổ chức đấu thầu rộng rãi trong nước theo quy định nêu trên.

12. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị:Cử tri huyện Thống nhất phản ảnh tiến độ thực hiện dự án cầu vượt Dầu Giây quá chậm, đồng thời đề nghị chủ đầu tư dự án sớm tổ chức họp, thông báo rộng rãi cho các hộ dân xung quanh khu vực biết về chính sách bồi thường, hỗ trợ đối với các hộ dân bị thu hồi đất thực hiện dự án này.

Trả lời: Tại công văn số 8255/BGTVT-CQLXD ngày 30/7/2018

Sau khi hoàn thành xây dựng mở rộng QL20 đoạn Dầu Giây - Tp. Bảo Lộc còn dư vốn, UBND tỉnh Đồng Nai có các văn bản số 6499/UBND-ĐT ngày 17/7/2014, số 10555/UBND-ĐT ngày 17/12/2015 đề nghị Bộ GTVT đầu tư mở rộng đoạn Km0 ÷ Km1+877 và cải tạo nút giao Dầu Giây để địa phương phát triển khu đô thị Dầu Giây, trong đó cam kết thực hiện công tác GPMB đảm bảo yêu cầu tiến độ dự án.

Bộ GTVT đã phê duyệt dự án đầu tư xây dựng bổ sung hạng mục tại quyết định số 638/QĐ-UBND ngày 04/3/2016 với thời gian hoàn thành dự án vào cuối tháng 3/2018; Ban QLDA 7 đã bàn giao cọc mốc GPMB cho địa phương từ khoảng tháng 4/2016 để địa phương thực hiện công tác bồi thường, GPMB.

Dự án đã triển khai thi công từ tháng 02/2017. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện GPMB của địa phương rất chậm, đến tháng 7/2017 chỉ bàn giao mặt bằng phạm vi đất công, còn vướng toàn bộ mặt bằng QL1 đoạn từ nút giao ĐT769 về phía Tp. Biên Hòa và nhánh rẽ từ Tp. Bảo Lộc về Tp. Biên Hòa; đến nay vẫn chưa bàn giao mặt bằng phạm vi còn lại của dự án.

Nhà thầu đã tập trung thi công ngay những vị trí có mặt bằng, đã hoàn thành mở rộng QL20 đoạn Km0+300 ÷ Km1+877, cơ bản hoàn thành đường đầu cầu vượt phía Bắc và các trụ nằm trong phạm vi đường cũ. Đến nay việc triển khai thi công khó khăn do vướng mặt bằng thi công.

Bộ GTVT đã có nhiều văn bản gửi Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đồng Nai [số 4467/BGTVT-CQLXD ngày 26/4/2017, số 1798/BGTVT-CQLXD ngày 11/02/2018, số 3700/BGTVT-CQLXD ngày 14/4/2018] và Lãnh đạo Bộ GTVT đã trực tiếp làm việc với Lãnh đạo UBND tỉnh Đồng Nai đề nghị đẩy nhanh công tác GPMB; Ban QLDA 7 cũng đã rất tích cực đôn đốc, bám các cơ quan của địa phương để giải quyết các vướng mắc liên quan. Tuy nhiên, công tác hoàn thiện thủ tục GPMB tiến triển rất chậm, đến nay Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Đồng Nai vẫn chưa xong hồ sơ đo đạc địa chính để chuyển cho UBND huyện Thống Nhất thực hiện họp, công bố với dân về phạm vi, chủ trương chính sách bồi thường, thu hồi đất và kiểm kê lập phương án bồi thường.

Dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BT, nhà đầu tư sử dụng vốn vay nước ngoài với kế hoạch giải ngân kết thúc trong năm 2018, nếu không hoàn thành phải dừng dãn sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân và khó khăn cho tổ chức đảm bảo an toàn giao thông khu vực nút giao Dầu Giây. Do đó, Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai quan tâm, có ý kiến và đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai và UBND huyện Thống Nhất khẩn trương chỉ đạo các cơ quan liên quan của địa phương đẩy nhanh công tác bồi thường GPMB bàn giao cho thi công trong tháng 8/2018 [Bộ GTVT sẽ chỉ đạo chủ đầu tư phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan của địa phương trong quá trình thực hiện].

13. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị:Cử tri Đồng Nai kiến nghị việc quy hoạch hành lang lộ giới Quốc lộ 20 hiện nay là 38m tính từ tim đường, trong khi thực tế nhiều hộ dân đã xây dựng nhà ở kiên cố trong phạm vi từ 13m trở vào. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải điều chỉnh lại quy hoạch hành lang lộ giới Quốc lộ 20 cho phù hợp với thực tế tại địa phương.

Trả lời: Tại công văn số 8462/BGTVT-KCHT ngày 02/8/2018

1. Theo quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 356/QĐ-TTg ngày 25/02/2013 có quy hoạch “Quốc lộ 20 từ Dầu Giây [Đồng Nai] đến Đà Lạt [Lâm Đồng] cơ bản duy trì tiêu chuẩn đường cấp III, 2 làn xe”. Hiện nay, Dự án khôi phục, cải tạo Quốc lộ 20 qua địa bàn tỉnh Đồng Nai đã được đầu tư và hoàn thành phù hợp với quy hoạch.

2. Căn cứ Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; Nghị định số 100/2013/NĐ-CP ngày 03/9/2013 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP và Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23/9/2015 của Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP, hành lang an toàn đường bộ đối với đường cấp III [như QL.20] được quy định như sau:

- Đối với đường ngoài đô thị, phạm vi đất dành cho đường bộ [gồm đất của đường bộ và đất hành lang an toàn đường bộ] có bề rộng tính từ mép ngoài cùng của nền đường bộ [chân mái đường đắp hoặc mép ngoài của rãnh dọc tại các vị trí không đào không đắp hoặc mép đỉnh mái đường đào] ra mỗi bên 15 mét.

- Đối với đường đô thị, giới hạn hành lang an toàn đường bộ là chỉ giới đường đỏ theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt [Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai].

Hiện nay, mốc lộ giới hành lang an toàn đường bộ thuộc Dự án khôi phục, cải tạo QL.20 đã được cắm theo đúng các quy định trên. Do vậy, đối với kiến nghị của cử tri tỉnh Đồng Nai nêu trên, Bộ GTVT không có căn cứ để điều chỉnh lại quy định về chiều rộng hành lang an toàn đường bộ của QL.20.

14. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị:Tiếp tục đề nghị các Bộ, ngành liên quan và các tỉnh của Lào, Thái Lan sớm hoàn thiện các thủ tục mở tuyến vận tải hành khách từ thành phố Hà Tĩnh đi thị xã Thà Khẹc, tỉnh Khăm Muộn đến tỉnh Nakon Phanon, Thái Lan và ngược lại.

Trả lời: Tại công văn số 7679/BGTVT-HTQT ngày 13/7/2018

Ngày 23/12/2015, Bộ GTVT Việt Nam đã tổ chức Hội nghị ba bên lần thứ nhất về việc mở thí điểm tuyến vận tải hành khách từ thành phố Hà Tĩnh đi thị xã Thà Khẹc, tỉnh Khăm Muộn đến tỉnh Nakon Phanon; trong đó thống nhất một số nội dung về tuyến đường, các cặp cửa khẩu, đầu mối liên lạc của mỗi Bên, và Hội nghị lần thứ hai sẽ do phía Lào tổ chức.

Thực hiện Biên bản Hội nghị lần thứ nhất, từ ngày 19-22/01/2016 Bộ GTVT ba nước đã tổ chức khảo sát tuyến Băng Cốc - Nakhon Phanom - Thà Khẹc - Hà Tĩnh. Qua kết quả khảo sát tuyến này, Việt Nam và Lào đều nhận thấy để khai thác hiệu quả tuyến, đề nghị nối dài tuyến Hà Tĩnh – Thà khẹt – Nankhon Phanom đến Bangkok và ngược lại. Đồng thời, phía Lào cũng nêu các doanh nghiệp vận tải của ba nước cần tổ chức họp trao đổi, thống nhất một số nội dung [hành trình chạy xe, số lượng phương tiện hoạt động trên tuyến, ngày chạy xe, giá vé cũng như thời gian thí điểm khai thác tuyến, thời gian chấp thuận khai thác tuyến] để nội dung phía Lào tổ chức Hội nghị lần 2 được hiệu quả, thực tiễn.

Để thúc đẩy cho việc mở tuyến vận tải này, ngày 13/9/2017 tại thành phố Hà Tĩnh, Tổng cục Đường bộ Việt Nam [Bộ GTVT Việt Nam] đã phối hợp cùng Cục Vận tải Lào [Bộ CC&VT Lào], Cục Vận tải mặt đất Thái Lan [Bộ GTVT Thái Lan] tham dự cuộc họp giữa ba doanh nghiệp vận tải ba nước để cùng nhau giám sát nội dung trao đổi giữa ba doanh nghiệp vận tải ba nước Việt Nam, Lào, Thái Lan; hướng dẫn, giải đáp những vướng mắc, khó khăn trong quá trình triển khai; thống nhất các nội dung mà ba doanh nghiệp vận tải ba nước cần triển khai trong thời gian tới. Tại cuộc họp, các doanh nghiệp đã thống nhất một số nội dung cơ bản trong khai thác tuyến; tuy nhiên phía Thái Lan vẫn chưa thống nhất mở rộng tuyến đến Bangkok. Các bên cũng đã thống nhất Hội nghị lần thứ 2 về vấn đề này sẽ được phía Lào chủ trì tổ chức, tuy nhiên đến nay phía Lào vẫn chưa tổ chức được.

Trên thực tế, tồn tại lớn của việc mở tuyến vận tải qua lại ba nước nêu trên là do phía Thái Lan chưa có ý kiến về việc mở rộng tuyến đến Bangkok và phía Lào chưa thực sự thúc đẩy vì Bạn luôn cho rằng Lào không nhận được lợi ích khi triển khai tuyến này. Lào đề xuất kéo dài tuyến đến Băng Cốc cũng là biện pháp kỹ thuật nhằm kéo dài thời gian và chưa sẵn sàng mở tuyến.

Về phía Việt Nam, Bộ GTVT đã kiến nghị Bộ Công Thương [chủ trì Kỳ họp Ủy ban hỗn hợp về Thương mại Việt Nam – Thái Lan] tại Kỳ họp lần thứ 3 dự kiến tổ chức ngày 02-03/8/2018 về việc đề nghị phía Thái Lan cho phép mở rộng tuyến vận tải nêu trên đến Bangkok, đồng thời thúc đẩy phía Lào tổ chức Hội nghị lần thứ 2 để sớm hoàn thiện cơ chế triển khai, khai thác tuyến vận tải này.

15. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị:Làm việc với Bộ, ngành liên quan hai nước Lào và Thái Lan để sớm hoàn thành các thủ tục ký Bản ghi nhớ về việc bổ sung tuyến đường 8, đường 12 trên lãnh thổ Việt Nam và Lào vào Nghị định thư số 1 của Hiệp định về tạo thuận lợi vận tải người và hàng hóa qua lại biên giới giữa các nước Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng.

Trả lời: Tại công văn số 7679/BGTVT-HTQT ngày 13/7/2018

Trong Khuôn khổ Hợp tác giữa các nước tiểu vùng Mê Công mở rộng [GMS], bắt nguồn từ Hiệp định ba bên Việt Nam – Lào – Thái Lan về tạo thuận lợi cho vận tải bằng đường bộ giữa ba nước, Hiệp định Tạo thuận lợi vận chuyển người và hàng hóa qua lại biên giới giữa các nước GMS - Hiệp định GMS-CBTA [với sự hỗ trợ của Ngân hàng Phát triển Châu Á –ADB, đóng vai trò Ban Thư ký], đã dần được mở rộng với sự tham gia của các nước thành viên GMS còn lại [Campuchia, Trung Quốc và Myanmar lần lượt gia nhập vào các năm 2001, 2002 và 2003].

Hiệp định gồm 20 Phụ lục và Nghị định thư; trong đó Campuchia, Trung Quốc, Lào và Việt Nam đã phê chuẩn toàn bộ 20 Phụ lục và Nghị định thư [năm 2008 và 2009]. Hai nước còn lại là Thái Lan và Myanmar vừa hoàn thành việc phê chuẩn vào cuối năm 2015.

Sự chậm trễ trong việc phê chuẩn nêu trên [10 năm sau khi ký kết] dẫn đến các nội dung quy định tại Hiệp định GMS-CBTA liên quan đến thủ tục qua lại biên giới, tuyến đường, cặp cửa khẩu, … đến nay đã có nhiều thay đổi; vì vậy Ngân hàng ADB và các nước GMS đã thống nhất đàm phán, báo cáo Chính phủ để ký kết Bản ghi nhớ về việc thực hiện “Thu hoạch sớm” Hiệp định GMS-CBTA.

Tại Cuộc họp Ủy ban Hỗn hợp lần thứ 6 thực hiện Hiệp định GMS-CBTA tổ chức ngày 14-15/3/2018 tại Hà Nội, các bên đã hoàn thành việc ký kết Bản ghi nhớ “Thu hoạch sớm” nêu trên. Cũng tại cuộc họp này, các nước đã thống nhất đề nghị Ban Thư ký dự thảo Bản ghi nhớ bổ sung tuyến đường, cặp cửa khẩu Nghị định thư số 1 Hiệp định GMS-CBTA.

Vừa qua, căn cứ dự thảo Bản ghi nhớ bổ sung tuyến đường, cặp cửa khẩu của Ban thư ký gửi, Bộ GTVT đã có văn bản số 7380/BGTVT-HTQT ngày 09/7/2018 để nghị các Bộ, ngành, địa phương liên quan góp ý. Trên cơ sở đề xuất, góp ý của các Bộ ngành, địa phương, Bộ GTVT sẽ tổng hợp và trao đổi, đàm phán tại các cuộc họp sắp tới. Bộ GTVT sẽ sớm thông tin tình hình đàm phán Bản ghi nhớ đến các cơ quan liên quan.

16. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị:Để kịp thời khắc phục tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của cầu Pác Luồng [cây cầu nằm trên tuyến Quốc lộ huyết mạch nối với huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn], bảo đảm an toàn tính mạng cho người và phương tiện tham gia giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng cho tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Bắc Kạn. Đề nghị Bộ GTVT ưu tiên, bố trí nguồn vốn để triển khai thực hiện cầu Pác Luồng tại Km23+845 [Km105 cũ] Quốc lộ 3B, thuộc địa phận huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn [UBND tỉnh Lạng Sơn đã có văn bản số 185/UBND-KTN ngày 06/3/2018 gửi Bộ GTVT].

Trả lời: Tại công văn số 8369/BGTVT-KHĐT ngày 31/7/2018

Do yêu cầu cần đầu tư cầu Pác Luồng tại Km23+845 - Quốc lộ 3B, Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ cho phép bổ sung cầu Pác Luồng vào dự án tín dụng ngành GTVT để cải tạo mạng lưới đường Quốc gia lần 2 lần 2 [dự án TSL2], vốn vay ODA Nhật Bản. Hiện nay, Bộ GTVT đang triển khai lập điều chỉnh báo cáo nghiên cứu khả thi dự án TSL2 làm cơ sở triển khai các bước tiếp theo, dự kiến khởi công cầu Pác Luồng trong năm 2019, hoàn thành năm 2020.

17. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị:Dự án Kết nối giao thông các tỉnh miền núi phía Bắc là dự án đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhất trí ưu tiên triển khai thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay Dự án chưa được đưa vào kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020. Đề nghị Chính phủ sớm phê duyệt chủ trương đầu tư và đưa Dự án Kết nối giao thông các tỉnh miền núi phía Bắc, vốn vay ADB vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.

Trả lời: Tại công văn số 8373/BGTVT-KHĐT ngày 31/7/2018

  1. Về kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 của Dự án

Bộ GTVT đã có văn bản số 4861/BGTVT-KHĐT ngày 10/5/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án điều hòa, điều chỉnh và sử dụng 10% dự phòng kế hoạch đầu tư công của Bộ GTVT giai đoạn 2016-2020, trong đó đã kiến nghị phương án sử dụng dự phòng trung hạn của Bộ GTVT để bố trí vốn nước ngoài và vốn đối ứng cho dự án.

  1. Về chủ trương đầu tư Dự án

Ngày 16/1/2018, Bộ GTVT có tờ trình số 483/TTr-BGTVT trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chủ trương đầu tư Dự án Kết nối giao thông các tỉnh miền núi phía Bắc. Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư [Bộ KH&ĐT] xin ý kiến các bộ, ngành và chủ trì thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi. Căn cứ vào ý kiến các bộ ngành và ý kiến thẩm định của Bộ KH&ĐT tại văn bản số 3797/BC-BKHĐT ngày 05/6/2018, ngày 29/6/2018 Bộ GTVT đã có văn bản số 7048/TTr-BGTVT trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư dự án sau khi cập nhật, giải trình các ý kiến thẩm định của Bộ KH&ĐT. Hiện Văn phòng chính phủ đang xem xét, tổng hợp ý kiến của các cơ quan liên quan để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét chấp thuận.

18. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị:Cử tri đề nghị Bộ GTVT quan tâm phối hợp với các bộ, ngành liên quan đề xuất các cơ chế đầu tư để sớm triển khai thực hiện một số dự án hạ tầng giao thông quan trọng có tính chất thông thương, đối ngoại, liên kết vùng thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng theo Quyết định 1528/QĐ-TTg ngày 03/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ như: đường cao tốc Dầu Giây - Liên Khương, hoàn thành các đoạn thiết yếu trước năm 2020 theo hình thức PPP, BT, BOT, BTO, ODA…; nâng cấp Quốc lộ 27 [trong đó có đường tránh Sân bay Liên Khương]; đường nối từ TP Đà Lạt - đường Đông Trường Sơn - Đưng K’Nớ [huyện Lạc Dương] tới xã Đạ Tông [huyện Đam Rông].

Trả lời: Tại công văn số8261/BGTVT-KHĐT ngày 30/7/2018

  1. Về đường cao tốc Dầu Giây - Liên Khương

Tuyến cao tốc Dầu Giây - Liên Khương có tổng mức đầu tư lớn [nếu đầu tư đủ tiêu chuẩn đường cao tốc 04 làn xe mặt cắt ngang 25m với tổng chiều dài 200km cần đến khoảng 65.000 tỷ đồng]. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, phương án và kế hoạch đầu tư dự kiến đối với các dự án thành phần như sau:

- Dự án thành phần I [Dầu Giây - Tân Phú, chiều dài khoảng 60km] trên địa bàn tỉnh Đồng Nai: phân kỳ đầu tư giai đoạn 1 quy mô Bn=17m với TMĐT khoảng 7.000 tỷ đồng được thực hiện theo hình thức đầu tư BOT. Hiện nay, Bộ GTVT đã phê duyệt đề xuất và công bố Danh mục dự án kêu gọi đầu tư trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời, Bộ GTVT đang thống nhất với UBND tỉnh Đồng Nai về quy mô dự án làm cơ sở thẩm định Hồ sơ Báo cáo nghiên cứu khả thi để dự kiến phê duyệt vào đầu Quý III/2018. Sau khi phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi sẽ tổ chức đấu thầu quốc tế theo quy định tại Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 của Chính phủ và dự kiến hoàn thành công tác lựa chọn nhà đầu tư để bắt đầu triển khai thực hiện đầu tư vào đầu năm 2019.

- Đối với Dự án thành phần II [Tân Phú - Bảo Lộc, phân kỳ đầu tư giai đoạn 1 quy mô Bn=17m, chiều dài khoảng 66km] trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng, TMĐT khoảng 17.000 tỷ đồng; do địa hình phức tạp đòi hỏi các công trình đặc biệt [cầu cạn, hầm] và lưu lượng xe không lớn nên Dự án nên không thể triển khai theo hình thức BOT. Bộ GTVT đã có Công văn số 10557/BGTVT-KHĐT ngày 08/9/2016 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị huy động vốn vay từ Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản [JICA]. Đồng thời, Bộ GTVT đang tiếp tục làm việc với UBND tỉnh Lâm Đồng để phối hợp xúc tiến tìm kiếm nguồn vốn khả thi khác để sớm triển khai dự án.

- Đối với Dự án thành phần III [Bảo Lộc - Liên Khương, chiều dài 73km, quy mô Bn=17m, TMĐT khoảng 13.000 tỷ đồng] trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng: Nếu thực hiện theo hình thức hợp đồng BOT cần có sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nước khoảng trên 3.000 tỷ đồng mới đảm bảo khả năng hoàn vốn. Hồ sơ đề xuất dự án đã cơ bản hoàn thành nhưng chưa thể phê duyệt do chưa cân đối được nguồn vốn hỗ trợ cho dự án. Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp UBND tỉnh Lâm Đồng làm việc với các Bộ, ngành liên quan để xây dựng kế hoạch phù hợp và cân đối bố trí nguồn vốn làm cơ sở triển khai đảm bảo phù hợp các quy định của pháp luật.

  1. Về quốc lộ 27

Xác định vai trò quan trọng của các tuyến quốc lộ qua địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đặc biệt là quốc lộ 27 – đoạn tránh sân bay Liên Khương, trong thời gian qua, Chính phủ đã báo cáo và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội chấp thuận bố trí vốn để cải tạo, nâng cấp quốc lộ 27 – đoạn tránh sân bay Liên Khương trong nguồn vốn dự phòng kế hoạch trung hạn giai đoạn 2016 - 2020. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ bố trí vốn, Bộ GTVT sẽ triển khai dự án theo quy định.

Đối với các đoạn còn lại của QL.27, Bộ GTVT đã đưa vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, nguồn vốn giai đoạn 2016-2020 được Quốc hội, Chính phủ giao cho Bộ GTVT rất hạn chế [chỉ cân đối kế hoạch được khoảng 292.000 tỷ đồng/952.000 tỷ đồng nhu cầu]. Đồng thời, việc phân bổ, sử dụng nguồn vốn này phải tuân thủ theo nguyên tắc, tiêu chí của Quốc hội, theo đó ưu tiên bố trí vốn để thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản; hoàn trả vốn ứng trước; bố trí vốn đối ứng cho các dự án sử dụng vốn ODA và các dự án đang triển khai dở dang, do đó không có nguồn để bố trí cho Dự án. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác duy tu, sửa chữa, đảm bảo êm thuận và an toàn giao thông trên tuyến đường. Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với tỉnh Lâm Đồng để huy động, tìm kiếm nguồn vốn đầu tư tuyến đường này.

  1. Về đường nối từ TP Đà Lạt - đường Đông Trường Sơn - Đưng K’Nớ [huyện Lạc Dương] tới xã Đạ Tông [huyện Đam Rông]

Tuyến đường nối từ Tp. Đà Lạt - đường Đông Trường Sơn - Đưng K’Nớ [huyện Lạc Dương] tới xã Đạ Tông [huyện Đam Rông] được đầu tư hoàn thành sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng các huyện Lạc Dương, Đam Rông nói riêng và tỉnh Lâm Đồng nói chung. Vì vậy, việc sớm đầu tư hoàn thành dự án là cần thiết.

Theo quy định tại Luật Ngân sách, hệ thống đường địa phương do UBND tỉnh quản lý và đầu tư. Do vậy, vốn đầu tư cho dự án nêu trên thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách các địa phương. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Lâm Đồng chủ động nghiên cứu bố trí vốn và huy động các nguồn vốn hợp pháp để triển khai hoàn thành dự án, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Trong trường hợp Tỉnh có khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Lâm Đồng báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, hỗ trợ từ nguồn ngân sách Trung ương theo quy định, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ trong quá trình triển khai.

19. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị:Cử tri kiến nghị Bộ Giao thông vận tải tăng cường công tác duy tu, sửa chữa và kiểm tra về trật tự an toàn giao thông trên tuyến N2 đoạn qua tỉnh Long An. Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ Giao thông vận tải sớm nâng cấp, mở rộng tuyến Quốc lộ 62 để người dân thuận lợi hơn trong đi lại, giao thương và vận chuyển hàng hóa.

Trả lời: Tại công văn số 8134/BGTVT-KHĐT ngày 25/7/2018

  1. Về công tác duy tu, sửa chữa tuyến N2 qua địa phận tỉnh Long An:

Quốc lộ N2 qua địa phận tỉnh Long An có chiều dài khoảng 96,9km [từ Km5+018 – Km101+902]. Với nguồn vốn Quỹ bảo trì hạn chế, hàng năm chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu vốn để bảo trì, duy tu sửa chữa hệ thống quốc lộ trên cả nước, do vậy việc phân bổ nguồn vốn để thực hiện công tác bảo dưỡng thường xuyên, sửa chữa tuyến N2 cũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Tổng kinh phí được bố trí cho Quốc lộ N2 để bảo dưỡng thường xuyên và sửa chữa định kỳ trong các năm 2017, 2018 và dự kiến giao năm 2019 khoảng 86,5 tỷ đồng. Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác kiểm tra trên tuyến, sớm phát hiện các vị trí hư hỏng để có giải pháp xử lý kịp thời, đảm bảo an toàn giao thông cho người và phương thiện tham gia giao thông trên tuyến.

  1. Về việc nâng cấp, mở rộng tuyến Quốc lộ 62:

Bộ GTVT đã có văn bản số 641/BGTVT-KHĐT ngày 19/01/2018 về việc trả lời kiến nghị cử tri tỉnh Long An gửi tới Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV về nội dung này. Bộ GTVT sẽ tiếp tục báo cáo Thủ tướng Chính phủ bổ sung nguồn vốn dự phòng của Chính phủ giai đoạn 2016-2020 để hoàn thành các công trình dở dang và triển khai một số công trình quan trọng, cấp bách của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Khi được bổ sung nguồn vốn, Bộ GTVT sẽ xem xét đến việc đầu tư một số dự án quốc lộ quan trọng trên địa phận tỉnh Long An, trong đó có tuyến Quốc lộ 62. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác kiểm tra, duy tu, sửa chữa để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông trên tuyến.

20. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị:Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải sớm có giải pháp đền bù cho các hộ dân vòng xoay Hiệp Hòa [huyện Đức Hòa, tỉnh Long An và thi công hoàn thành tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa vì công trình tạm dừng đã nhiều năm gây lãng phí.

Trả lời: Tại công văn số 6582/BGTVT-ĐTCT ngày 20/6/2018

Nội dung kiến nghị của cử tri đã được Đại biểu Trương Phi Hùng và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Long An ghi Phiếu chất vấn ngày 24/5/2018, Bộ Giao thông vận tải đã trả lời tại văn bản số 5827/BGTVT-ĐTCT ngày 04/6/2018, nội dung như sau:

Dự án đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa thuộc quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 01/3/2016 [trước đây là Quyết định số 1734/QĐ-TTg ngày 01/12/2008] với quy mô 4 làn xe.

Thực hiện Nghị Quyết 38/2004/QH11 ngày 03/12/2004 của Quốc hội, Bộ Giao thông vận tải đã phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 3950/QĐ-BGTVT ngày 17/12/2007 với chiều dài 84 km, tiêu chuẩn kỹ thuật cơ bản đạt đường cao tốc, mặt cắt ngang giai đoạn phân kỳ 02 làn xe, tổng mức đầu tư 3.389 tỷ đồng bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Dự án đã được khởi công từ năm 2009, đã cơ bản thi công hoàn thành phần nền đường. Tuy nhiên, do khó khăn về nguồn vốn, thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ và Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ, dự án đã tạm đình hoãn.

Được sự đồng ý chủ trương của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã phê duyệt Đề xuất dự án đầu tư theo hình thức BOT với quy mô 02 làn xe, đặt 02 trạm thu phí theo lượt để hoàn vốn. Tuy nhiên, Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 của UBTV Quốc hội đã chỉ ra tính bất cập của hình thức thu phí hở không bảo đảm tính công bằng, không nhận được sự đồng thuận của người dân, đặc biệt đối với dự án Chơn Thành - Đức Hòa phải cần tới 02 trạm thu phí mới có thể hoàn vốn.

Trên cơ sở đó, Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 3843/BGTVT-ĐTCT ngày 13/4/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án đầu tư hoàn thiện dự án Chơn Thành - Đức Hòa theo quy mô 04 làn xe cao tốc [Bnền =17 m] và sử dụng hình thức thu phí kín [theo chiều dài đường sử dụng] nhằm bảo đảm công bằng cho người sử dụng. Tại văn bản số 4141/VPCP-CN ngày 07/5/2018 Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Giao thông vận tải quyết định theo thẩm quyền.

Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đang chỉ đạo các cơ quan đơn vị khẩn trương cập nhật, hoàn chỉnh hồ sơ Báo cáo nghiên cứu khả thi để phê duyệt. Theo tiến độ dự kiến triển khai, sẽ phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả dự án khoảng tháng 11/2018; đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư khoảng 12 tháng [hoàn thành khoảng tháng 12/2019]. Như vậy, nếu dự án triển khai thuận lợi thì khoảng đầu năm 2020 mới có thể bố trí được nguồn vốn để tổ chức đền bù cho bà con có đất bị thu hồi theo quyết định thu hồi đất.

Do vậy, để sớm bố trí nguồn vốn đền bù cho người dân, Bộ Giao thông vận tải sẽ chỉ đạo các cơ quan liên quan cập nhật số liệu giải phóng mặt bằng để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, giải quyết theo đề xuất của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Long An.

21. Cử tri tỉnh Nam Định kiến nghị:Đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương quan tâm thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư xây dựng dự án tuyến đường cao tốc Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình theo hình thức PPP, góp phần phát triển kinh tế - xã hội khu vực đồng bằng Bắc bộ, giảm tải cho quốc lộ 10, quốc lộ 1 và sân bay Nội Bài; Dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển đoạn qua tỉnh Nam Định bằng nguồn vốn ngân sách.

Trả lời: Tại công văn số 8196/BGTVT-ĐTCT ngày 27/7/2018

  1. Về dự án tuyến đường cao tốc Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình

Dự án tuyến đường cao tốc Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình [Dự án] được Thủ tướng Chính phủ giao UBND tỉnh Nam Định chủ trì nghiên cứu triển khai theo hình thức đối tác công - tư tại các văn bản số 392/TTg-CN ngày 16/3/2017 và số 6559/VPCP-CN ngày 26/6/2017.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng tại văn bản số 2156/VPCP-CN ngày 08/3/2018 của Văn phòng Chính phủ [giao Bộ GTVT chủ trì thẩm định Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án], Bộ GTVT đã có văn bản số 2837/BGTVT-ĐTCT ngày 21/3/2018 gửi các Bộ: Quốc phòng, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài Nguyên và Môi trường; UBND các tỉnh: Thái Bình, Ninh Bình đề nghị cho ý kiến thẩm định về Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án. Bộ GTVT đã thẩm định và có Báo cáo kết quả thẩm định số 5739/BC-BGTVT ngày 31/5/2018 [kèm theo tổng hợp ý kiến của các bộ, ngành, địa phương] gửi UBND tỉnh Nam Định. Đề nghị UBND tỉnh Nam Định chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư dự án, đồng thời, báo cáo đến cử tri tỉnh Nam Định để cử tri được rõ.

2. Về dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển đoạn qua tỉnh Nam Định

Dự án đường ven biển đoạn qua tỉnh Nam Định đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự kiến bố trí 1.000 tỷ đồng từ nguồn vốn NSNN giai đoạn 2016-2020 để hỗ trợ tỉnh Nam Định đầu tư theo hình thức đối tác công - tư tại văn bản số 4240/BKHĐT-TH ngày 25/5/2017.

Theo phân cấp, UBND tỉnh Nam Định là cấp quyết định đầu tư, do vậy, đề nghị UBND tỉnh Nam Định triển khai các bước tiếp theo theo quy định hiện hành và báo cáo đến cử tri tỉnh Nam Định để cử tri được rõ.

22. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị:Tại lý trình Km5+760 đường tỉnh 314C giao cắt với tuyến đường sắt Yên Viên – Lào Cai vị trí Km117+400 chưa được nâng cấp, cải tạo thảm bê tông nhựa nên ảnh hưởng đến chất lượng khai thác vận tải của tuyến đường; gây khó khăn cho phương tiện khi lưu thông và đã có nhiều vụ va chạm giao thông xảy ra tại vị trí giao cắt. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét, có kế hoạch duy tu, sửa chữa đoạn đường bộ trong phạm vi đường ngang nhằm tạo điều kiện cho người dân sinh sống quanh vùng tham gia giao thông được thuận lợi.

Trả lời: Tại công văn số 8375/BGTVT-KCHT ngày 31/7/2018

1. Đường ngang Km117+400 tuyến đường sắt Yên Viên – Lào Cai là đường ngang công cộng, có người gác; đây là điểm giao cắt giữa đường sắt và ĐT.314C.Hiện tại, địa phương đang thực hiện dự án tu bổ, hoàn chỉnh và gia cố mặt đê tả sông Thao theo Quyết định số 2174/QĐ-UBND ngày 05/8/2008 của UBND tỉnh Phú Thọ, trong đó có hạng mục cải tạo, nâng cấp đường ngang tại Km117+400. Việc cải tạo, nâng cấp đường ngang này đã được Tổng công ty ĐSVN chấp thuận tại Quyết định 517/QĐ-ĐS ngày 16/4/2009. Đến nay, dự án nêu trên vẫn chưa hoàn thành và mới thi công phần đường bộ đến phạm vi cần chắn đường ngang.

- Đề nghị địa phương tiếp tục triển khai dự án để hoàn chỉnh việc cải tạo, nâng cấp đường ngang tại Km117+400tuyến đường sắt Yên Viên – Lào Cai theo dự án được duyệt.

2. Trường hợp địa phương không tiếp tục triển khai dự án, đề nghị UBND tỉnh Phú Thọ chỉ đạo các cơ quan chức năng điều chỉnh dự án để bỏ hạng mục cải tạo, nâng cấp đường ngang tại Km117+400tuyến đường sắt Yên Viên – Lào Cai ra ngoài phạm vi dự án. Căn cứ quyết định điều chỉnh dự án, Bộ GTVT chỉ đạo Tổng công ty ĐSVN lập phương án và sửa chữa đường ngang nêu trên nhằm đảm bảo ATGT đường sắt, đường bộ tại đường ngang.

23. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị:Đề nghị Chính phủ, các bộ ngành liên quan của Trung ương khi có quyết định nâng cấp các cửa trên biên giới thành cửa khẩu chính thì việc đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông ở các cửa khẩu biên giới Quốc gia phải đồng bộ giữa 2 bên Việt Nam và Campuchia; vì vừa qua Tây Ninh được Chính phủ quyết định cho nâng cửa khẩu Kà Tum thành cửa khẩu Quốc gia, nhưng chưa được xây dựng đồng bộ giữa hai bên Việt Nam và Campuchia; cụ thể cửa khẩu Kà Tum phía Việt Nam xây dựng hạ tầng tương đối khang trang, nhưng phía bên Campuchia thì không xây dựng; ngược lại tại cửa khẩu phụ Vạc sa Tân Hà huyện Tân Châu phía Campuchia xây dựng hạ tầng tương đối khang trang còn phía Việt Nam thì không xây dựng, vấn đề này gây khó khăn cho việc quản lý xuất nhập cảnh người, phương tiện, hàng hóa qua lại giữa hai nước.

Trả lời: Tại công văn số8257/BGTVT-KHĐT ngày 30/7/2018

Các tuyến đường nối đến cửa khẩu Kà Tum và cửa khẩu Vạc Sa, tỉnh Tây Ninh được nâng cấp, cải tạo sẽ góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng khu vực biên giới, đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý xuất nhập cảnh người, phương tiện, hàng hóa qua lại giữa hai nước Việt Nam và Campuchia.

Theo quy định hiện hành, hệ thống đường địa phương do UBND tỉnh quản lý và đầu tư. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh chủ động nghiên cứu bố trí vốn để triển khai đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Quá trình thực hiện, đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan liên quan và địa phương phía bạn theo quy định để đảm bảo đầu tư đồng bộ, thống nhất và phát huy tốt hiệu quả đầu tư. Trong trường hợp Tỉnh có khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, hỗ trợ từ nguồn ngân sách Trung ương theo quy định, đặc biệt là nghiên cứu, đề xuất theo cơ chế hỗ trợ khi thành lập các khu kinh tế cửa khẩu. Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Tây Ninh trong quá trình triển khai.

24. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị:Cử tri phản ánh giá vé máy bay tuyến thành phố Hồ Chí Minh - Côn Đảo và ngược lại hiện nay quá cao, vẫn còn hiện tượng “ém vé” bảo hết vé để tăng giá nhưng thực tế có chuyến bay rất ít khách, còn rất nhiều chỗ trống.

Trả lời: Tại công văn số 7908/BGTVT-VT ngày 20/7/2018

Bộ GTVT đã nhận được kiến nghị của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Yên tại Công văn số 12/BC-ĐĐBQH ngày 10/5/2018 về báo cáo kết quả tiếp xúc cử tri huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, trong đó, nội dung như kiến nghị của cử tri nêu trên đã được Bộ GTVT làm rõ tại Công văn số 6065/BGTVT-VT ngày 7/6/2018 trả lời kiến nghị trên của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Yên.

25. Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị:Đề nghị đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng của vùng nhất là hệ thống giao thông [cầu Hồng Hà; đường vành đai 5 Hà Nội qua địa phận Vĩnh Phúc, đoạn từ Đèo Nhe đến đường tỉnh lộ 310; đường vành đai 5 vùng thủ đô].

Đề nghị Chính phủ hỗ trợ nguồn vốn cho tỉnh Vĩnh Phúc đầu tư cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 2B [đoạn từ cầu Chân Suối đi Tam Đảo núi]; Đầu tư cầu Trung Hà trên đường vành đai 4, 5 Hà Nội; đường Quốc lộ 2A đoạn từ Vĩnh Yên đi Việt Trì. Cho phép mở nút giao với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai [IC5] tại Đạo Tú để kết nối với các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng và thủ đô Hà Nội, đồng thời bảo đảm an ninh quốc phòng và liên kết chặt chẽ, thống nhất trong không gian kinh tế vùng, đưa kinh tế vùng phát triển nhanh và bền vững.

Trả lời: Tại công văn số 8374/BGTVT-KHĐT ngày 31/7/2018

1. Về đầu tư đường vành đai 5 – vùng Thủ đô Hà Nội:

Đường vành đai 5 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch chi tiết tại Quyết định số 561/QĐ-TTg ngày 18/4/2014, trong đó giao các địa phương triển khai lập dự án, huy động vốn để đầu tư xây dựng các đoạn tuyến trên địa bàn.

Do vai trò quan trong của tuyến đường vành đai 5 nhằm liên kết các đô thị vệ tinh vùng Thủ đô Hà Nội, giảm sự tập trung quá tải lưu lượng vận tải quá cảnh qua Thủ đô Hà Nội nên việc sớm triển khai đầu tư, đưa đường vành đai 5 vào khai thác theo quy hoạch là cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay do nguồn lực của các địa phương và của Trung ương còn hạn chế nên hiện nay chưa thể triển khai đầu tư tuyến đường này.

2. Về đầu tư đường vành đai 5 đoạn từ Đèo Nhe đến tỉnh lộ 310:

Theo quy hoạch chi tiết được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 561/QĐ-TTg ngày 18/4/2014 nêu trên, đường vành đai 5 đoạn từ Đèo Nhe đến tỉnh lộ 310 do UBND tỉnh Vĩnh Phúc lập dự án, huy động vốn đầu tư.

Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri cần thiết sớm đầu tư hoàn thành đoạn tuyến vành đai 5 nêu trên để đáp ứng nhu cầu vận tải, phát triển kinh tế - xã hội. Đề nghị UBND tỉnh Vĩnh Phúc chủ động huy động các nguồn vốn hợp pháp để đầu tư tuyến đường và thông báo đến cử tri tỉnh Vĩnh Phúc được biết về tiến độ thực hiện đầu tư công trình.

3. Đầu tư xây dựng cầu Hồng Hà: Cầu Hồng Hà nằm trên tuyến đường vành đai 4 nối huyện Mê Linh với huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Theo quy hoạch chi tiết đường vành đai 4 – vùng thủ đô Hà Nội được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1287/QĐ-TTg ngày 29/7/2011, công trình cầu Hồng Hà do UBND thành phố Hà Nội lập dự án, huy động vốn đầu tư. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh Vĩnh Phúc làm việc với UBND thành phố Hà Nội về tiến độ đầu tư xây dựng cầu Hồng Hà và thông báo đến cử tri tỉnh Vĩnh Phúc được biết về tiến độ thực hiện đầu tư công trình.

4. Về đề nghị hỗ trợ nguồn vốn cho tỉnh Vĩnh Phúc đầu tư cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 2B đoạn từ cầu Chân Suối đi Tam Đảo núi; Đầu tư cầu Trung Hà trên đường vành đai 4, 5 Hà Nội; đường Quốc lộ 2A đoạn từ Vĩnh Yên đi Việt Trì.

- Quốc lộ 2B là tuyến đường duy nhất nối từ QL.2 đến khu du lịch Tam Đảo, mặt đường hẹp, mất an toàn nên theo đề nghị của UBND tỉnh Vĩnh Phúc tại văn bản số 46/TTr-UBND ngày 26/02/2016, Bộ GTVT đã có văn bản số 2826/BGTVT-KHĐT ngày 16/3/2016 thống nhất về chủ trương để UBND tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện đầu tư cải tạo, nâng cấp QL.2B đoạn từ cầu Chân Suối [Km13] đến khu du lịch Tam Đảo 1 tại văn bản nêu trên bằng nguồn vốn ngân sách tỉnh Vĩnh Phúc.

- Cầu Trung Hà nối huyện Yên Lạc [Vĩnh Phúc] và huyện Phúc Thọ [TP Hà Nội] nằm trên đường vành đai 4,5 trong quy hoạch vùng thủ đô, là tuyến đường địa phương do UBND tỉnh Vĩnh Phúc quản lý đầu tư.

Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh Vĩnh Phúc nghiên cứu cân đối nguồn vốn để đầu tư 02 công trình nêu trên, trường hợp ngân sách địa phương khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Vĩnh Phúc báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, hỗ trợ vốn để đầu tư và thông báo đến cử tri tỉnh Vĩnh Phúc được biết về tiến độ thực hiện đầu tư công trình.

- Quốc lộ 2 đoạn Vĩnh Yên – Việt Trì đã được Bộ GTVT lập dự án đầu tư nâng cấp mở rộng, chiều dài 8,5km, kinh phí đầu tư khoảng 600 tỷ đồng. Bộ GTVT đã dự kiến trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét đầu tư, tuy nhiên do nguồn vốn ngân sách nhà nước khó khăn nên chưa thể bố trí vốn đầu tư dự án. Trước mắt, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục ĐBVN bố trí kinh phí duy tu, bảo trì để đảm bảo điều kiện khai thác bình thường của tuyến đường

5. Cho phép mở nút giao với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai [IC5] tại Đạo Tú

Theo thỏa thuận với UBND tỉnh Vĩnh Phúc tại văn bản số 38/TB-UBND ngày 7/3/2007, Bộ GTVT đã phê duyệt đầu tư dự án xây dựng đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai, trong đó giai đoạn 1 sẽ thực hiện đầu tư các nút giao IC4 [giao QL.2B] và IC6 [giao TL.305]. Nút giao IC5 được thực hiện đầu tư trong giai đoạn 2 khi huy động được nguồn lực và nhu cầu vận tải tăng cao.

Do kinh phí đầu tư tuyến cao tốc Nội Bài – Lào Cai lớn [30.100 tỷ đồng], nguồn thu phí của tuyến cao tốc theo phương án tài chính không đủ để hoàn vốn phần Tổng công ty ĐTPT đường cao tốc Việt Nam [VEC] vay lại vốn vay ADB, phải thực hiên hỗ trợ từ các dự án cao tốc khác của VEC; đồng thời, do nguồn vốn ngân sách nhà nước trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT khó khăn nên trước mắt chưa thể thực hiện đầu tư các nút giao IC5 như đề nghị của cử tri.

26. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:Đề nghị Bộ GTVT tải quan tâm bố trí nguồn vốn để cải tạo, nâng cấp đoạn còn lại Quốc lộ 3C từ ngã ba Quán Vuông đi trung tâm huyện Định Hóa dài khoảng 6 km, vì mặt đường hiện đã xuống cấp và hư hỏng nhiều.

Trả lời: Tại công văn số 9583/BGTVT-KHĐT ngày 27/8/2018

Quốc lộ 3C đoạn qua tỉnh Thái Nguyên nói chung và đoạn từ ngã ba Quán Vuông đến trung tâm huyện Định Hóa được Bộ GTVT nâng cấp từ tỉnh lộ 268 lên quốc lộ tại Quyết định số 3414/QĐ-BGTVT ngày 01/11/2016.

Hiện nay, tuyến có quy mô nhỏ [đường cấp IV miền núi, 2 làn xe], nằm trong khu vực vùng núi còn khó khăn về hạ tầng giao thông. Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri về sự cần thiết đầu tư nâng cấp, mở rộng tuyến đường nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải khu vực, phát triển du lịch tới các khu di tích lịch sử ATK Định Hóa, góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội khu vực.

Do nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế nên chưa thể đầu tư cải tạo, nâng cấp tuyến đường. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam sử dụng nguồn vốn bảo trì để tăng cường duy tu, sửa chữa các tuyến đường nêu trên, đảm bảo khai thác êm thuận, an toàn, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân trong khu vực.

27. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị:Cử tri kiến nghị Quốc hội cần có sự xem xét để thay đổi hình thức và mức phạt đối với những trường hợp vi phạm pháp luật giao thông ở mức độ lỗi nhẹ [bảo hiểm xe hết hạn 7 ngày, chạy quá tốc độ nơi đường vắng thưa khu dân cư]; những vi phạm nhỏ nên thực hiện việc nhắc nhở thay vì lập biên bản xử phạt hành chính như hiện nay.

Trả lời: Tại công văn số 7787/BGTVT-ATGT ngày 17/7/2018

Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính nói riêng là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước, nhằm duy trì trật tự, kỷ cương quản lý hành chính nhà nước; đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của người dân, tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện và xử lý kịp thời, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra đều phải được khắc phục; việc xử lý vi phạm hành chính được căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định.

Với quan điểm như trên, Luật xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012 đã quy định đầy đủ, toàn diện các vấn đề về xử lý vi phạm hành chính; trong đó, hình thức xử phạt vi phạm hành chính ở mức độ nhẹ nhất là cảnh cáo, hình thức này được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ. Ngoài ra, trong Luật có quy định về hình thức “nhắc nhở” - là biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính được áp dụng đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính.

Về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ: thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, năm 2016, Bộ Giao thông vận tải đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt [Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2016]. Trong quá trình xây dựng Nghị định này, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung các hành vi vi phạm có nguy cơ cao gây mất an toàn giao thông; đồng thời đã điều chỉnh chế tài xử phạt cho tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm, đảm bảo tính răn đe và khả thi khi thực hiện.

Đối với hai hành vị cụ thể mà cử tri đã nêu, Bộ Giao thông vận tải xin giải thích và làm rõ như sau:

- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một hình thức hỗ trợ, khắc phục thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khi gặp những sự kiện rủi ro gây ra; phạm vi bồi thường thiệt hại, gồm: thiệt hại thân thể, tính mạng và tài sản đối với bên thứ ba do xe cơ giới gây ra. Như vậy, khi tham gia bảo hiểm, chủ phương tiện và cả bên thứ ba bị rủi ro sẽ dễ dàng vượt qua được khó khăn do rủi ro mang đến, đồng thời giảm được gánh nặng đối với xã hội. Với tính chất quan trọng như trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 09 năm 2008 về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; trong đó, tại Điều 6 của Nghị định đã quy định chủ xe cơ giới phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự.

Khi bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới hết hạn [dù chỉ 01 ngày] sẽ không bảo đảm quyền lợi cho chủ phương tiện và cả bên thứ ba bị rủi ro như đã nêu. Do đó khi chủ xe cơ giới đường bộ khi tham gia giao thông không có Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự [hoặc có những đã hết hạn] thì sẽ bị xử phạt theo quy định tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP là phù hợp với tình hình thực tiễn và đáp ứng yêu cầu quản lý.

- Về hành vi chạy quá tốc độ nơi đường vắng thưa dân cư: hiện nay, để bảo đảm an toàn giao thông, tốc độ tối đa cho phép của phương tiện khi tham gia giao thông phụ thuộc vào những yếu tố như: loại phương tiện, tốc độ khai thác của tuyến đường, quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật của tuyến đường, khu vực trong dân cư và khu vực ngoài dân cư, các khu vực tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông [trường học, bệnh viện, nút giao, điều kiện mặt đường…]; theo đó đường cấp càng cao thì tốc độ tối đa cho phép của phương tiện càng lớn, đường ngoài khu vực dân cư có tốc độ cho phép cao hơn đường trong khu vực dân cư, các vị trí tiềm ẩn tai nạn giao thông có thể hạn chế tốc độ khai thác cho phù hợp với thực tiễn…Như vậy, với quy định cụ thể như trên mà người điều khiển phương tiện vẫn có hành vi điều khiển phương tiện chạy quá tốc độ tối đa cho phép của tuyến đường là hành vi nghiêm trọng, có nguy cơ cao xảy ra tai nạn giao thông.

Để có chế tài xử phạt tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm, tại Nghị định số 46/2016/NĐ-CP đã quy định mức xử phạt khác nhau tương ứng với từng mức độ vi phạm quy định về tốc độ tối đa cho phép của phương tiện khi tham gia giao thông [chạy quá từ 05km – 10km, 10km – 20km, 20km – 35km, trên 35km].

28. Cử tri các tỉnh An Giang, Long An, TP Hồ Chí Minh kiến nghị:Tình hình tai nạn giao thông vẫn còn xảy ra nhiều trên cả nước, chết người với số lượng lớn khi có tai nạn giao thông là nỗi băn khoăn, bức xúc của đông đảo cử tri. Cử tri đề nghị cần tăng cường hơn nữa trong công tác giáo dục ý thức của người tham gia giao thông, công tác kiểm tra phương tiện, xử lý nghiêm minh tình trạng đưa và nhận hối lộ trong hoạt động giao thông.

Trả lời: Tại công văn số 7639/BGTVT-ATGT ngày 13/7/2018

Trong những năm vừa qua công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông [TTATGT] luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.

Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 6 năm [từ 2012 ÷ 2017] tai nạn giao thông [TNGT] đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; đồng thời, trong 6 tháng đầu năm 2018 tình hình TNGT cũng giảm cả 03 tiêu chí, cụ thể: toàn quốc xảy ra 1.509 vụ, làm chết 627 người và làm bị thương 1.265 người. So với cùng kỳ năm 2017 giảm 60 vụ [giảm 3,82%], giảm 16 người chết [giảm 2,49%], giảm 83 người bị thương [giảm 6,16%]

Tuy nhiên, đúng như phản ảnh của cử tri, kết quả đạt được về công tác bảo đảm TTATGT chưa được như mong muốn và còn một số tồn tại hạn chế, như: số vụ tai nạn giao thông, số người chết vì tai nạn giao thông vẫn ở mức cao, vẫn còn xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa gây thiệt hại lớn về người và tài sản, một số cán bộ trong quá trình thực thi công vụ vẫn chưa nghiêm, có biểu hiện tiêu cực gây ra bức xúc trong dư luận xã hội…; đây thực sự là thách thức và là nguy cơ, hiểm họa tiềm ẩn đối với an sinh, trật tự, an toàn xã hội.

Để chấn chỉnh tình trạng này, Bộ Giao thông vận tải đang chỉ đạo các đơn vị chức năng triển khai đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm về bảo đảm TTATGT theo chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, trong đó chú trọng một số nhóm giải pháp sau:

- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT một cách đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT; trong đó, tập trung sửa đổi Nghị định quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, Nghị định quy định về kinh doanh dịch vụ đào tạo, sát hạch lái xe…theo hướng tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và hiệu lực thi hành pháp luật trong lĩnh vực an toàn giao thông.

- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm TTATGT; trong đó, theo chủ đề Năm an toàn giao thông hàng năm, các đơn vị chức năng đã và đang đẩy mạnh triển khai tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức, phù hợp với thực tiễn của từng địa phương, nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân và doanh nghiệp trong công tác bảo đảm TTATGT.

- Triển khai rà soát, xử lý các điểm đen, điểm tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông trên đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa; thực hiện điều chỉnh, bổ sung hợp lý hệ thống báo hiệu đường bộ, thiết bị an toàn giao thông, bổ sung rào hộ lan, đường cứu nạn trên các tuyến đường bộ qua khu vực đèo dốc quanh co; tăng cường thực hiện công tác thẩm tra ATGT đối với các dự án xây dựng mới, nâng cấp cải tạo đường bộ và các tuyến đường bộ đang khai thác có nguy cơ mất an toàn giao thông cao.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực, như: thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt động kinh doanh, điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, hoạt động các bến xe ô tô khách; việc chấp hành các quy định pháp luật trong công tác đăng kiểm phương tiện xe cơ giới đường bộ, đào tạo sát hạch lái xe.

- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của các lực lượng thực thi công vụ, nhiệm vụ về bảo đảm TTATGT, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với cán bộ, nhân viên vi phạm; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành hoạt động vận tải, khai thác hạ tầng giao thông và kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về TTATGT.

29. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị:Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải sửa đổi điểm a khoản 2, Điều 7 Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23 tháng 9 năm 2015 để phù hợp thực tế và thuận tiện dựng trụ [cột], cụ thể:

+ Tại điểm a khoản 2 Điều 7 quy định: “Khoảng cách từ chân cột ăng ten viễn thông, đường dây thông tin, đường dây tải điện đến chân mái đường đắp hoặc mép đỉnh mái đường đào tối thiểu bằng 1,3 lần chiều cao của cột [tính từ mặt đất tại chân cột đến đỉnh cột] và không được nhỏ hơn 5 mét”.

+ Thực trạng: Công trình đường dây và trạm biến áp phân phối được đầu tư chủ yếu cung cấp điện cho các hộ dân sinh hoạt và sản xuất kinh doanh dọc hai bên đường lộ. Trong khi các hộ này có quyền sử dụng đất ở rất gần hạ tầng đường lộ nên việc dựng trụ [cột] điện theo quy định nêu trên là rất khó khăn, đa phần là vướng vào nhà dân.

+ Nội dung đề xuất sửa đổi bổ sung: Đề xuất đối với công trình đường dây và trạm biến áp phân phối [có dựng trụ điện] được sử dụng hành lang hạ tầng đường bộ chung với các công trình công cộng khác như: Chiếu sáng, cây xanh,… vì ngoài thực trạng nêu trên, công trình đường dây và trạm biến áp phân phối được đầu tư rất hạn chế vốn, chủ yếu để phát triển kinh tế và an sinh xã hội tại địa phương, chi phí đền bù thường không có mà chủ yếu là vận động người dân, nếu có vị trí phải sử dụng đất của người dân, tuy nhiên việc vận động hiện nay là không khả thi.

Trả lời: Tại công văn số 8118/BGTVT-KCHT ngày 25/7/2018

Bộ Giao thông vận tải trân trọng cảm ơn cử tri và các Đại biểu Quốc hội tỉnh Bạc Liêu đã quan tâm, góp ý nhằm giúp công tác quản lý nhà nước của Bộ Giao thông vận tải ngày càng tốt hơn, đáp ứng nhu cầu của xã hội và nhân dân. Về nội dung nêu trên, Bộ Giao thông vận tải trả lời như sau:

Ngày 09/10/2017, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Thông tư số 35/2017/TT-BGTVT về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23/9/2015 của Bộ trưởng Bộ GTVT hướng dẫn một số Điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, trong đó tại điểm b khoản 2 Điều 1 đã quy định rõ các trường hợp xây dựng công trình thiết yếu trong phạm vi đất dành cho đường bộ cho phù hợp với điều kiện thực tế. Do vậy, kiến nghị của cử tri tỉnh Bạc Liêu đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 35/2017/TT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải.

30. Cử tri tỉnh Bến Tre kiến nghị:Khoản 9 Điều 11 Nghị định 132/2015/NĐ-CP ngày 25/11/2015 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa quy định hình thức xử phạt bổ sung “đình chỉ hoạt động của phương tiện từ 01 tháng đến 02 tháng đối với hành vi không thực hiện đăng ký đăng kiểm”. Trên thực tế địa bàn tỉnh thời gian qua, các phương tiện khai thác cát trái phép hầu hết đều vi phạm quy định về đăng ký, đăng kiểm phương tiện. Tuy nhiên, mức xử phạt tiền thấp, không đủ sức răn đe; hình thức xử phạt bổ sung đình chỉ hoạt động chỉ mang tính hình thức vì sau khi chấp hành quyết định xử phạt đối tượng vẫn tiếp tục sử dụng phương tiện thực hiện khai thác cát trái phép trong khi chưa thực hiện đăng ký, đăng kiểm theo quy định mà chưa siết chặt việc quản lý, đình chỉ, tạm giữ phương tiện vi phạm cho đến khi chủ phương tiện thực hiện việc đăng ký, đăng kiểm theo quy định.

Trả lời: Tại công văn số7802/BGTVT-PC ngày 17/7/2018

  1. Về ý kiến cho rằng “mức xử phạt tiền thấp, không đủ sức răn đe”: Trong quá trình xây dựng Nghị định số 132/2015/NĐ-CP ngày 25/11/2015 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa [sau đây gọi tắt là Nghị định số 132/2015/NĐ-CP] thay thế Nghị định số 93/2013/NĐ-CP ngày 20/8/2013, Ban soạn thảo, Tổ biên tập đã thực hiện đánh giá tác động của dự thảo Nghị định đối với kinh tế, xã hội, đồng thời tham khảo ý kiến góp ý của các bộ, ngành, địa phương để từ đó quy định các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm hành chính tại Nghị định cho phù hợp. Do lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa có đặc thù là những người tham gia giao thông chủ yếu là những người dân nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mức dân trí thấp. Vì vậy, để đảm bảo vừa phù hợp với tình hình thực tế, vừa đảm bảo tính răn đe, giáo dục, cũng như tính hợp lý, khả thi của pháp luật, mức tiền phạt theo quy định tại Nghị định số 132/2015/NĐ-CP đã được điều chỉnh tăng từ 2-10 lần so với Nghị định số 93/2013/NĐ-CP.
  2. Về ý kiến cho rằng, “Hình thức xử phạt bổ sung đình chỉ hoạt động chỉ mang tính hình thức vì sau khi chấp hành quyết định xử phạt đối tượng vẫn tiếp tục sử dụng phương tiện thực hiện khai thác cát trái phép trong khi chưa thực hiện đăng ký, đăng kiểm theo quy định mà chưa siết chặt việc quản lý, đình chỉ, tạm giữ phương tiện vi phạm cho đến khi chủ phương tiện thực hiện việc đăng ký, đăng kiểm theo quy định”:

Theo quy định tại Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; trục xuất.

Theo quy định tại điểm a khoản 9 Điều 11 Nghị định số 132/2015/NĐ-CP, áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đình chỉ hoạt động của phương tiện từ 01 tháng đến 02 tháng đối với hành vi không thực hiện đăng ký, đăng kiểm quy định tại khoản 5, khoản 8 Điều 11 Nghị định số 132/2015/NĐ-CP.

Như đã nói ở trên, lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa có những đặc thù là những người tham gia giao thông chủ yếu là những người dân nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, mức dân trí thấp. Có nhiều trường hợp phương tiện chính là tài sản lớn nhất của người dân, phục vụ chính cho nhu cầu đi lại, sinh sống của người dân. Vì vậy, nếu áp dụng hình thức xử phạt cao hơn [như tịch thu phương tiện vi phạm] thì sẽ không phù hợp với thực tiễn, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân, ảnh hưởng đến vấn đề an sinh xã hội. Trên cơ sở đó, Ban soạn thảo, Tổ biên tập đã cân nhắc và lựa chọn hình thức đình chỉ phương tiện có thời hạn như quy định tại khoản 9 Điều 11 Nghị định số 132/2015/NĐ-CP nhằm đảm bảo sự phù hợp của văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời vẫn đảm bảo tính răn đe của pháp luật. Trong trường hợp sau khi chấp hành quyết định xử phạt, chủ phương tiện vẫn tiếp tục sử dụng phương tiện khi chưa thực hiện đăng ký, đăng kiểm theo quy định thì sẽ bị xử phạt và áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 10 Luật xử lý vi phạm hành chính.

Tuy nhiên, trên cơ sở ý kiến của Đoàn đại biểu Quốc hội và cử tri tỉnh Bến Tre, Bộ Giao thông vận tải tiếp tục nghiên cứu, rà soát, nếu thấy phù hợp sẽ báo cáo Chính phủ xem xét, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 132/2015/NĐ-CP cho phù hợp với tình hình thực tế và đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước.

31. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị:Cử tri kiến nghị Chính phủ kiểm tra và có giải pháp đối với ngành hàng không trong thời gian qua liên tục tăng phí nhưng chất lượng dịch vụ chưa bảo đảm, cụ thể vẫn còn tình trạng chậm, hủy chuyến, đáp nhầm đường băng...vẫn còn xảy ra gây lo lắng cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ của các cảng hàng không, sân bay Việt Nam.

Trả lời: Tại công văn số 7912/BGTVT-VT ngày 20/7/2018

Trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đạt được về sản lượng vận chuyển hành khách với tỷ lệ tăng trưởng luôn là hai con số, ngành hàng không Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều hạn chế như vụ việc đáp nhầm đường băng tại Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh, tình trạng chậm, hủy chuyến chưa được cải thiện.

Về các sự số gây uy hiếp an toàn, dù các vụ việc đều có nguyên ngân khách quan cũng chủ quan từ yếu tố con người nhưng Bộ GTVT và ngành hàng không Việt Nam đều đã nhìn nhận nghiêm túc, tổ chức ngay các tổ công tác để điều tra sự cố, kịp thời đưa ra các hình thức kỷ luật tập thể, cá nhân, đình chỉ công tác các kíp trực và các cá nhân trực tiếp vi phạm cũng như kiểm điểm thủ trưởng các đơn vị, bộ phân có liên quan với vai trò người đứng đầu; tổ chức bình giảng, phân tích, đánh giá rút kinh nghiệm từng vụ việc cụ thể trong toàn hệ thống để hạn chế tối đa khả năng có thể lặp lại.

Về công tác kiểm soát tình trạng chậm, hủy chuyến, 6 tháng đầu năm 2018, số lượng chuyến bay khai thác của các hãng hàng không Việt Nam tăng 9% so với cùng kỳ 2017, với tỷ lệ chuyến bay đúng giờ của toàn mạng đạt mức 86,1%, trong đó Vietnam Airlines đạt mức 89,3%, 2 hãng hàng không chi phí thấp là Vietjet Air đạt 83% và Jetstar Pacific Airlines đạt 80,7%. Trong thời gian qua, mặc dù một số yếu tố khách quan như thời tiết diễn biến bất thường, nhiều chuyến bay phải ngưng khai thác do có hiện tượng sương mù tại các sân bay địa phương khi vực phía Bắc, tuy nhiên, hiện tượng chậm hủy chuyến, gây ùn tắc, giảm chất lượng dịch vụ tại cảng hàng không do yếu tố chủ quan từ hoạt động khai thác của các hãng hàng không còn nhiều, kéo theo ảnh hưởng dây chuyền, do tàu bay về muộn từ chuyến trước, ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ ngành hàng không Việt Nam và gây bức xúc trong dư luận. Các nguyên nhân chủ yếu theo thống kê chia theo nhóm với tỷ trọng tương ứng là trang thiết bị và dịch vụ tại cảng chiếm 7%, quản lý điều hành bay chiếm 5%, hãng hàng không chiếm 17%, thời tiết chiếm 2%, tàu bay về muộn chiếm 66% và các lý do khác chiếm 3%.

Cho đến nay, nhằm đẩy mạnh công tác các kiểm soát tình trạng chậm, hủy chuyến bay, cơ quan quản lý Nhà nước ngành giao thông vận tải đã xây dựng và đang triển khai những giải pháp đồng bộ:

  • Cải tạo, nâng cấp, xây mới kết cấu hạ tầng hàng không.
  • Áp dụng công nghệ tiên tiến, áp dụng phương thức quản lý, điều hành bay hiện đại tài các cảng hàng không nhằm hỗ trợ cho các hãng có thể hạ cánh trong điều kiện thời tiết không đảm bảo hạ cánh để hạn chế trường hợp phải bay đến sân bay dự bị, chuẩn bị áp dụng Hệ thống điều hành chuyến bay hạ cánh AMAN tại Nội Bài, giảm thời gian chờ khi hạ cánh.
  • Gấp rút triển khai áp dụng mô hình phối hợp ra quyết định khai thác tại cảng hàng không [A-CDM], trước mắt cho 02 cảng hàng không lớn nhất là Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Ngoài việc nâng cao năng lực sân bay, tối ưu hóa hoạt động tất cả các doanh nghiệp tại cảng hàng không, A-CDM còn cải thiện, nâng cao tỷ lệ chuyến bay đúng giờ [OTP] của các hãng hàng không.
  • Bộ GTVT và các cơ quan quản lý đã liên tục làm việc và chỉ đạo các hãng hàng không, các đơn vị liên quan để chấn chỉnh cũng như đưa ra các biện pháp phối hợp tổng thể nhằm giảm tình trạng này, đồng thời nghiên cứu xây dựng các chế tài xử lý bằng kinh tế, biện pháp kỹ thuật...nếu tỷ lệ chậm chuyến tiếp tục cao trong giai đoạn nhất định.

32. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị:Việc thu giá của các dự án BOT hiện nay quá cao, kiến nghị Chính phủ, các bộ ngành cần rà soát tất cả các dự án để đưa ra mức giá phù hợp, kiểm tra chặt chẽ việc niêm yết giá và các đối tượng thuộc diện miễn giảm theo quy định.

Trả lời: Tại công văn số 8186/BGTVT-ĐTCT ngày 26/7/2018

Các dự án BOT hiện nay đều thực hiện từ năm 2016 trở về trước. Mức phí không vượt mức khung quy định tại Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính. Để đánh giá tác động mức giá cao hay thấp so với lợi ích mang lại của chi phí vận tải, Bộ GTVT đã giao Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải tiến hành khảo sát thị trường, thu thập thông tin tin cậy từ các công ty vận tải hàng hoá, hành khách Quốc lộ 1; thu thập vận tốc lữ hành trên QL1 [chiết xuất dữ liệu giám sát hành trình]; khảo sát thị sát trường [điều tra hiện trường, phát phiếu điều tra, tổng hợp số liệu, số liệu kê khai giá, tính toán chi phí vận tải trước và khi đầu tư dự án QL1]. Theo kết quả nghiên cứu, sau khi tuyến đường được đầu tư nâng cấp lợi ích của việc tiết kiệm nhiên liệu, tăng vận tốc khai thác, giảm thời gian vận chuyển, khấu hao phương tiện do nâng cấp, cải tạo, mở rộng QL1 đã giúp các doanh nghiệp vận tải giảm bình quân 5% chi phí vận tải trên tuyến [chi phí bao gồm cả giảm phí sử dụng dịch vụ đường bộ] chưa tính đến các lợi ích kinh tế do giảm tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường. Đồng thời, chính sách phí từ trước đến nay đều miễn phí đối với xe thô sơ, xe máy nông nghiệp, xe máy [là phương tiện chủ yếu của đại bộ phận người dân đi lại trong cự ly ngắn với thống kê chưa đầy đủ khoảng 37 triệu phương tiện]. Bộ GTVT cũng đã yêu cầu nhà đầu tư phải bán vé quý, vé tháng để các phương tiện cơ giới có quyền đi lại nhiều lần nhưng chỉ trả phí một lần trong ngày.

Để giảm bớt các chi phí lưu thông, bình ổn giá theo Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ, trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá tác động của mức phí đối với chi phí đầu tư của doanh nghiệp, Bộ GTVT đã phối hợp với Bộ Tài chính báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận phương án giảm giá sử dụng đường bộ đối với xe loại 4 [xe tải có tải trọng từ 10 tấn đến dưới 18 tấn; xe chở hàng bằng container 20 fit] từ mức từ 140.000 đồng xuống 120.000 đồng và nhóm 5 [xe tải có tải trọng từ 18 tấn trở lên; xe chở hàng bằng container 40 fit] từ mức 200.000 đồng xuống 180.000 đồng. Đặc biệt, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Nhà đầu tư làm việc với tất cả các tỉnh, thành phố để rà soát, xác định đối tượng ảnh hưởng xung quanh trạm thu phí để giảm phí cho tất cả người sử dụng. Việc giảm phí như hiện nay cơ bản phù hợp và đảm bảo không phá vỡ phương án tài chính của dự án.

Để tăng cường công khai, minh bạch thông tin về dự án và việc niêm yết phí đường bộ, Bộ GTVT đã đăng tải trên trang điện tử ppp.mt.gov.vn và chỉ đạo Nhà đầu tư phải lắp đặt bảng điện tử cung cấp thông tin cơ bản về dự án tại các trạm thu phí [Chi phí, giá phí được cơ quan nhà nước cho phép thu, thời gian thu giá dự kiến…]. Đồng thời, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Nhà đầu tư phối hợp với các địa phương kiểm tra, giám sát đảm bảo việc giảm phí các đối tượng thuộc diện miễn giảm đúng theo quy định.

33. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị:[i]Đề nghị Bộ GTVT không áp dụng Điểm b, Khoản 2, Điều 5 của Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT ngày 09/11/2015 quy định các chủ phương tiện khi đưa xe cơ giới đến kiểm định phải cung cấp thông tin về:”tên đăng nhập, mật khẩu truy cập và địa chỉ trang Web quản lý thiết bị giám sát hành trình” đối với phương tiện vận tải hàng hóa, đồng thời bỏ mục kinh doanh vận tải trong giấy chứng nhận kiểm định ATKT & BVMT phương tiện cơ giới đường bộ; [ii] Theo hướng dẫn tại công văn số 3997/ĐKVN-VAR ngày 29/08/2016 của Cục Đăng kiểm Việt Namvề việc xác định niên hạn sử dụng của xe ô tô và xác định căn cứ theo thứ tự ưu tiên Số VIN, số khung, các tài liệu kỹ thuật, thông tin nhãn mác, hồ sơ lưu trữ. Trên thực tế hầu hết các xe ô tô mang biển kiểm soát Lào nhập cảnh vào Việt nam đều không xuất trình được tài liệu kỹ thuật, hồ sơ lưu trữ, giấy tờ xe không ghi năm sản xuất, do vậy việc xác định niên hạn các xe mang biển số Lào gặp nhiều khó khăn. Đề nghị Bộ GTVT [Cục ĐKVN] hướng dẫn kiểm tra niên hạn cụ thể từng dòng xe, hãng xe để cơ quan Hải quan có cơ sở thực hiện quy định.

Trả lời: Tại công văn số8320/BGTVT-KHCN ngày 01/8/2018

1. Về nội dung kiến nghị thứ nhất: “Đề nghị Bộ GTVT không áp dụng Điểm b, Khoản 2, Điều 5 của Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT ngày 09/11/2015 quy định các chủ phương tiện khi đưa xe cơ giới đến kiểm định phải cung cấp thông tin về:”tên đăng nhập, mật khẩu truy cập và địa chỉ trang Web quản lý thiết bị giám sát hành trình” đối với phương tiện vận tải hàng hóa, đồng thời bỏ mục kinh doanh vận tải trong giấy chứng nhận kiểm định ATKT & BVMT phương tiện cơ giới đường bộ”.

Phương tiện cơ giới đường bộ tham gia kinh doanh vận tải phải gắn thiết bị giám sát hành trình của xe theo quy định của Chính phủ là một trong các điều kiện quy định tại Luật Giao thông đường bộ năm 2008 [tại điểm b khoản 1 Điều 67]. Tại khoản 1 Điều 14 của Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014 của Chính phủ quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tôcó quy định:“... thiết bị giám sát hành trình phải đảm bảo tình trạng kỹ thuật tốt và hoạt động liên tục trong thời gian xe tham gia giao thông”.

Để đảm bảo rằng thiết bị được lắp trên xe là các sản phẩm có kiểu loại đã được doanh nghiệp cung cấp thực hiện chứng nhận chất lượng theo quy định, đồng thời tình trạng kỹ thuật phải đang hoạt động được thì cần phải có một đơn vị dịch vụ kỹ thuật [Trung tâm đăng kiểm] xem xét, đánh giá. Do đó, khi xây dựng và ban hành quy định về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, Bộ GTVT đã đưa nội dung về kiểm tra thiết bị giám sát hành trình vào Thông tư số 10/2014/TT-BGTVT ngày 23/4/2014 và đến nay được đưa vào Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT ngày 09/11/2015 của Bộ trưởng Bộ GTVT, trong đó nội dung tại mục 10.5 của Phụ lục 1 ban hành kèm theo Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT quy định về “nội dung kiểm tra, phương pháp kiểm tra và khiếm khuyết, hư hỏng’’ đối với thiết bị giám sát hành trình. Đây là một trong các hạng mục kiểm tra đánh giá phương tiện thuộc đối tượng phải lắp đặt thiết bị giám sát hành trình đủ điều kiện tham gia giao thông, bởi hạng mục kiểm tra này nhằm đánh giá việc lắp đặt, đấu nối thiết bị với hệ thống điện trên xe có đảm bảo an toàn, tránh chập cháy khi hoạt động [việc lắp đặt không đúng kỹ thuật có thể gây chập, cháy hệ thống điện], đồng thời kiểm tra, xác định thiết bị giám sát hành trình có hoạt động hay không thông qua việc sử dụng tên đăng nhập truy cập vào website quản lý thiết bị giám sát hành trình do chủ xe cung cấp [việc này nhằm đảm bảo thiết bị lắp đặt có hoạt động].

Quá trình triển khai hạng mục kiểm tra thiết bị giám sát hành trình theo quy định tại Thông tư 70/2015/TT-BGTVT đã đi vào cuộc sống, rất hiệu quả trong việc quản lý đối tượng là phương tiện vận tải hoạt động kinh doanh theo quy định. Với nội dung kiến nghị bỏ áp dụng điểm b khoản 2 Điều 5 cũng như bỏ mục kinh doanh vận tải trong giấy chứng nhận kiểm định ATKT & BVMT phương tiện cơ giới đường bộ quy định tại Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT như đã nêu, Bộ Giao thông vận tải xin ghi nhận và sẽ tổng hợp ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình sửa đổi, bổ sung Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT trong thời gian tới.

2. Về nội dung kiến nghị thứ hai: Theo hướng dẫn tại công văn số 3997/ĐKVN-VAR ngày 29/08/2016 của Cục ĐKVN việc xác định niên hạn sử dụng của xe ô tô và xác định căn cứ theo thứ tự ưu tiên Số VIN, số khung, các tài liệu kỹ thuật, thông tin nhãn mác, hồ sơ lưu trữ. Trên thực tế hầu hết các xe ô tô mang biển kiểm soát Lào nhập cảnh vào Việt nam đều không xuất trình được tài liệu kỹ thuật, hồ sơ lưu trữ, giấy tờ xe không ghi năm sản xuất, do vậy việc xác định niên hạn các xe mang biển số Lào gặp nhiều khó khăn. Đề nghị Bộ GTVT [Cục ĐKVN] hướng dẫn kiểm tra niên hạn cụ thể từng dòng xe, hãng xe để cơ quan Hải quan có cơ sở thực hiện quy định

Việc xác định năm sản xuất của ô tô mang biển kiểm soát Lào trong hoạt động vận tải liên vận Lào - Việt được quy định tại Điều 7 Thông tư số 21/2010/TT-BGTVT ngày 10/08/2010 của Bộ Giao thông vận tải về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 95/2009/NĐ-CP ngày 30/10/2009 của Chính phủ quy định niên hạn sử dụng đối với xe ô tô chở hàng và xe ô tô chở người, cụ thể như sau:

Niên hạn sử dụng được tính theo năm, kể từ năm sản xuất của ô tô và xác định theo thứ tự ưu tiên sau đây: Số nhận dạng của xe - số VIN; Số khung của xe; Các tài liệu kỹ thuật; Thông tin trên nhãn mác của Nhà sản xuất; Hồ sơ lưu trữ: Giấy chứng nhận chất lượng; Phiếu kiểm tra chất lượng xuất xưởng đối với ô tô sản xuất tại Việt Nam; Biên bản kiểm tra hoặc nghiệm thu, Giấy chứng nhận chất lượng phương tiện cơ giới đường bộ cải tạo đối với ô tô cải tạo; Hồ sơ gốc do cơ quan công an quản lý; Chứng từ nhập khẩu.

Hiện nay theo quy ước quốc tế, ký tự thứ 10 từ trái sang phải của dãy số VIN thể hiện năm sản xuất theo quy ước chi tiết dưới đây:

Ký tự

B

C

D

E

F

G

H

J

K

L

M

N

P

R

Năm SX

1981

1982

1983

1984

1985

1986

1987

1988

1989

1990

1991

1992

1993

1994

Ký tự

S

T

V

W

X

Y

1

2

3

4

5

6

7

8

Năm SX

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

Ký tự

9

A

B

C

D

E

F

G

H

J

K

L

Năm SX

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

Ví dụ cụ thể:

J

H

2

R

C

3

0

1

3

L

M

2

0

0

0

0

4

4

Năm sản xuất L: là năm 1990

Căn cứ vào bảng trên cơ quan Hải quan có thể xác định được năm sản xuất phần lớn các phương tiện xin nhập cảnh vào Việt Nam. Trường hợp những xe cơ quan Hải quan không thể xác định được năm sản xuất, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo các đơn vị Đăng kiểm tại địa phương phối hợp cùng cơ quan Hải quan xác định niên hạn đối với từng phương tiện cụ thể.

Theo quy định tại Thông tư số 21/2010/TT-BGTVT, trình tự ưu tiên để xác định năm sản xuất của xe ô tô hoàn toàn phù hợp với thông lệ Quốc tế [như Cục ĐKVN đã nêu tại văn bản số 3997/ĐKVN-VAR ngày 29/08/2016]. Do đó, cơ quan chức năng khi kiểm tra xe mang biển số Lào nhập cảnh vào Việt Nam có thể căn cứ vào số VIN, số khung trên xe để xác định năm sản xuất. Trong trường hợp số VIN, số khung không đầy đủ để xác định mà chủ xe không cung cấp được các tài liệu kỹ thuật thì căn cứ khoản 2, Điều 7 của Thông tư 21/2010/TT-BGTVT: “2. Ô tô không có ít nhất một trong những tài liệu, hồ sơ, cơ sở nêu tại khoản 1 của Điều này được coi là hết niên hạn sử dụng” để xác định xe còn niên hạn sử dụng hay đã hết niên hạn theo quy định.

34. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị:Đề nghị xem xét, sửa nội dung:“Bằng lái xe này được cấp cho công dân Lào và người nước ngoài điều khiển xe ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và khi muốn sử dụng ở nước khác phải đổi sang bằng lái xe quốc tế do Bộ Giao thông vận tải Lào cấp, có hiệu lực 6 tháng” tại Văn bản số 6928/BGTVT-TCCB ngày 20/6/2016 của Bộ Giao thông vận tải và Văn bản số 0845/ĐSQL.HN của Đại sứ quán Lào tại Hà Nội vì trái với quy định tại Điểm I, Khoản 5, Điều 37 Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT ngày 19/4/2017 của Bộ Giao thông vận tải.

Trả lời: Tại công văn số 8456/BGTVT-TCCB ngày 02/8/2018

Điểm i khoản 5 Điều 37 Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT ngày 15/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ quy định: “Người Việt Nam [mang quốc tịch Việt Nam] trong thời gian cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài được nước ngoài cấp giấy phép lái xe quốc gia, còn thời hạn sử dụng, nếu có nhu cầu lái xe ở Việt Nam được xét đổi sang giấy phép lái xe tương ứng của Việt Nam.”.

Điểm b khoản 1 Điều 41 Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT ngày 15/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ quy định: “…Trường hợp phát hiện có nghi vấn, cơ quan cấp đổi giấy phép lái xe có văn bản đề nghị Đại sứ quán, Lãnh sự quán của quốc gia cấp giấy phép lái xe tại Việt Nam xác minh”; Đây là nội dung kế thừa Thông tư số 58/2015/TT-BGTVT ngày 20/10/2015 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ.

Trong quá trình thực hiện đổi Giấy phép lái xe cho người Việt Nam có giấy phép lái xe quốc gia do Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào cấp, do có nghi vấn nên Sở Giao thông vận tải các tỉnh, thành phố đã có văn bản đề nghị Đại Sứ quán CHDCND Lào tại Việt Nam xác minh tính xác thực, nhằm hạn chế người Việt Nam sử dụng giấy phép lái xe giả của Lào để đổi sang giấy phép lái xe Việt Nam. Ngày 14/6/2016, Đại Sứ quán CHDCND Lào tại CHXHCN Việt Nam đã có công hàm số 0845/ĐSQLHN đề nghị Bộ Giao thông vận tải có thông báo cho Sở Giao thông vận tải các tỉnh, thành phố trong toàn quốc thông tin chung về giấy phép lái xe do CHDCND Lào cấp làm cơ sở để xét đổi giấy phép lái xe; Trên cơ sở công hàm nói trên, Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 6928/BGTVT-TCCB ngày 20/6/2016 gửi các Sở Giao thông vận tải, trong đó có nội dung: “Bằng lái xe này được cấp cho công dân Lào và người nước ngoài điều khiển xe ở CHDCND Lào và khi muốn sử dụng ở nước khác phải đổi sang bằng lái xe quốc tế, do Bộ Giao thông vận tải Lào cấp, có hiệu lực 06 tháng”.

Vì vậy, việc xét đổi giấy phép lái xe theo văn bản số 6928/BGTVT-TCCB ngày 20/6/2016 của Bộ Giao thông vận tải và công hàm số 0845/ĐSQL.HN của Đại sứ quán Lào tại Hà Nội là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT ngày 15/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ.

Giấy phép lái xe do CHDCND Lào cấp được sử dụng để điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ qua lại biên giới giữa hai nước Việt Nam và Lào theo Nghị định thư thực hiện Hiệp định tạo điều kiện thuận lợi cho phương tiện cơ giới đường bộ qua lại biên giới giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHDCND dân Lào được ký kết ngày 15/9/2010 tại Hà Nội.

Đối với trường hợp đổi giấy phép lái xe do CHDCND Lào cấp sang giấy phép lái xe Việt Nam, trong thời gian tới Tổng cục Đường bộ Việt Nam sẽ có công hàm đề nghị Cục Vận tải Lào cung cấp thông tin về việc cấp giấy phép lái xe tại Lào [làm rõ công hàm số 0845/ĐSQLHN của Đại Sứ quán CHDCND Lào tại CHXHCN Việt Nam], để làm cơ sở hướng dẫn các Sở Giao thông vận tải thực hiện

35. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị:Theo quy định hiện nay, các bến xe tự xây dựng giá dịch vụ hỗ trợ và các cơ quan quản lý nhà nước thì không quản lý, thẩm định giá..., do đó xảy ra tình trạng bến xe tại một số địa phương quy định mức giá cao, bất hợp lý. Vì vậy, đề nghị Bộ Giao thông vận tải và Bộ Tài chính nghiên cứu, ban hành khung giá đối với giá dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ cho từng loại bến xe và áp dụng chung toàn quốc.

Trả lời: Tại công văn số 8282/BGTVT-VT ngày 30/7/2018

Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 6 của Thông tư liên tịch số 152/2014/TTLT-BTC-BGTVT ngày 15/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn thực hiện giá cước vận tải bằng xe ô tô và giá dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ đã quy định về giá dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ, cụ thể:

“2. Dịch vụ xe ra, vào bến xe ô tô

  1. Thẩm quyền quy định giá dịch vụ xe ra, vào bến xe ô tô

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào loại bến xe ô tô để quy định khung giá hoặc mức giá cụ thể đối với dịch vụ xe ra, vào bến xe ô tô trên địa bàn.

  1. Đơn vị tính giá dịch vụ là đồng/chuyến-xe hoặc đồng/tháng-xe hoặc đồng/lượt xe. Mức giá dịch vụ có phân biệt theo số ghế thiết kế của xe, theo hình thức kinh doanh [xe chạy tuyến cố định có tính đến cự ly tuyến vận chuyển, xe buýt, xe trung chuyển hành khách, xe vận chuyển hàng hoá, xe taxi ra, vào bến xe để đón trả hành khách hoặc bốc, dỡ hàng hoá…].
  1. Nguyên tắc, căn cứ xác định giá dịch vụ: căn cứ phương pháp tính giá chung do Bộ Tài chính ban hành và quy định của pháp luật chuyên ngành giao thông vận tải đường bộ.
  1. Trình tự, thủ tục lập phương án giá, thẩm định và ban hành giá dịch vụ xe ra, vào bến xe ô tô: Sở Tài chính thẩm định trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá dịch vụ xe ra, vào bến xe trên cơ sở phương án giá do doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh, khai thác bến xe lập theo quy định tại Phụ lục số 3 [gồm Phụ lục số 3a và Phụ lục số 3b] của Thông tư này. Thời hạn thẩm định phương án giá và thời hạn quyết định giá, điều chỉnh giá thực hiện theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 177/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giá và các văn bản pháp luật có liên quan.

3. Dịch vụ cho thuê nơi đỗ xe ô tô qua đêm: trường hợp nơi đỗ xe ô tô qua đêm do tổ chức, cá nhân đầu tư hoặc do Nhà nước đầu tư nhưng đã chuyển giao cho tổ chức, cá nhân thực hiện theo nguyên tắc hạch toán thu hồi vốn đầu tư thực hiện theo quy định pháp luật về giá”.

Theo đó, các địa phương căn cứ vào quy định của Thông tư liên tịch số 152/2014/TTLT-BTC-BGTVT ngày 15/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn thực hiện giá cước vận tải bằng xe ô tô và giá dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ để quy định khung giá hoặc mức giá cụ thể đối với dịch vụ xe ra, vào bến xe ô tô trên địa bàn.

36. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị:Đề nghị Bộ Giao thông vận tải sớm ban hành quy định về công tác quản lý, bảo trì đường địa phương theo Văn bản số 11239/VPCP-KSTT ngày 20/10/2017 của Văn phòng Chính phủ, vì hiện nay Bộ chỉ mới hướng dẫn công tác quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông trên đường quốc lộ.

Trả lời: Tại công văn số8342/BGTVT-KCHT ngày 31/7/2018

Để phục vụ công tác quản lý, bảo trì công trình đường bộ, Bộ GTVT đã ban hành Thông tư số 37/2018/TT-BGTVT ngày 07/6/2018 Quy định về quản lý, vận hành khai thác và bảo trì công trình đường bộ [thay thế Thông tư số 52/2013/TT-BGTVT ngày 12/12/2013 và Thông tư số 20/2014/TT-BGTVT ngày 30/5/2014]. Thông tư này có phạm vi điều chỉnh đối với mọi loại công trình đường bộ, không phân biệt đường quốc lộ do Trung ương quản lý hoặc đường địa phương. Ngoài ra, đối với đường giao thông nông thôn, Bộ GTVT đã ban hành Thông tư số 32/2014/TT-BGTVT ngày 08/8/2014 hướng dẫn về quản lý, vận hành khai thác đường giao thông nông thôn và Thông tư số 12/2014/TT-BGTVT ngày 29/4/2014 hướng dẫn quản lý, vận hành khai thác cầu trên đường giao thông nông thôn.

37. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị:Hàng năm, sản lượng hàng hóa và số lượt tàu thông qua cảng Vũng Áng - Sơn Dương, Hà Tĩnh đều tăng đột biến; do đó, để đảm bảo an toàn cho tàu thuyền ra vào cảng và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, đề nghị Bộ Giao thông vận tải phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện việc theo dõi, quan trắc và bổ sung khu bến cảng nói trên vào hệ thống cảng chính của Bảng thủy triều.

Trả lời: Tại công văn số8575/BGTVT-MTngày 06/8/2018

Nội dung kiến nghị nêu trên thuộc thẩm quyền xử lý của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Ngày 27/7/2018, Bộ Giao thông vận tải đã có Công văn số 8194/BGTVT-MT gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị xem xét, chỉ đạo Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam bổ sung khu bến cảng Vũng Áng - Sơn Dương, tỉnh Hà Tĩnh vào hệ thống cảng chính trong Bảng thủy triều hàng năm và tổ chức quan trắc, cập nhật các số liệu về thủy triều tại khu vực này [xin gửi kèm theo văn bản nêu trên].

38. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị:Cử tri huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đề nghị Bộ GTVT và Doanh nghiệp BOT Quốc lộ 20 nghiên cứu, xem xét miễn, giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ qua Trạm thu giá BOT Liên Đầm - Di Linh cho các chủ phương tiện thường trú tại một số xã quanh khu vực gần Trạm thu giá BOT nói trên.

Trả lời: Tại công văn số 7520/BGTVT-ĐTCT ngày 11/7/2018

Thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, Bộ Giao thông vận tải và Nhà đầu tư, Doanh nghiệp dự án đã giảm giá đối với xe loại 4 [xe tải có tải trọng từ 10 tấn đến dưới 18 tấn; xe chở hàng bằng container 20 fit] từ mức từ 140.000 đồng xuống 120.000 đồng và nhóm 5 [xe tải có tải trọng từ 18 tấn trở lên; xe chở hàng bằng container 40 fit] từ mức 200.000 đồng xuống 180.000 đồng kể từ ngày 01/01/2017.

Để hạn chế bất cập về chính sách phí, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam làm việc với địa phương và Nhà đầu tư rà soát, tính toán lại phương án tài chính sau quyết toán nhằm miễn giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ của người dân xung quanh trạm. Trên cơ sở đề xuất của Nhà đầu tư, Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 780/BGTVT-ĐTCT ngày 21/12/2017, chấp thuận chủ trương giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ cho các đối tượng được giảm giá trong phạm vi lân cận tại trạm thu phí Liên Đầm. Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam chủ trì, cùng Doanh nghiệp dự án, Nhà đầu tư phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương rà soát, xem xét chấp thuận xử lý danh sách các xe được Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị tại văn bản số 3681/UBND-GT ngày 15/6/2018 để sớm triển khai việc giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ của người dân xung quanh trạm.

39. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị:Cử tri phản ánh giá vé máy bay tuyến thành phố Hồ Chí Minh - Côn Đảo và ngược lại hiện nay quá cao, vẫn còn hiện tượng “ém vé” bảo hết vé để tăng giá nhưng thực tế có chuyến bay rất ít khách, còn rất nhiều chỗ trống.

Trả lời: Tại công văn số 7908/BGTVT-VT ngày 20/7/2018

Bộ GTVT đã nhận được kiến nghị của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Yên tại Công văn số 12/BC-ĐĐBQH ngày 10/5/2018 về báo cáo kết quả tiếp xúc cử tri huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, trong đó, nội dung như kiến nghị của cử tri nêu trên đã được Bộ GTVT làm rõ tại Công văn số 6065/BGTVT-VT ngày 7/6/2018 trả lời kiến nghị trên của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Yên.

40. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị:Cử tri phản ánh hiện nay tuyến đường từ Thái Bình đi Hà Nội có 03 trạm thu phí đường BOT. Đề nghị Quốc hội chỉ đạo các bộ, ngành xem xét khoảng cách thu phí, số tiền thu phí, việc quản lý và thu chi từ nguồn phí đó đã đúng chưa và còn thu bao lâu thì kết thúc.

Trả lời: Tại công văn số 8195/BGTVT-ĐTCT ngày 27/7/2018

Tuyến đường từ Thái Bình đi Hà Nội có nhiều lộ trình để người sử dụng lựa chọn như: [i] quốc lộ 10 - quốc lộ 21 cũ - quốc lộ 1 - cầu Giẽ - quốc lộ 1 cũ - đường Ngọc Hồi - Văn Điển, theo lộ trình này sẽ đi qua 02 trạm thu phí là trạm cầu Tân Đệ và trạm Nam cầu Giẽ; [ii] quốc lộ 10 - quốc lộ 39 - cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, theo lộ trình này sẽ đi qua 01 trạm thu phí trên cao tốc Hà Nội - Hải Phòng; [iii] quốc lộ 10 - quốc lộ 21 mới [đường Phủ Lý - Mỹ Lộc] - cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ - Ninh Bình, theo lộ trình này sẽ đi qua 03 trạm thu phí là trạm cầu Tân Đệ, trạm Mỹ Lộc và trạm cao tốc.

Về khoảng cách giữa các trạm thu phí: Đối với đường cao tốc, sử dụng hình thức thu phí kín không khống chế khoảng cách giữa các trạm, người sử dụng thanh toán theo số ki lô mét [km] thực đi. Đối với đường quốc lộ sử dụng thu phí lượt, theo quy định tại Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ hoàn vốn đầu tư xây dựng đường bộ, không khống chế khoảng cách giữa các trạm mà chỉ yêu cầu quy trình thỏa thuận khi thành lập trạm, cụ thể: nếu khoảng cách giữa các trạm trên cùng tuyến đường lớn hơn 70 km thì Bộ GTVT có thẩm quyền quyết định vị trí đặt trạm; nếu khoảng cách nhỏ hơn 70 km,Bộ GTVT thống nhất với ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tài chính để quyết định. Các trạm thu phí do Bộ GTVT quản lý đều được thực hiện quy trình theo đúng quy định của pháp luật.

Về số tiền thu phí: Mức thu phí tại các trạm nằm trong khung mức phí quy định tại Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính trước đây và hiện nay là Thông tư số 35/2016/TT-BGTVT ngày 15/11/2016 của Bộ GTVT quy định mức giá tối đa dịch vụ sử dụng đường bộ các dự án đầu tư xây dựng đường bộ để kinh doanh do Bộ GTVT quản lý. Mức thu phí của từng dự án phụ thuộc vào phương án tài chính dựa trên các số liệu đầu vào như: chi phí đầu tư, lưu lượng xe, chi phí vận hành khai thác, lãi suất vay ngân hàng, lợi nhuận của nhà đầu tư,… Tất cả các dự án BOT cho đến nay về vị trí trạm và phương án tài chính đã được các bộ, ngành rà soát theo quy định hiện hành. Đối với chi phí đầu tư, Bộ GTVT đã chỉ đạo cập nhật tất cả các kết luận của cơ quan thanh tra, kiểm toán trong quá trình quyết toán đảm bảo giá trị theo đúng quy định của pháp luật.

Về quản lý thu chi nguồn thu phí: Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam thay mặt Bộ GTVT thực hiện giám sát doanh thu, các khoản chi trong quá trình vận hành khai thác như: chi phí bảo trì, chi phí quản lý, tổ chức thu phí, lãi vay trong quá trình khai thác. Về giám sát doanh thu, định kỳ hàng quý, nhà đầu tư báo cáo Tổng cục Đường bộ Việt Nam và Bộ GTVT về doanh thu thu phí, lưu lượng phương tiện đi qua trạm thu phí; Tổng cục Đường bộ Việt Nam kiểm tra, giám sát định kỳ và đột xuất việc tổ chức và hoạt động của trạm thu phí theo quy định của pháp luật và theo quy định của hợp đồng BOT, trường hợp nhà đầu tư cố tình báo cáo doanh thu thấp hơn so với thực tế hoặc trường hợp các cơ quan chức năng phát hiện xe đi qua trạm thu phí không lấy vé, không trả tiền, bán vé thấp hơn mức vé quy định… nhà đầu tư sẽ bị xử phạt theo quy định của hợp đồng BOT. Về chi phí bảo trì, chi phí quản lý, tổ chức thu phí, trước khi đưa công trình vào khai thác, nhà đầu tư trình Tổng cục Đường bộ Việt Nam thỏa thuận quy trình và chi phí quản lý vận hành khai thác; Tổng cục Đường bộ Việt Nam kiểm tra, giám sát định kỳ và đột xuất công tác quản lý, bảo trì của nhà đầu tư theo quy định của hợp đồng BOT. Đối với lãi vay trong quá trình khai thác, phải được Tổng cục Đường bộ Việt Nam xác nhận theo quy định của pháp luật và quy định của hợp đồng BOT.

Về thời gian thu phí: Từ năm 2016, Bộ GTVT công bố thông tin chủ yếu về các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT [bao gồm tổng thời gian thu phí] trên trang web tại địa chỉ //ppp.mt.gov.vn. Bộ GTVT cũng giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam chỉ đạo nhà đầu tư công bố thời gian thu phí tại trạm thu phí. Tuy nhiên, giá trị công bố này đang là giá trị tạm tính đến thời điểm hiện nay. Trong quá trình vận hành khai thác, hàng năm Tổng cục Đường bộ Việt Nam đều phải theo dõi doanh thu tại các trạm, trường hợp doanh thu tăng, sẽ điều chỉnh rút ngắn thời gian thu phí; trường hợp doanh thu giảm, sẽ điều chỉnh kéo dài thời gian thu phí theo quy định của hợp đồng BOT.

Bộ GTVT ghi nhận kiến nghị của cử tri tỉnh Thái Bình và sẽ tiếp tục chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam triển khai quyết liệt việc quản lý doanh thu và công khai thời gian thu phí trên bảng điện tử tại các trạm thu phí.

41. Cử tri TP Hà Nội kiến nghị: Cử tri tiếp tục phản ánh về tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của mặt đường tầng 2 của cầu Thăng Long. Đề nghị các cơ quan chức năng kiểm tra, rà soát và có giải pháp khắc phục triệt để tình trạng này.

Trả lời: Tại công văn số 8362/BGTVT-KCHT ngày 31/7/2018

Cầu Thăng Long có tổng chiều dài 3,116km, bề rộng mặt cầu 20,5m; bao gồm 04 làn xe cơ giới rộng 16,5m. Phần cầu chính dài 1,688km, bao gồm 15 nhịp dàn thép được chia thành 5 liên, mỗi liên gồm 03 nhịp dàn thép liên tục. Hiện tại phần trên tầng 2 mặt cầu đường bộ chỉ dành cho ô tô lưu thông [cấm mô tô, xe máy, xe thô sơ và người đi bộ].

Tháng 04/2016, Cục Quản lý đường bộ I thuộc Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã tiếp nhận bàn giao phần mặt cầu Thăng Long từ Ban Quản lý dự án 3 để thực hiện công tác quản lý và bảo trì. Trong năm 2016 và năm 2017 Cục Quản lý đường bộ I đã chỉ đạo Nhà thầu thực hiện công tác bảo dưỡng thường xuyên thực hiện sửa chữa được gần 3.000 m2 ổ gà/22.000m2 cầu, chiếm > 10% diện tích mặt cầu.

Theo báo cáo của Tổng cục Đường bộ Việt Nam tại Văn bản số 4211/TCĐBVN-QLBTĐB ngày 10/7/2018 thì trong thời gian qua các hư hỏng mặt cầu đường bộ tầng 2 cầu Thăng Long chủ yếu là phát sinh các ổ gà, trồi lún vệt bánh xe. Để đảm bảo an toàn giao thông Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã chỉ đạo Cục Quản lý đường bộ I thường xuyên kiểm tra và tiến hành sửa chữa vá ổ gà, đào bỏ các vị trí trượt thảm, trồi lún vệt bánh xe ngay khi các hư hỏng xuất hiện, sau đó hoàn trả bằng BTNC19. Hiện nay, Cục Quản lý đường bộ I vẫn tiếp tục tuần tra, kiểm tra và sửa chữa các hư hỏng nếu phát sinh.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 18 Luật Thủ đô số 25/2012/QH13: “Các đoạn tuyến quốc lộ đi qua địa bàn Thủ đô được giao cho Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức quản lý, bảo trì theo quy hoạch,...”.

Ngày 20/6/2018, Bộ GTVT đã có Quyết định số 1296/QĐ-BGTVT điều chuyển hạng mục mặt cầu đường bộ tầng 2 cầu Thăng Long cho Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội tiếp tục thực hiện công tác quản lý, khai thác và bảo trì theo quy định. Hiện nay, Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Cục Quản lý đường bộ I đang phối hợp với các cơ quan của thành phố Hà Nội triển khai công tác bàn giao.

42. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Trạm thu phí Sông Phan, tỉnh Bình Thuận sớm thi công mương thoát nước làm dở dang tại Km17+800. Tại khu vực này đã xảy ra nhiều vụ tai nạn chết người, trách nhiệm của Trạm liên quan đến những vụ tai nạn như thế nào. Đồng thời, đề nghị Trạm phải lắp đặt các thiết bị đèn tín hiệu tại Km14, khu công nghiệp Hàm Kiệm.

Trả lời: Tại công văn số 8774/BGTVT-KCHT ngày 09/8/2018

1. Đoạn mương thoát nước làm dở dang tại Km17+800 [lý trình trên Quốc lộ 1 là 1720+800], thuộc dự án Đầu tư xây dựng công trình mở rộng Quốc lộ 1, tỉnh Bình Thuận do Ban QLDA 1 làm đại diện chủ đầu tư, trong quá trình triển khai thi công do sự phản đối của người dân, nên dự án buộc phải dừng lại. Sau khi dự án đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, cử tri có ý kiến đề nghị đầu tư xây dựng đoạn rãnh dọc trên. Do lúc này dự án đã kết thúc nên để giải quyết kiến nghị của cử tri, Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với Tổng Công ty 319 kiểm tra hiện trường, làm việc với chính quyền địa phương để xem xét, bổ sung rãnh thoát nước. Hiện nay, các cơ quan liên quan đang tiến hành các thủ tục theo quy định để triển khai thi công đoạn mương thoát nước trên.

2. Hiện trạng đoạn tuyến từ Km1720+800 - Km1721+031 như sau: Tại Km1720+800 là điểm tiếp nối giữa mặt đường có Bmặt = 19,5m [gồm 4 làn xe cơ giới + dải phân cách 1,5m + 2 làn thô sơ 4m] với mặt đường Bmặt = 11m [gồm 2 làn xe cơ giới + 2 làn thô sơ 4m]. Trong đó đoạn từ Km1692-Km1720+800 được mở rộng theo dự án mở rộng QL1 vốn trái phiếu Chính phủ năm 2015; đoạn từ Km1720+800-Km1725+200 chưa được mở rộng [dự án BOT hoàn thành tháng 12/2014]. Thời gian vừa qua, trên đoạn tuyến này đã xảy ra một số vụ tai nạn giao thông, nguyên nhân chủ yếu do người tham gia giao thông thiếu quan sát. Để tăng cường ý thức của người dân khi tham gia giao thông, đề nghị UBND tỉnh Bình Thuận chỉ đạo chính quyền địa phương tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến cán bộ, công nhân viên, người dân nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông đường bộ; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm luật giao thông đường bộ.

  1. Đường vào KCN Hàm Kiệm đấu nối vào QL1 tại Km1715+950. Năm 2011, nút giao này được Bộ Giao thông vận tải thỏa thuận vị trí đấu nối chính thức và đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận phê duyệt quy hoạch đấu nối tại Quyết định số 1737/QĐ-UBND ngày 16/8/2011. Năm 2017, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã phối hợp với Ban ATGT tỉnh, Sở GTVT tỉnh Bình Thuận tổ chức kiểm tra tình hình tổ chức giao thông tại nút giao này, đã thống nhất việc lắp đặt hệ thống đèn tín hiệu giao thông là chưa cần thiết do ùn ứ giao thông chỉ xảy ra cục bộ vào giờ cao điểm [buổi sáng lúc bắt đầu ca làm việc, buổi chiều khi hết ca làm việc]. Đồng thời, kiến nghị Ban quản lý KCN, chính quyền địa phương tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến cán bộ, công nhân viên, người dân nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông đường bộ; Ban ATGT tỉnh chỉ đạo lực lượng CSGT tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra, điều tiết giao thông trong giờ cao điểm; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm luật giao thông đường bộ.

Tuy nhiên, theo phản ánh của cử tri, Bộ Giao thông vận tải sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam phối hợp với các cơ quan có liên quan kiểm tra, rà soát phương án tổ chức giao thông tại khu vực để bổ sung thiết bị báo hiệu đường bộ [nếu cần thiết].

43. Cử tri tỉnh Hòa Bình kiến nghị: Đề nghị Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải xem xét, kiểm tra, có biện pháp xử lý việc ngập úng đoạn từ Km131+100-Km131+300, Quốc lộ 6, thuộc địa phận huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình để đảm bảo tình hình trật tự an toàn giao thông, đặc biệt trong mùa mưa lũ.

Trả lời: Tại công văn số 8363/BGTVT-KCHT ngày 31/7/2018

Quốc lộ 6 là tuyến giao thông huyết mạch, lối liền các tỉnh miền núi phía Tây Bắc. Vừa qua trên địa bàn các tỉnh Hòa Bình, Sơn La và Điện Biên có mưa lớn diễn ra, dẫn đến hiện tượng lũ lụt gây thiệt hại về người và tài sản, giao thông bị chia cắt. Đặc biệt là đoạn tuyến từ Km131+100 đến Km131+300 thuộc địa phận tỉnh Hòa Bình, nằm trong khu vực nút giao giữa QL.6 với QL.15 có địa hình trũng thấp, khi có mưa lớn gây ngập úng, ách tắc giao thông trong thời gian dài.

Để đảm bảo an toàn giao thông, an toàn công trình, Bộ GTVT đã phê duyệt Kế hoạch bảo trì công trình đường bộ năm 2018 tại Quyết định số 3675/QĐ-BGTVT ngày 28/12/2017, trong đó có cho phép xử lý chống ngập QL.6 đoạn tuyến Km131+100 đến Km131+300 nêu trên. Tiếp đó Tổng cục ĐBVN đã phê duyệt Dự án tại Quyết định số 999/QĐ-TCĐBVN ngày 29/3/2018 trong đó “Điều chỉnh cục bộ bình đồ, nâng cao độ trắc dọc; thay thế cống cũ không đủ khẩu độ thoát nước; đào khơi thông, gia cố mương dẫn nước về lưu vực sông Mã và bổ sung hệ thống ATGT”.

Hiện nay, Tổng cục ĐBVN đang khẩn trương tiến hành công tác lựa chọn nhà thầu theo quy định, dự kiến cuối tháng 7/2018 triển khai thi công dự án.

44. Cử tri tỉnh Hòa Bình kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị Bộ Giao thông vận tải sớm có biện pháp đảm bảo an toàn giao thông Quốc lộ 6 tuyến tránh thành phố Hòa Bình và dốc Cun – nơi được coi là điểm đen tai nạn giao thông.

Trả lời: Tại công văn số 7668/BGTVT-ATGT ngày 13/7/2018

1. Về quản lý hạ tầng: Quốc lộ 6 đoạn qua địa phận tỉnh Hòa Bình có chiều dài 115Km [từ Km38-Km153]; trong đó có đoạn dốc Cun và tuyến tránh thành phố Hòa Bình:

- Năm 2015 đã đầu tư thảm toàn bộ mặt đường bê tông nhựa từ dự án VRAMP đoạn dốc Cun. Trong quá trình khai thác đã tăng cường hệ thống biển báo, tiêu dẫn hướng, cắm biển hạn chế tốc độ, lắp đinh phản quang, cạp rộng mặt đường, lề đường.

- Giai đoạn năm 2018 đến năm 2019:

+ Đoạn tuyến tránh thành phố Hòa Bình: Đến nay, Nhà tài trợ Ngân hàng Thế giới đã có ý kiến đồng ý và Bộ GTVT đã có văn bản số 4385/BGTVT-KHĐT ngày 26/4/2018 về việc điều chỉnh quyết định chủ trương đầu tư dự án VRAMP gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước trong đó có nội dung đầu tư bổ sung đoạn tuyến tránh thành phố Hòa Bình; Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản trả lời số 4020/NHNN-HTQT ngày 31/5/2018; Bộ Tài Chính có văn bản trả lời số 7538/BTC-QLN ngày 25/6/2018. Sau khi nhận được ý kiến trả lời của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ GTVT sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

+ Tổng cục Đường bộ Việt Nam: tiếp tục tăng cường triển khai lắp đặt hệ thống cảnh báo trên giá long môn “Dốc dài nguy hiểm – đi số thấp”, biển hạn chế tốc độ, sơn gờ giảm tốc, lắp đặt đinh phản quang;

+ Tổng cục Đường bộ Việt Nam: Đang xử lý điểm đen tại ngã ba đầu thành phố Hòa Bình [Km70+700]; xây dựng đường lánh nạn tại Km79+450, Km80+250 và điểm kiểm tra kỹ thuật xe tại Km81+950.

- Ngoài ra, tại các đoạn đèo khác trong địa phận tỉnh Hòa Bình, Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã triển khai hàng loạt các công trình, giải pháp như: xử lý cục bộ một số điểm đen, xây dựng đường lánh nạn; lắp đặt các tường hộ lan tôn sóng, tường lốp ô tô bên trong đổ cát, sơn gờ giảm tốc, đinh phản quang, sơn kẻ đường, tiêu dẫn hướng, biển cảnh báo, biển Dốc dài đi số thấp, biển hạn chế tốc độ, tường phòng hộ bằng lốp ô tô để tăng cường nhận thức cho người điều khiển phương tiện, nhất là đối với các lái xe chưa quen đường. Kết quả đã giảm thiểu tai nạn giao thông, ngăn chặn được các vụ tan nạn giao thông thảm khốc; cụ thể:

+ Xử lý điểm đen tại Km123+950, Km127+450, Km130+900, Km144+250, Km179+900, xử lý chống ngập tại Km 131 [ngã ba Đồng Bảng];

+ Tiếp tục đưa vào kế hoạch xử lý điểm đen từ nay đến năm 2019: Km98+400-Km98+500, Km114+950-Km115+200, Km117-Km122, Km124+600-Km124+900, Km145+900-Km146+500, Km153+00-Km153+500, Km156+00-Km157+200, Km173+00-Km173+800, Km175+200-Km175+800.

2. Về công tác quản lý khác:

- Đây là đoạn đèo dốc nguy hiểm, đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hòa Bình có ý kiến với các cơ quan chức năng của tỉnh, tăng cường xử lý vi phạm tốc độ, đi đúng làn đường; xử lý vi phạm xe quá khổ, quá tải; kiểm tra nồng độ cồn, ma túy của lái xe; tuyên truyền kỹ thuật lái xe khi đổ đèo nguy hiểm…; thiết lập đường dây nóng xử lý các vấn đề trật tự ATGT về kết cấu và hành lang đường bộ.

- Đề nghị Ban An toàn giao thông tỉnh tăng cường công tác tuyên truyền về an toàn giao thông trên địa bàn các đơn vị có tuyến Quốc lộ 6 đi qua.

45. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ GTVT giải quyết dứt điểm việc hoàn trả lại các tuyến đường tỉnh lộ, các tuyến đường huyện, đường liên xã do quá trình thi công dự án đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai gây hư hỏng để đảm bảo việc tham gia giao thông của nhân dân. Vấn đề này đã có Biên bản hiện trường ngày 12/7/2014 giữa Vụ Kết cấu hạ tầng giao thông, Vụ Kế hoạch đầu tư - Bộ GTVT, Cục Quản lý xây dựng và Chất lượng công trình giao thông, Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam, Sở Giao thông vận tải tỉnh Phú Thọ và Nhà thầu thi công.

Trả lời: Tại công văn số 8214/BGTVT-CQLXD ngày 27/7/2018

- Đối với các vị trí đường địa phương giao cắt với đường cao tốc [phía dưới gầm cầu, cống chui dân sinh của đường cao tốc] trong quá trình thi công gây làm ảnh hưởng đến chất lượng cơ sở hạ tầng của đường địa phương, đã được thi công sửa chữa hoàn trả như: đường tỉnh 315B, đường tỉnh 320B, đường liên thôn khu 6 đoạn qua cống chui dân sinh Km54+140, đường liên thôn khu 2 đoạn qua cống chui dân sinh Km53+654 [có Biên bản xác nhận việc hoàn thành công tác sửa chữa, biên bản bàn giao kèm theo].

- Đối với các tuyến đường còn lại ngoài phạm vi các tuyến đường đã sửa chữa, bàn giao cho địa phương nêu trên mà đã được địa phương thống kê trong biểu đính kèm của Biên bản kiểm tra hiện trường ngày 12/7/2014: Theo báo cáo của VEC tại Văn bản số 2017/VEC-QLTC ngày 25/7/2018, VEC đã đăng ký lịch làm việc với Sở GTVT Phú Thọ để rà soát, làm rõ nguyên nhân gây hư hỏng làm cơ sở xác định đối tượng phải chịu trách nhiệm khắc phục, sửa chữa. Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo VEC phối hợp với địa phương kiểm tra, rà soát làm rõ nguyên nhân gây ra hư hỏng các tuyến đường còn lại làm cơ sở xác định đối tượng phải chịu trách nhiệm khắc phục, sửa chữa để có phương án giải quyết dứt điểm các kiến nghị chính đáng của cử tri.

46. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Hiện nay, mặt đường dọc theo tuyến Quốc lộ 1A qua địa bàn xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, có nhiều nơi bị xuống cấp, gây hiện tượng đọng nước thành nhiều vũng lớn sau mỗi cơn mưa, gây khó khăn trong việc đi lại của người dân. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các đơn vị có liên quan thường xuyên kiểm tra, tu bổ mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông và tạo điều kiện đi lại thuận lợi cho người dân.

Trả lời: Tại công văn số 8455/BGTVT-KCHT ngày 02/8/2018

Đoạn tuyến QL.1 đi qua địa bàn xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang [Km2017+900 - Km2020+757] đã được bàn giao đưa vào khai thác sử dụng từ năm 1998, đến năm 2015 do có chủ trương bổ sung đoạn này vào dự án Đầu tư xây dựng công trình mở rộng QL1 đoạn tránh thị trấn Cai Lậy theo hình thức Hợp đồng BOT. Sau thời gian dừng triển khai đoạn tuyến nêu trên theo hình thức Hợp đồng BOT từ tháng 4/2018, vì vậy trong năm 2018 nguồn vốn sửa chữa thường xuyên từ quỹ bảo trì đường bộ Trung ương chỉ đủ thực hiện được các công việc như dặm vá ổ gà, xử lý đùn lún, san gạt lề đường để hạn chế ngập nước mặt đường…, nhằm duy trì và đảm bảo an toàn giao thông. Hiện nay, Bộ GTVT đang triển khai các thủ tục để đưa danh mục công trình đoạn tuyến nêu trên vào kế hoạch bảo trì hệ thống quốc lộ năm 2019 để sửa chữa định kỳ.

47. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị:Quá trình thi công đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, đoạn qua huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam xảy ra nhiều bất cập, gây bức xúc trong Nhân dân như: làm bồi lấp đất sản xuất; nổ mìn không đúng thời gian thông báo, gây nứt nhà; chưa xây dựng đường gom dân sinh; các cống chui dân sinh có cốt nền thấp, gây ngập úng,… Đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo chủ đầu tư, các đơn vị thi công khắc phục và có chính sách bồi thường hợp lý nhằm sớm ổn định đời sống người dân.

Trả lời: Tại công văn số 8225/BGTVT-CQLXD ngày 27/7/2018

Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, đoạn qua huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam có tổng chiều dài hơn 30km [từ Km68+400 đến Km99+200], đi qua 08 xã: Tam Xuân 1, Tam Xuân 2, Tam Anh Bắc, Tam Anh Nam, Tam Hiệp, Tam Mỹ Đông, Tam Mỹ Tây và xã Tam Nghĩa. Trong quá trình thi công Chủ đầu tư, Tư vấn và Nhà Thầu luôn tuân thủ các biện pháp an toàn, đảm bảo giao thông cố gắng hạn chế thấp nhất các ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt bình thường của người dân nơi có Dự án đi qua. Tuy nhiên, trong quá trình thi công, không tránh khỏi các ảnh hưởng, bất cập, gây bức xúc trong Nhân dân như phản ánh của cử tri tỉnh Quảng Nam. Về vấn đề này, Chủ đầu tư dự án đã chỉ đạo Nhà thầu, Tư vấn phối hợp với các bên liên quan và chính quyền địa phương giải quyết, cụ thể như sau:

1. Về việc thi công gây bồi lấp đất sản xuất của người dân:

Trong quá trình thi công có gây bồi lấp đất sản xuất của 338 hộ dân [128 hộ thuộc xã Tam Anh Nam, 10 hộ thuộc xã Tam Hiệp, 26 hộ thuộc xã Tam Mỹ Tây, 148 hộ thuộc xã Tam Mỹ Đồng, 28 hộ thuộc xã Tam Nghĩa]. Tất cả các vị trí đất của người dân địa phương bị bồi lấp, ngập úng do ảnh hưởng của dự án nêu trên đều được đền bù các mùa vụ không canh tác và cải tạo đất để người dân có thể canh tác trở lại thông qua chính quyền địa phương, đến nay đã khắc phục xong;

Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo Chủ đầu tư dự án và các bên liên quan tiếp tục theo dõi tình hình xô xạt, bồi lấp diễn biến trong mùa mưa tới để có giải pháp xử lý phù hợp hạn chế các ảnh hưởng đến dân sinh khu vực dự án đi qua.

2.Về việc nổ mìn không đúng thời gian thông báo, gây nứt nhà dân:

Đoạn tuyến đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi qua huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam có thi công đào đá bằng biện pháp nổ mìn tại 08 vị trí, cụ thể như sau:

+ 01 vị trí thuộc xã Tam Anh Bắc [Km76+200];

+ 01 vị trí thuộc xã Tam Anh Nam [Km77+600];

+ 01 vị trí thuộc xã Tam Hiệp [Km82+650];

+ 02 vị trí thuộc xã Tam Mỹ Đông [Km 90+650 và Km91+650];

+ 03 vị trí thuộc xã Tam Nghĩa [Km93+150, Km94+150 và Km95+150].

Theo báo cáo của Chủ đầu tư dự án, trong quá trình thi công nổ mìn, Nhà thầu luôn tuân thủ theo các qui định về an toàn trong công tác nổ mìn và luôn thực hiện nổ mìn đúng thời gian quy định vào hai khung giờ từ 11h ÷ 13h và từ 17h÷19h hàng ngày trừ ngày lễ. Tuy nhiên, việc thi công nổ mìn có gây nứt nhà của 70 h dân tại xã Tam Mỹ Đông đã được các bên liên quan [Chủ đầu tư, TVGS, Nhà thầu, Nhà thầu Bảo hiểm, Sở GTVT, Sở TN&MT, Sở NN&PTNT Quảng Nam và Chính quyền địa phương] tổ chức kiểm tra, ghi nhận các ảnh hưởng, kịp thời giải quyết. Đến nay đã hoàn thành đền bù 100% số hộ dân ảnh hưởng.

3.Về việc xây dựng đường gom dân sinh:

Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi trên địa bàn huyện Núi Thành có tổng cộng 75 đường gom và đường ngang dân sinh [52 đường gom và đường ngang dân sinh theo thiết kế kỹ thuật được duyệt và 23 đường gom và đường ngang dân sinh bổ sung trong quá trình thi công theo đề nghị của địa phương]. Đến nay đã thi công hoàn thành được 22 đường gom và đường ngang; đang triển khai thi công 20 đường gom và đường ngang; các đường còn lại sẽ hoàn thành trước ngày 30/9/2018.

4.Về việc các cống chui dân sinh bị ngập nước:

Theo thiết kế được duyệt, dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi trên địa bàn huyện Núi Thànhcó tổng cộng 49 cống chui dân sinh, đến nay đã được thi công xong. Tuy nhiên, qua các đợt mưa lớn, do đường ngang, hệ thống thoát nước chưa hoàn thiện nên có 07 cống chui dân sinh bị đọng nước, Chủ đầu tư đã chỉ đạo Nhà thầu, Tư vấn giám sát khắc phục. Đến nay, Nhà thầu đã khắc phục xong 04/07 vị trí, các vị trí còn lại sẽ khắc phục xong trước ngày 30/9/2018.

48. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:Quá trình thi công, lu lèn nền mặt đường hai dự án: Xây dựng Quốc lộ 3 mới [Hà Nội - Thái Nguyên] do Ban Quản lý dự án 2 làm chủ đầu tư; Nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 3 cũ do Ban Quản lý dự án An toàn giao thông làm chủ đầu tư dẫn đến tình trạng hư hỏng, lún, nứt nhà của các hộ dân dọc tuyến, đặc biệt là đoạn qua địa bàn thị xã Phổ Yên và thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Hiện nay, Chủ đầu tư các dự án đã bố trí kinh phí đền bù hỗ trợ 180 hộ [dự án Quốc lộ 3 mới], 272 hộ [dự án Quốc lộ 3 cũ]. Hiện còn một số hộ dân bị ảnh hưởng, đề nghị được đền bù, hỗ trợ [202 hộ, trong đó có 112 hộ bị ảnh hưởng do thi công Quốc lộ 3 mới và 90 hộ bị ảnh hưởng do thi công nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 3 cũ]. Cử tri đã nhiều lần kiến nghị với Bộ Giao thông vận tải và Ban Quản lý dự án 2 xem xét, giải quyết, tuy nhiên đến nay các kiến nghị của cử tri về nội dung này chưa được giải quyết.

Trả lời: Tại công văn số 6996/BGTVT-CQLXD ngày 29/6/2018

1. Với dự án Quốc lộ 3 mới, đoạn Hà Nội - Thái Nguyên:

Trong quá trình thi công dự án QL3 mới, được sự quan tâm, phối hợp của các cấp chính quyền tỉnh Thái Nguyên và sự đồng thuận của nhân dân, đoạn qua địa phận thị xã Phổ Yên đã được nhà thầu thi công hoàn thành và đưa vào khai thác từ 13/7/2013, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội, thu hút đầu tư, tăng trưởng kinh tế cho địa phương. Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ các nguyên nhân khách quan, chủ quan trong quá trình thi công đã gây nứt một số công trình của người dân dọc tuyến đường. Ban Quản lý dự án 2, nhà thầu thi công đã phối hợp với Uỷ ban nhân dân thị xã Phổ Yên, thành phố Sông Công và thành phố Thái Nguyên để tiến hành xác định hiện trạng, lên phương án đền bù, hỗ trợ và chi trả cho các hộ dân bị ảnh hưởng.

Để xử lý các khiếu nại của người dân [chủ yếu thuộc địa phận thị xã Phổ Yên] cũng như có cơ sở để yêu cầu Nhà thầu thi công thực hiện trách nhiệm bồi thường theo quy định, tại văn bản số 1480/BQLDA2-PID5 ngày 11/11/2016, Ban Quản lý dự án 2 [đại diện Chủ đầu tư] đã đề nghị Uỷ ban nhân dân thị xã Phổ Yên chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các xã tập hợp các hồ sơ liên quan đến kiến nghị đền bù do ảnh hưởng trong quá trình thi công [Đơn kiến nghị trước ngày 31/12/2014; xác nhận cụ thể nguyên nhân lún nứt công trình của đơn vị thi công….] làm cơ sở để Uỷ ban nhân dân thị xã phê duyệt [Trình tự tiến hành: [1] Người dân kiến nghị → [2] Đơn vị thi công phối hợp chính quyền địa phương kiểm tra thực trạng → [3] Gửi hồ sơ đến Trung tâm kiểm định – Sở Xây dựng Thái Nguyên để thẩm định và lên phương án hỗ trợ → [4] UBND huyện, thị xã phê duyệt dự toán kinh phí → [5] Nhà thầu phối hợp chính quyền địa phương thực hiện chi trả]. Kinh phí do Ban QLDA2 chịu trách nhiệm chỉ đạo nhà thầu thi công gây nứt công trình chi trả từ nguồn kinh phí của nhà thầu.

Đến thời điểm 31/12/2016, đối với các hộ dân bị ảnh hưởng tại dự án có đầy đủ hồ sơ, biên bản xác nhận giữa đại diện nhà thầu, chính quyền địa phương và người dân bị ảnh hưởng do thi công dự án đã được chi trả là 162 hộ dân. Theo phản ánh còn 74 hộ dân [phiếu chất vấn của đại biểu là 112 hộ] không đủ điều kiện giải quyết, trong đó có 38 hộ mới có đơn kiến nghị, 36 hộ chưa cung cấp được các hồ sơ có liên quan. Tuy nhiên, Dự án đã hoàn thành và kết thúc thời hạn bảo hành, do vậy với kiến nghị đền bù do nguyên nhân trực tiếp gây nứt công trình từ rung chấn trong quá trình thi công không được các cơ quan có thẩm quyền của địa phương phê duyệt, Dự án xin được dừng việc tiếp nhận giải quyết các kiến nghị của các hộ dân.

  1. Với dự án nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 3 cũ:

Dự án nâng cấp cải tạo Quốc lộ 3 cũ đoạn qua địa phận tỉnh Thái Nguyên thuộc Hợp phần cải tạo cơ sở hạ tầng, Dự án tăng cường an toàn giao thông trên các Quốc lộ phía Bắc Việt Nam vốn vay JICA đã hoàn thành năm 2014 và đã bàn giao hết bảo hành năm 2015.

Theo báo cáo của Ban Quản lý dự án 2 [Ban Quản lý dự án An toàn giao thông cũ], trước khi thi công, nhà thầu đã tiến hành rà soát, lập biên bản xác nhận hiện trạng với các nhà dân dọc tuyến. Sau khi kết thúc thi công đưa công trình vào sử dụng, đơn vị bảo hiểm của nhà thầu đã đền bù 272 hộ [theo đơn giá thẩm định do đơn vị kiểm định của bảo hiểm xác định]. Trên tuyến còn lại 99 hộ chưa giải quyết [phiếu chất vấn của đại biểu là 90 hộ], trong đó có 40 hộ không đồng ý với đơn giá đền bù do đơn vị bảo hiểm đưa ra và 59 hộ dân sau khi kết thúc thi công mới có ý kiến yêu cầu đền bù hỗ trợ [nằm ngoài số hộ dân có biên bản trước khi thi công].

Để giải quyết nội dung kiến nghị của nhân dân, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Ban Quản lý dự án 2 khẩn trương thực hiện:

- Đối với 40 hộ dân đã xác định được giá trị nhưng không đồng ý với đơn giá đền bù: Tiếp tục phối hợp với địa phương để vận động, thống nhất giá đền bù với các hộ bị ảnh hưởng làm căn cứ chi trả, dự kiến hoàn thành trong Quý III năm 2018;

- Với các hộ dân mới phát sinh: Làm việc cụ thể và phối hợp với các Sở, ban ngành và địa phương kiểm tra xác định nguyên nhân, các căn cứ pháp lý, nội dung có liên quan [thời điểm đơn kiến nghị, phạm vi, mức độ ảnh hưởng, xác nhận của chính quyền địa phương …] để giải quyết. Tuy nhiên, đến nay Dự án đã hoàn thành kết thúc thời hạn bảo hành, do vậy Dự án xin được dừng việc tiếp nhận giải quyết các kiến nghị mới khiếu nại về rung nứt công trình của các hộ dân.

49. Cử tri TP Cần Thơ kiến nghị:Đề nghị Bộ GTVT chỉ đạo đơn vị chức năng phối hợp Công ty BOT Cần Thơ - Phụng Hiệp giải quyết thanh toán chi phí di dời đường dây điện để xây dựng trạm thu phí BOT Cần Thơ - Phụng Hiệp.

Trả lời: Tại công văn số 7895/BGTVT-CQLXD ngày 19/7/2018

  • Về cơ chế thực hiện công tác GPMB của dự án: Tại văn bản số 2234/TTg-KTN ngày 17/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý dự án mở rộng QL1 đoạn Cần Thơ - Phụng Hiệp [Km2078+319 - Km2100] triển khai thực hiện theo cơ chế chính sách của các dự án đầu tư trên QL1 đoạn Hà Nội - Cần Thơ và đường Hồ Chí Minh đoạn qua khu vực Tây Nguyên [QL14 cũ]. Theo đó, đối với công tác GPMB đã được Chính phủ chỉ đạo tại các Thông báo [số 387/TB-VPCP ngày 29/10/2013, số 450/TB-VPCP ngày 13/12/2013] và Văn bản số 4433/VPCP-KTN ngày 16/6/2014: “các chủ công trình hạ tầng kỹ thuật [VNPT, Viettel, EVN, các chủ công trình nước sinh hoạt] phải chủ động bố trí kinh phí và tổ chức di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng tiến độ dự án”. Do vậy, việc bố trí kinh phí di dời các công trình điện trên địa phận thành phố Cần Thơ phục vụ công tác GPMB dự án thuộc trách nhiệm của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Tổng công ty Điện lực Miền Nam. Cùng thuộc dự án mở rộng QL1 đoạn Cần Thơ - Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang đã thực hiện việc di dời các công trình điện theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nêu trên;
  • Trong quá trình triển khai xây dựng, trước khó khăn về vốn của Công ty Điện lực Cần Thơ và dưới sự chỉ đạo của UBND thành phố Cần Thơ, để đẩy nhanh tiến độ công tác GPMB Nhà đầu tư đã ứng trước kinh phí để thực hiện việc di dời các công trình điện thuộc địa phận thành phố Cần Thơ. Sau khi dự án hoàn thành, Nhà đầu tư nhiều lần có văn bản đề nghị Tổng công ty Điện lực Miền Nam bố trí kinh phí cho Công ty Điện lực Cần Thơ để hoàn trả kinh phí đã ứng. Trong quá trình quyết toán dự án, Bộ GTVT đã có Văn bản số 9304/BGTVT-CQLXD ngày 17/8/2017 gửi Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Tổng công ty Điện lực Miền Nam đề nghị hỗ trợ giải quyết. Tuy nhiên, Tập đoàn Điện lực Việt Nam từ chối với lý do dự án mở rộng QL1 đoạn Cần Thơ - Phụng Hiệp không thuộc phạm vi thực hiện cơ chế chính sách của các dự án đầu tư trên QL1 đoạn Hà Nội - Cần Thơ và đường Hồ Chí Minh đoạn qua khu vực Tây Nguyên [QL14 cũ];
  • Ngày 30/10/2017, Bộ GTVT đã có Công văn số 12208/BGTVT-CQLXD gửi Bộ Công thương đề nghị quan tâm chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Tổng công ty Điện lực Miền Nam khẩn trương bố trí kinh phí thực hiện việc di dời các công trình điện trên địa phận thành phố Cần Thơ để hoàn trả Nhà đầu tư kinh phí đã ứng và hoàn thành công tác quyết toán dự án. Gần đây nhất, Bộ GTVT tiếp tục có Công văn số 6777/BGTVT-CQLXD ngày 25/6/2018 gửi Bộ Công thương đề nghị chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Tổng công ty Điện lực Miền Nam sớm bố trí kinh phí để giải quyết dứt điểm vướng mắc nêu trên.

50. Cử tri tỉnh Thừa Thiên – Huế kiến nghị:Các đơn vị thi công dự án đường La Sơn – Túy Loan [đoạn đi qua địa bàn thị trấn Khe Tre và xã Hương Hòa của huyện Nam Đông] làm nứt nẻ, hư hỏng nhà, công trình, cây cối, hoa màu của các hộ dân sống ven đường; nhưng công tác thống kê, kiểm đếm, xác định giá trị thiệt hại để bồi thường cho người dân còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ của dự án; làm đổ đất, đá xuống lòng sông Hương [đầu nguồn] gây ô nhiễm nguồn nước trong thời gian dài, trong khi đây là nguồn nước mà Công ty cấp nước Thừa Thiên Huế sử dụng để phục vụ cho mục đích sinh hoạt của người dân trên địa bàn tỉnh. Đề nghị Bộ chỉ đạo khắc phục.

Trả lời: Tại công văn số 8092/BGTVT-CQLXD ngày 24/7/2018

Sau khi nhận được ý kiến của Đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh Thừa Thiên Huế tại Công văn số 37/ĐĐBQH-VP ngày 02/5/2018, báo cáo của Ban QLDA đường Hồ Chí Minh tại Văn bản số 1230/ĐHCM-VP ngày 16/5/2018, Bộ GTVT đã có Văn bản số 5247/BGTVT-CQLXD ngày 18/5/2018 trong đó yêu cầu Ban QLDA, Nhà đầu tư, Tư vấn giám sát, Nhà thầu thi công khẩn trương, nghiêm túc phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện: Đền bù cho các hộ dẫn bị ảnh hưởng do thi công dự án; vận chuyển đổ đất thừa đúng vị trí bãi chứa đã được cấp phép và đổ, san ủi theo đúng trình tự thi công; nghiêm cấm việc vận chuyển đổ đất thừa không đúng vị trí quy định; chấn chỉnh, nghiêm túc thực hiện về an toàn lao động và vệ sinh môi trường trong quá trình thi công dự án. Kết quả thực hiện đến nay, theo báo cáo của Ban QLDA đường Hồ Chí Minh như sau:

- Về công tác thống kê, kiểm đếm, xác định giá trị thiệt hại để bồi thường nhà ở, công trình, cây cối, hoa màu của các hộ bị ảnh hưởng trong quá trình thi công dự án trên địa bàn thị trấn Khe Tre, huyện Nam Đông [xã Hương Hòa không bị ảnh hưởng bởi thi công dự án]:Hiện còn 04/113 hộ dân chưa nhất trí nhận tiền bồi thường do ảnh hưởng của mưa lũ năm 2017, tuy nhiên trong thời gian qua Ban QLDA đường Hồ Chí Minh đã tích cực phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động, nên đa số người dân đã chia sẻ, ủng hộ.Đối với các hộ bị ảnh hưởng do lu rung [77 hộ] và 01 hộ bị ảnh hưởng do nổ mìn chưa nhận tiền, địa phương đã thống nhất với Ban QLDA đường Hồ Chí Minh kế hoạch sau khi thi công xong bê tông nhựa lớp 1 [hết giai đoạn lu rung] sẽ tổ chức giám định lại lần cuối để áp giá đền bù và chi trả cho người dân bị ảnh hưởng theo quy định.

- Về việc thi công làm đổ đất, đá xuống lòng sông gây ô nhiễm nguồn nước:Bộ GTVT đã chỉ đạo Ban QLDA đường Hồ Chí Minh tăng cường kiểm tra, giám sát, chỉ đạo tư vấn giám sát, các nhà thầu thi công kiểm soát chặt chẽ công tác đảm bảo vệ sinh môi trường, đổ thải đúng quy định, tăng cường san ủi, lu lèn bãi chứa, gia cố chân bãi thải để khắc phục triệt để sụt lún; ngoài ra địa phương và người dân trong khu vực cũng tiến hành trồng cây trên bãi chứa, nên các bãi chứa đã dần ổn định, không còn sụt lở đất, đá xuống lòng sông.

51. Cử tri TP Hà Nội kiến nghị:Cử tri phản ánh nút giao QL.2 với đường Võ Văn Kiệt trên địa phận huyện Sóc Sơn có mật độ tham gia giao thông rất đông nên thường xuyên xảy ra ùn tắc, tai nạn giao thông gây bức xúc cho người dân. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Giao thông sớm chấp thuận việc đầu tư xây cầu vượt tại nút giao Quốc lộ 2 với đường Võ Văn Kiệt.

Trả lời: Tại công văn số 8569/BGTVT-KHĐT ngày 06/8/2018

Theo Luật Thủ đô, nút giao QL.2 với đường Võ Văn Kiệt do UBND hành phố Hà Nội chịu trách nhiệm quản lý, đầu tư. Hiện nay, nút giao này là nút giao bằng, điều khiển bằng đảo giao thông nên mật độ, lưu lượng giao thông tăng trong thời gian qua sẽ tiềm ẩn nguy cơ ùn tắc, tai nạn giao thông.

Vì vậy, đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội có ý kiến với UBND thành phố Hà Nội chủ động huy động các nguồn vốn hợp pháp để nghiên cứu đầu tư nút giao giữa đường Võ Văn Kiệt và QL.2 và thông báo đến cử tri thành phố được biết về việc đầu tư nút giao này.

52. Cử tri TP Hải Phòng kiến nghị:Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các đơn vị liên quan sớm nghiên cứu phương án, đầu tư kinh phí xử lý các nút giao [cầu B49, nút giao thông Quốc lộ 10 với đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng] trên Quốc lộ 10 để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông, tránh ùn tắc trong giờ cao điểm.

Trả lời: Tại công văn số 8197/BGTVT-ĐTCT ngày 27/7/2018

Nút giao giữa quốc lộ 10 với đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng thuộc dự án đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng do Tổng công ty Phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính Việt Nam [VIDIFI] triển khai đầu tư và hoàn thành, đưa vào khai thác năm 2015. Theo báo cáo của VIDIFI, các nhánh của nút giao liên thông giữa cao tốc với quốc lộ 10 được thiết kế với lưu lượng giao thông khai thác tính toán trong thời gian 10 năm. Thực tế đến nay, năng lực thông hành của nút giao vẫn đáp ứng được nhu cầu về lưu lượng. Riêng cầu vượt B49 trên quốc lộ 10 [quy mô 02 làn xe] vượt cao tốc Hà Nội - Hải Phòng có hiện tượng ùn tắc vào giờ cao điểm.

Để giải quyết tình trạng ùn tắc vào giờ cao điểm trên cầu vượt B49 cần đầu tư thêm một đơn nguyên cầu vượt 02 làn xe bên cạnh cầu vượt B49 cũ với chiều dài khoảng 1km [bao gồm cả đường 02 đầu cầu], kinh phí khoảng 250 tỷ đồng. Do công trình cầu vượt B49 trên quốc lộ 10 thuộc dự án đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Bộ GTVT đã giao VIDIFI nghiên cứu đầu tư, tuy nhiên, hiện nay các nguồn hỗ trợ của Nhà nước đối với dự án vẫn chưa được bố trí; nguồn thu phí không đủ để trả lãi vay nên việc bổ sung vào dự án sẽ phá vỡ phương án tài chính dự án. Ngoài ra, Bộ GTVT cũng đã chỉ đạo Ban QLDA 2 và nhà đầu tư nghiên cứu bổ sung vào dự án BOT cải tạo, nâng cấp QL10 đoạn từ cầu Quán Toan đến cầu Nghìn, tuy nhiên, do công trình nằm ngoài phạm vi dự án BOT này nên việc bổ sung không phù hợp với kết luận của Kiểm toán Nhà nước tại Báo cáo kiểm toán chuyên đề quản lý đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đối với các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công - tư của Bộ GTVT tháng 8/2017: “Bộ GTVT rút kinh nghiệm trong việc tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bổ sung, điều chỉnh các hạng mục ngoài nội dung, phạm vi đầu tư ban đầu của dự án, không phù hợp với quy định được điều chỉnh của Luật Xây dựng”. Như vậy, phương án bổ sung hạng mục công trình cầu vượt B49 trên quốc lộ 10 vào các dự án BOT nêu trên là không khả thi.

Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND thành phố Hải Phòng để báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, huy động đầu tư từ các nguồn vốn hợp pháp khác. Bộ GTVT ghi nhận kiến nghị của cử tri thành phố Hải Phòng và mong cử tri thành phố Hải Phòng chia sẻ với khó khăn chung của quốc gia cũng như của ngành giao thông vận tải.

53. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị:Cử tri tiếp tục đề nghị nâng cấp Quốc lộ 91C, vì hiện nay lưu lượng xe vận chuyển hàng hóa giao thương với nước bạn Campuchia ngày càng nhiều, trong khi đó đường hẹp, tải trọng thấp dễ gây tai nạn giao thông.

Trả lời: Tại công văn số 8000/BGTVT-KHĐT ngày 23/7/2018

Bộ GTVT đã triển khai lập chủ trương đầu tư và thực hiện các thủ tục thẩm định nguồn vốn theo quy định của Luật Đầu tư công đối với Dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 91C, tỉnh An Giang. Tuy nhiên, do nguồn vốn đầu tư công trung hạn 2016 - 2020 giao cho Bộ GTVT rất hạn chế, không thể cân đối bố trí cho Dự án này. Bộ GTVT sẽ tiếp tục báo cáo Thủ tướng Chính phủ bổ sung nguồn vốn dự phòng của Chính phủ giai đoạn 2016-2020 để hoàn thành các công trình dở dang và triển khai một số công trình quan trọng, cấp bách của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Khi được bổ sung nguồn vốn, Bộ GTVT sẽ xem xét đến việc đầu tư một số dự án quốc lộ quan trọng trên địa phận tỉnh An Giang, trong đó có tuyến Quốc lộ 91C. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác kiểm tra, duy tu, sửa chữa để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông trên tuyến.

54. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị:Cử tri kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các nhà đầu tư, Ban quản lý dự án, nhà thầu và các đơn vị liên quan sớm triển khai việc khắc phục triệt để tình trạng hư hỏng mặt đường của Quốc lộ 1 qua địa phận tỉnh Bình Định trước mùa mưa năm 2018 để đảm bảo giao thông thông suốt và an toàn.

Trả lời: Tại công văn số 8227/BGTVT-CQLXD ngày 27/7/2018

Các dự án nâng cấp mở rộng QL1A đoạn qua tỉnh Bình Định đã hoàn thành thông xe vào ngày 14/10/2015. Sau thông xe, tuyến đường đã trải qua các mùa mưa lũ lớn và kéo dài vào các năm 2016 và 2017 gây ra tình trạng nhiều đoạn đường bị ngập liên tục. Việc khai thác công trình với mật độ, lưu lượng, tải trọng lớn trên tuyến trong điều kiện mưa, lũ ngập lụt đã gây nên tình trạng hư hỏng mặt đường [bao gồm cả những đoạn đã đầu tư nâng cấp từ trước].

Do địa bàn tỉnh Bình Định nằm trong vùng có biến đổi khí hậu đặc biệt, cần có giải pháp để tăng cường ứng phó đảm bảo bền vững công trình, Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại Văn bản số 430/TTg-CN ngày 27/3/2017 về việc khắc phục hậu quả bão lũ đối với dự án quốc lộ 1 đoạn qua các tỉnh từ Bình Định đến Khánh Hòa.

Đồng thời với việc sửa chữa hư hỏng mặt đường để đảm bảo an toàn giao thông, hiện nay, Bộ GTVT đang chỉ đạo các cơ quan chức năng có các biện pháp sửa chữa khôi phục căn bản và tăng cường khả năng chịu tác động của thời tiết khắc nghiệt khu vực tỉnh Bình Định. Cụ thể:

- Bộ GTVT đang quyết liệt chỉ đạo Ban QLDA, Nhà đầu tư, Nhà thầu thi công thực hiện nghĩa vụ bảo hành, hoàn thành công tác khắc phục, sửa chữa trong tháng 7/2018, đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến.

- Về giải pháp căn bản, theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 430/TTg-CN ngày 27/3/2017: Bộ GTVT đang tiếp tục chỉ đạo và kiểm tra công tác sửa chữa khắc phục, đồng thời triển khai các biện pháp phù hợp để tăng cường khả năng chịu tác động của thời tiết và các yếu tố liên quan, nhằm đảm bảo an toàn cho công trình do ảnh hưởng của những điều kiện khí hậu, thời tiết bất thường của khu vực Miền Trung nói chung và khu vực Bình Định nói riêng cũng như đảm bảo hiệu quả khai thác lâu dài của công trình. Bộ GTVT đã phê duyệt Hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công, dự toán, kết quả lựa chọn nhà thầu đối với hạng mục khắc phục hậu quả bão lũ, tăng cường kết cấu áo đường, Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh đang tiến hành thương thảo ký kết Hợp đồng với nhà thầu thi công; dự kiến triển khai thi công vào tháng 8/2018. Tuy nhiên, liên quan đến kế hoạch vốn bố trí cho dự án, sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuậnkéo dài thời gian giải ngân kế hoạch đầu tư công năm 2016 sang năm 2018, Bộ GTVT sẽ tập trung triển khai ngay công tác khắc phục hậu quả bão lũ, tăng cường kết cấu áo đường, đảm bảo hoàn thành trong năm 2018.

55. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị:Để giúp cho tỉnh Cao Bằng phát triển bền vững hơn, cử tri đề nghị Chính phủ và các bộ, ngành tiếp tục ưu tiên đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông liên tỉnh, nội vùng kết nối các khu, điểm du lịch, cụ thể như sau: Tiếp tục xem xét ưu tiên đầu tư đường cao tốc tuyến Lạng Sơn – Cao Bằng – Trà Lĩnh để phục vụ các hoạt động thương mại, du lịch, phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Cao Bằng; Đầu tư, nâng cấp tuyến quốc lộ 34 kết nối Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn [Hà Giang] và Công viên địa chất toàn cầu non nước Cao Bằng.

Trả lời: Tại công văn số 8368/BGTVT-KHĐT ngày 31/7/2018

1. Về ưu tiên đầu tư đường cao tốc tuyến Lạng Sơn – Cao Bằng – Trà Lĩnh

Tuyến cao tốc Đồng Đăng – Lạng Sơn đã có trong Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 1/3/2016, chiều dài 144km, quy mô 4 làn xe, tổng mức đầu tư khoảng 47.000 tỷ đồng, tiến độ thực hiện đầu tư sau năm 2030.

Hiện nay, Bộ GTVT đang giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam rà soát, điều chỉnh Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, trong đó có nghiên cứu khả năng điều chỉnh tiến độ đầu tư tuyến cao tốc Đồng Đăng – Trà Lĩnh theo nhu cầu vận tải, khả năng huy động nguồn lực để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Việc huy động nguồn lực đầu tư sẽ được Bộ GTVT xem xét sau khi điều chỉnh quy hoạch trên được duyệt.

2. Đầu tư, nâng cấp tuyến QL.34 kết nối Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn [Hà Giang] và Công viên địa chất toàn cầu non nước Cao Bằng

Theo quy hoạch phát triển GTVT đường bộ Việt Nam, Quốc lộ 34 nối tỉnh Hà Giang với tỉnh Cao Bằng, dài 265km, quy mô tổi thiểu đường cấp IV, 2 làn xe, trong đó đoạn qua địa phận tỉnh Cao Bằng dài 186km.

Hiện nay, tuyến Quốc lộ 34 có tiêu chuẩn đường cấp V, IV, đã xuống cấp, điều kiện đi lại khó khăn. Do nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí cho Bộ GTVT trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2015-2020 hạn chế nên chưa thể bố trí vốn đầu tư tuyến QL.34 nói chung và đoạn QL.34 kết nối Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn [Hà Giang] và Công viên địa chất toàn cầu non nước Cao Bằng như đề nghị của cử tri.

Trước mắt, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục ĐBVN bố trí kinh phí duy tu, bảo trì để đảm bảo điều kiện khai thác bình thường của tuyến đường.

56. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị:Đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành cơ chế, chính sách đặc thù, ưu tiên, tập trung nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng Tây Nguyên và vùng phụ cận Tây Nguyên giai đoạn 2016 - 2020; trong đó có các dự án cấp bách, quan trọng như: Dự án cải tạo, nâng cấp tỉnh lộ 9, quốc lộ 29 đoạn qua địa phận tỉnh Đắk Lắk để đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của địa phương và vùng Tây Nguyên nói chung.

Trả lời: Tại công văn số 8263/BGTVT-KHĐTngày 30/7/2018

Trong giai đoạn 2010-2015, được sự quan tâm của Nhà nước, Chính phủ, kết cấu hạ tầng giao thông vùng Tây Nguyên đã được đầu tư với tổng số vốn bố trí và huy động khoảng 60.682 tỷ đồng [vốn Trung ương 45.347 tỷ đồng, vốn địa phương 15.335 tỷ đồng], cao hơn nhiều so với giai đoạn 2006 – 2010. Nhiều công trình giao thông trọng yếu được đầu tư làm thay đổi bộ mặt của Vùng như đường Hồ Chí Minh, QL19, QL20, QL26, QL28...; các cảng hàng không: Buôn Ma Thuột, Liên Khương và Pleiku. Riêng địa phận tỉnh Đắk Lắk, hiện Bộ GTVT đang tiếp tục đầu tư các tuyến tránh đường Hồ Chí Minh đoạn qua thị xã Buôn Hồ và thị trấn Ea Drăng, huyện Ea H’leo từ nguồn vốn TPCP còn dư của các dự án cải tạo, nâng cấp QL1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên.

Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với các địa phương trong Vùng làm việc với các bộ, ngành và báo cáo Thủ tướng Chính phủ: tiếp tục ưu tiên bố trí vốn NSNN, vốn TPCP... cho Vùng; Kêu gọi nguồn vốn ODA đối với các tuyến quốc lộ đối ngoại, các tuyến đường thuộc nhóm kết cấu hạ tầng tiểu vùng sông Mê Kông, tam giác phát triển ba nước Đông Dương; Có chính sách ưu đãi trong kêu gọi đầu tư ngoài ngân sách; Ưu tiên nguồn vốn quốc phòng - an ninh để tiếp tục đầu tư cho các công trình giao thông trong vùng, đặc biệt là các công trình đảm bảo an ninh quốc phòng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Vùng.

Xác định vai trò quan trọng của Quốc lộ 29 đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, từ năm 2012 Bộ GTVT đã có chủ trương đầu tư và thực hiện các thủ tục chuẩn bị đầu tư đoạn tuyến QL.29 đoạn qua địa phận tỉnh Đắk Lắk. Bộ GTVT đã đưa vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, nguồn vốn giai đoạn 2016-2020 được Quốc hội, Chính phủ giao cho Bộ GTVT rất hạn chế [chỉ cân đối kế hoạch được khoảng 292.000 tỷ đồng/952.000 tỷ đồng nhu cầu]. Đồng thời, việc phân bổ, sử dụng nguồn vốn này phải tuân thủ theo nguyên tắc, tiêu chí của Quốc hội, theo đó ưu tiên bố trí vốn để thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản; hoàn trả vốn ứng trước; bố trí vốn đối ứng cho các dự án sử dụng vốn ODA và các dự án đang triển khai dở dang, do đó không có nguồn để bố trí cho các dự án khởi công mới. Dự án QL29 là dự án khởi công mới nên không có trong danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác duy tu, sửa chữa, đảm bảo êm thuận và an toàn giao thông trên tuyến đường. Bộ GTVT sẽ tiếp tục phối hợp với tỉnh Đắk Lắk để huy động, tìm kiếm nguồn vốn đầu tư tuyến đường này.

Đối với Tỉnh lộ 9, Bộ GTVT thống nhất với ý kiến của cử tri về sự cần thiết phải đầu tư nâng cấp, cải tạo tuyến đường này. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, đối với hệ thống đường địa phương do UBND tỉnh quản lý và đầu tư. Vì vậy, vốn đầu tư cho các tuyến đường tỉnh thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Đắk Lắk chủ động bố trí vốn và huy động các nguồn vốn hợp pháp để thực hiện, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Trong trường hợp Tỉnh có khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Đắk Lắk báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, hỗ trợ từ nguồn ngân sách Trung ương theo quy định, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ trong quá trình triển khai.

57. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị:Quốc lộ 14 đoạn qua huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk sau khi thi công xong còn thiếu hệ thống thoát nước nên mùa mưa thường bị ngập úng, nước tràn xuống nhà các hộ dân ở hai bên đường. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo xem xét đầu tư hệ thống thoát nước hai bên đoạn đường này.

Trả lời: Tại công văn số 8314/BGTVT-KCHT ngày 31/7/2018

Đường Hồ Chí Minh, đoạn qua huyện Ea H’leo, tỉnh Đắk Lắk đã hoàn thành và bàn giao đưa vào khai thác sử dụng trong năm 2015. Tại thời điểm hoàn thành, hệ thống thoát nước đảm đảo và đáp ứng được việc thoát nước tự nhiên. Gần đây do tốc độ đô thị hóa, dân cư phát triển hai bên đường rất nhanh, đã làm ảnh hưởng đến thoát nước tự nhiên của tuyến đường, gây ngập úng cục bộ tại một số vị trí. Qua rà soát có 03 vị trí xảy ra ngập úng khi mưa lớn: Km1697+469 - Km1698+030; Km1700+200 - Km1701+200; Km1682+800 - Km1683.

Để khắc phục tình trạng ngập úng, các hạng mục công trình xử lý thoát nước nêu trên đã được Tổng cục ĐBVN tổng hợp, đưa vào kế hoạch bảo trì năm 2019; đồng thời, chỉ đạo Cục QLĐB III tiếp tục theo dõi, trường hợp cấp thiết sẽ cho sửa chữa đột xuất để đảm bảo an toàn giao thông, vệ sinh môi trường.

58. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị:Đề nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Ban QLDA 2 sớm triển khai dự án tín dụng cải tạo cầu yếu và cầu kết nối trên các quốc lộ sử dụng vốn vay ODA ưu đãi của Chính phủ Hàn Quốc, Quốc lộ 19 qua địa bàn tỉnh Gia Lai có 02 cầu thuộc dự án gồm Cầu Sông Ba và cầu Ban Ngày.

Trả lời: Tại công văn số /8445/BGTVT-KHĐT ngày 02/8/2018

Dự án Tín dụng ngành cải tạo cầu yếu và cầu kết nối trên các quốc lộ sử dụng vốn vay EDCF của Hàn Quốc đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục dự án [chủ trương đầu tư] tại Quyết định số 456/QĐ-TTg ngày 08/4/2015 và phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư tại Quyết định số 1168/QĐ-TTg ngày 29/6/2016 với kinh phí thực hiện dự án khoảng 130 triệu USD, trong đó: vốn vay ODA khoảng 100 triệu USD; vốn đối ứng khoảng 638 tỷ đồng. Dự án được triển khai thực hiện gồm hai giai đoạn:

- Giai đoạn 1 đã được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 138/QĐ-BGTVT ngày 16/01/2017 với danh mục gồm 06 cầu, hiện nay đang hoàn chỉnh các thủ tục để ký kết Hiệp định vay vốn làm cơ sở triển khai thực hiện.

- Giai đoạn 2 hiện đang triển khai công tác lập Báo cáo nghiên cứu khả thi [trong đó bao gồm các cầu Sông Ba và Ban Ngày], đến nay đã cơ bản hoàn thành và đã thống nhất với đoàn thẩm định của Nhà tài trợ [EDCF]. Do có thay đổi về danh mục các cầu đầu tư trong Giai đoạn 2 nên Bộ GTVT đang hoàn chỉnh thủ tục để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư và hoàn thiện dự án trước khi phê duyệt.

- Về kế hoạch vốn đầu tư: Bộ GTVT đã có văn bản số 4861/BGTVT-KHĐT ngày 10/5/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, trong đó có đề nghị bố trí kế hoạch vốn cho Dự án từ nguồn 10% dự phòng của Bộ GTVT.

Ngay sau khi kế hoạch vốn bố trí cho Dự án được cấp có thẩm quyền xem xét, chấp thuận, Bộ GTVT sẽ hoàn chỉnh thủ tục chuẩn bị đầu tư, phê duyệt Dự án “Tín dụng ngành cải tạo cầu yếu và cầu kết nối trên các quốc lộ sử dụng vốn vay EDCF - Giai đoạn 2” và chỉ đạo Ban QLDA 2 khẩn trương triển khai thực hiện.

  • 59. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị:Dự án cải tạo, nâng cấp QL14C đoạn qua tỉnh Gia Lai đã được Bộ Giao thông vận tải phê duyệt đầu tư từ năm 2010. Tuy nhiên, do nguồn vốn hạn chế, dự án triển khai trước đối với các đoạn cấp bách có tổng chiều dài 24 km, hiện nay trên toàn tuyến còn 48,6 km đường đất vào mùa mưa việc lưu thông của người và phương tiện cực kỳ khó khăn, đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm tiếp tục bố trí vốn để triển khai hoàn thành dự án.

Đề nghị bố trí vốn để triển khai các đoạn tuyến cấp bách thuộc dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 25 đoạn Km123 - Km181 tỉnh Gia Lai.

Trả lời: Tại công văn số8259/BGTVT-KHĐT ngày 30/7/2018

  1. Về quốc lộ 14C

Xác định vai trò quan trọng của quốc lộ 14C qua địa bàn tỉnh Gia Lai để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng, Bộ GTVT đã đưa quốc lộ 14C vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, nguồn vốn giai đoạn 2016-2020 được Quốc hội, Chính phủ giao cho Bộ GTVT rất hạn chế [chỉ cân đối kế hoạch được khoảng 292.000 tỷ đồng/952.000 tỷ đồng nhu cầu]. Đồng thời, việc phân bổ, sử dụng nguồn vốn này phải tuân thủ theo nguyên tắc, tiêu chí của Quốc hội, theo đó ưu tiên bố trí vốn để thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản; hoàn trả vốn ứng trước; bố trí vốn đối ứng cho các dự án sử dụng vốn ODA, do đó không có nguồn để bố trí cho dự án này. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác duy tu, sửa chữa, đảm bảo êm thuận và an toàn giao thông trên tuyến đường. Bộ GTVT sẽ phối hợp với tỉnh Gia Lai để báo cáo Thủ tướng Chính phủ bố trí vốn để tiếp tục đầu tư tuyến đường này.

  1. Về quốc lộ 25

Quốc lộ 25 có vai trò rất quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng tỉnh Gia Lai nói riêng và của vùng Tây Nguyên nói chung. Trong thời gian qua, Chính phủ đã báo cáo và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội chấp thuận bố trí vốn để cải tạo, nâng cấp các đoạn xung yếu trên quốc lộ 25 đoạn qua tỉnh Gia Lai trong nguồn vốn dự phòng kế hoạch trung hạn giai đoạn 2016 - 2020. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ bố trí vốn, Bộ GTVT sẽ triển khai dự án theo quy định.

60. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị:Đề nghị Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải quan tâm xúc tiến đầu tư dự án nâng cấp mở rộng tuyến đường từ Ngã ba Nghèn đến Ngã Ba Đồng Lộc.

Trả lời: Tại công văn số 7707/BGTVT-KHĐT ngày 16/7/2018

- Để tạo điều kiện đi lại thuận lợi, đảm bảo an toàn cho nhân dân trên địa bàn và du khách thập phương về tham quan, dâng hương, tưởng niệm tại Khu di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc, Khu tưởng niệm Anh hùng liệt sỹ Lý Tự trọng; đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo quốc phòng - an ninh, thu hút đầu tư của địa phương và của tỉnh Hà Tĩnh, Bộ GTVT đã phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 15B đoạn từ Ngã ba Đồng Lộc đến Quốc lộ 1, tỉnh Hà Tĩnh tại Quyết định số 1573/QĐ-BGTVT ngày 30/5/2017 với chiều dài 10,7km, tổng mức đầu tư 249,966 tỷ đồng, đến nay đã thi công được khoảng 60% khối lượng, dự kiến sẽ hoàn thành đưa vào khai thác trong năm 2018.

- Đối với Dự án nâng cấp mở rộng tuyến đường từ Ngã ba Nghèn [Quốc lộ 1] đến Ngã Ba Đồng Lộc là dự án nâng cấp mở rộng đoạn tuyến thuộc tỉnh lộ 548. Đây là công trình thuộc thẩm quyền quản lý, đầu tư của UBND tỉnh Hà Tĩnh nên ngân sách được giao của Bộ GTVT không thể chi cho đầu tư xây dựng công trình. Do vậy, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Hà Tĩnh chủ động bố trí ngân sách địa phương hoặc huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để triển khai thực hiện.

61. Cử tri tỉnh Hậu Giang kiến nghị:Cử tri phản ánh dự án nâng cấp và mở rộng Quốc lộ 61B đoạn từ ngã ba Vĩnh Tường thuộc phường Vĩnh Tường, thị xã Long Mỹ đến vòng xuyến vào trung tâm thị xã Long Mỹ tỉnh Hậu Giang đang triển khai thực hiện và đã thi công được một đoạn, nhưng hiện nay tạm dừng thi công do hết vốn. Cử tri kiến nghị bố trí 167 tỷ đồng cho dự án nâng cấp cải tạo Quốc lộ 61B [đoạn từ ngã ba Vĩnh Tường đến thị trấn Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang] từ nguồn dự phòng đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 để triển khai hoàn thành dự án.

Trả lời: Tại công văn số 7941/BGTVT-KHĐT ngày 20/7/2018

Dự án nâng cấp, cải tạo QL61B đoạn ngã ba Vĩnh Tường - thị trấn Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang đã được khởi công từ tháng 8 năm 2014 với tổng mức đầu tư 267 tỷ đồng bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Do nguồn vốn bố trí cho Bộ GTVT hạn chế nên việc cân đối vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 chưa đủ để hoàn thành Dự án. Hiện nay, Bộ GTVT đang tổng hợp nhu cầu vốn còn lại để hoàn thành toàn bộ dự án [khoảng 167 tỷ đồng] làm cơ sở kiến nghị Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội bổ sung từ dự phòng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Sau khi được Quốc hội thông qua, Bộ GTVT sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bố trí kế hoạch vốn hàng năm để sớm hoàn thành đầu tư đoạn tuyến nêu trên.

62. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị:Đề nghị Thủ tướng Chính phủ bố trí vốn triển khai thực hiện đầu tư hoặc chỉ đạo Bộ GTVT lựa chọn nhà đầu tư theo hình thức đối tác công tư [PPP] dự án đường sắt tốc độ cao Hà Nội - Đồng Đăng trong giai đoạn 2018 - 2020 để sớm tạo thuận lợi cho xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước [phía Trung Quốc đang tập trung nâng cấp tuyến đường sắt này để nâng cao năng lực vận chuyển hàng hóa nông sản, nguyên vật liệu số lượng lớn]. Cho phép nghiên cứu phương án di chuyển đường sắt đoạn từ thành phố Lạng Sơn đến ga Tam Lung ra phía Đông [hiện nay tuyến đường sắt chạy xuyên qua trung tâm thành phố] để đảm bảo an toàn giao thông, tạo điều kiện mở rộng quy hoạch và đầu tư xây dựng Trục trung tâm Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn và các phân khu chức năng.

Trả lời: Tại công văn số 8444/BGTVT-KHĐT ngày 02/8/2018

1. Về việc triển khai đầu tư tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng theo hình thức đối tác công tư [PPP] trong giai đoạn 2018 - 2020:

Trên cơ sở cân đối các nguồn lực đầu tư, Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt Việt Nam tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/2/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ đã định hướng phát triển tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, khổ 1.435mm với chiều dài khoảng 156km [không phải đường sắt tốc độ cao như kiến nghị của cử tri đã nêu] và lộ trình nghiên cứu, đầu tư trong giai đoạn sau 2020.

Trường hợp có nhà đầu tư quan tâm để triển khai đầu tư theo hình thức đối tác công tư [PPP] như kiến nghị của cử tri, Bộ GTVT sẽ phối hợp với các bộ, ngành có liên quan và địa phương có tuyến đường sắt đi qua để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, có ý kiến chỉ đạo.

2. Về việc nghiên cứu phương án di chuyển đoạn đường sắt từ thành phố Lạng Sơn đến ga Tam Lung ra phía Đông [di dời đường sắt chạy xuyên qua trung tâm thành phố]:

Trong bối cảnh nguồn lực đầu tư khó khăn như hiện nay, việc di chuyển đoạn đường sắt từ thành phố Lạng Sơn đến ga Tam Lung chưa được xem xét trong giai đoạn đến năm 2020. Mặt khác, Bộ GTVT nhận thấy đoạn đường sắt này nằm trên tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, đây là tuyến đường sắt huyết mạch, quan trọng trong việc kết nối liên vận quốc tế Việt Nam - Trung Quốc; việc di chuyển đoạn đường sắt nêu trên như đề nghị của cử tri có quan hệ chặt chẽ với phương án hướng tuyến đường sắt mới Hà Nội - Đồng Đăng trên địa bàn thành phố Lạng Sơn cũng như định hướng phương án kết nối liên vận quốc tế sang phía Trung Quốc sau này. Vì vậy, kiến nghị này của cử tri sẽ được Bộ GTVT rà soát cụ thể trong quá trình triển khai nghiên cứu tuyến đường sắt mới Hà Nội - Đồng Đăng để đảm bảo tính tổng thể giữa việc cải tạo nâng cấp tuyến đường sắt hiện có và tuyến đường sắt mới.

63. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị:Nhiều ý kiến cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành bố trí vốn để sớm đầu tư xây dựng Quốc lộ 17B.

Trả lời: Tại công văn số 8372/BGTVT-KHĐT ngày 31/7/2018

Do nguồn vốn ngân sách nhà nước trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế và tuyến đường chưa có trong Quy hoạch phát triển GTVT đường bộ Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 nên việc đầu tư nâng cấp QL.17B đoạn qua tỉnh Hải Dương chưa thể thực hiện trong giai đoạn này.

Trước mắt, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam rà soát, bố trí kinh phí duy tu, bảo trì để đảm bảo điều kiện khai thác bình thường của tuyến đường.

64. Cử tri tỉnh Hòa Bình kiến nghị:Tuyến đường Quốc lộ 15A đoạn qua huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình do điều kiện thi công Thủy điện Trung Sơn và Thủy điện Hồi Xuân, tỉnh Thanh Hóa có nhiều phương tiện trọng tải lớn đi qua nên gây hư hỏng nặng. Mặt khác, do ảnh hưởng của cơn bão số 10 vào tháng 10 năm 2017 gây sói lở nhiều vị trí. Đề nghị Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải quan tâm, xem xét, nâng cấp tuyến đường này nhằm đảm bảo an toàn giao thông.

Trả lời: Tại công văn số 7950/BGTVT-KHĐT ngày 20/7/2018

Bộ GTVT đã phê duyệt Dự án đầu tư QL15 đoạn qua huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình [Km0 - Km20] với TMĐT 361 tỷ đồng. Theo Luật Đầu tư công, Bộ GTVT đã thẩm định báo cáo đề xuất đầu tư gửi Bộ KH & ĐT, Bộ Tài chính để thẩm định nguồn. Các Bộ, ngành đã có ý kiến thẩm định về nguồn vốn và đề nghị giao Bộ GTVT cân đối từ nguồn vốn trung hạn được bố trí để triển khai. Việc đầu tư nâng cấp tuyến đường trên như đề nghị của cử tri là cần thiết. Tuy nhiên, do các nguồn vốn trung hạn phân bổ cho Bộ GTVT giai đoạn 2016 - 2020 là hết sức hạn chế nên chưa thể bố trí vốn để triển khai nâng cấp các tuyến đường này. Bộ GTVT sẽ xem xét đầu tư vào giai đoạn sau năm 2020, khi Quốc hội, Chính phủ có chủ trương bố trí vốn cho Dự án. Trước mắt, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam bố trí vốn để sửa chữa, bảo trì bảo đảm giao thông êm thuận và an toàn.

65. Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị:Tại các buổi tiếp xúc cử tri trước kỳ họp thứ 3, thứ 4, Quốc hội khóa I XIV cử tri Hưng Yên đã đề nghị Quốc hội, Chính phủ, Bộ GTVT sớm bố trí vốn để đầu tư xây dựng đường nối hai đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ. Cử tri cho rằng sẽ là sự lãng phí rất lớn nếu cầu Hưng Hà xây dựng xong mà đường dẫn hai đầu cầu chưa xong. Đến nay, cầu Hưng Hà đã cơ bản hoàn thành các hàng mục, dự kiến khánh thành vào giữa quý 2 năm 2018. Tuy nhiên, đến nay hạng mục đường dẫn ở hai đầu cầu chưa được phân bổ vốn; nhà thầu không có vốn thi công, mặc dù việc giải phóng mặt bằng đã xong. Nếu không có vốn kịp thời để thi công, khả năng tái lấn chiếm mặt bằng và bất ổn an ninh trật tự là rất dễ xảy ra. Do vậy, đề nghị Quốc hội, Chính phủ và các bộ ngành Trung ương quan tâm đặc biệt vấn đề này.

Trả lời: Tại công văn số 8376/BGTVT-KHĐT ngày 01/8/2018

Nhằm nâng cao khả năng khai thác của 2 tuyến cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, giảm áp lực giao thông quá cảnh qua Thủ đô Hà Nội và hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội khu vực đồng bằng sông Hồng, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ GTVT quyết định đầu tư và triển khai dự án xây dựng tuyến đường nối cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với Hà Nội – Hải Phòng, đồng thời giao UBND tỉnh Hà Nam và UBND tỉnh Hưng Yên ứng trước vốn thực hiện dự án.

Trên cơ sở đó, Bộ GTVT đã phê duyệt và đang triển khai thi công giai đoạn 1 tuyến đường nối cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với Hà Nội – Hải Phòng, quy mô 2 làn xe, tổng mức đầu tư 2717,3 tỷ đồng từ nguồn vốn ứng trước của tỉnh Hưng Yên và Hà Nam. Do nguồn vốn ứng bố trí cho dự án khó khăn nên hiện nay dự án đang thi công dở dang, chưa đưa vào khai thác.

Quốc hội đã có Nghị quyết số 52/2017/QH14 ngày 22/11/2017 về chủ trương đầu tư dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, theo Nghị quyết đã cho phép sử dụng 15.000 tỷ đồng từ nguồn vốn dự phòng của kế hoạch trung hạn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020 cho các dự án đường sắt quan trọng và các dự án đường bộ quan trọng, cấp bách, trong đó xem xét bố trí một phần vốn [1.397 tỷ đồng] để tiếp tục đầu tư hoàn thành giai đoạn 1 của dự án án xây dựng tuyến đường nối cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với Hà Nội – Hải Phòng.

Trong khi chờ bố trí vốn ngân sách Trung ương [dự kiến năm 2019], đề nghị UBND tỉnh Hưng Yên tiếp tục huy động, bố trí vốn để thực hiện đầu tư dự án như đã cam kết trước đây và đôn đốc nhà thầu đầy nhanh tiến độ thi công hoàn thành giai đoạn 1 của dự án, phát huy hiệu quả phần vốn đã thực hiện đầu tư, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

66. Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị:Bộ GTVT đã có văn bản trả lời số 2946/BGTVT-CQLXD ngày 22/3/2017 và văn bản số 287/BGTVT-KHĐT ngày 10/01/2018 là sẽ xem xét đầu tư nút giao liên thông tại địa phận xã Tân Phúc và xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi vào cuối năm 2018. Tuy nhiên đến nay, theo cử tri huyện Ân Thi vẫn chưa có tín hiệu gì đảm bảo dự án được khởi công xây dựng như cam kết. Đề nghị Bộ GTVT trả lời để cử tri rõ.

Trả lời: Tại công văn số 8835/BGTVT-ĐTCT ngày 13/8/2018

Dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng do Tổng công ty Phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính Việt Nam [VIDIFI] triển khai đầu tư và hoàn thành, đưa vào khai thác năm 2015. Đoạn tuyến đi qua địa phận tỉnh Hưng Yên đã kết nối với hệ thống đường giao thông địa phương tại nút giao với Quốc lộ 39 [Km20+300] thuộc địa phận xã Lý Thường Kiệt, huyện Yên Mỹ. Đối với nút giao với Quốc lộ 38 [Km29+850] thuộc địa phận xã Tân Phúc, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi do lưu lượng phương tiện tham gia giao thông trên Quốc lộ 38 chưa cao nên để phát huy hiệu quả đầu tư, nút giao thông này sẽ được nghiên cứu để đầu tư xây dựng trong giai đoạn 2 của Dự án.

Theo cơ chế của Dự án, để đảm bảo tính khả thi về phương án tài chính, Nhà nước thực hiện tham gia, hỗ trợ cho Dự án khoảng 39% tổng mức đầu tư [Điều 2 Quyết định số 746/QĐ-TTg ngày 29/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ]. Tuy nhiên, theo báo cáo của VIDIFI sau gần 03 năm đưa vào khai thác các khoản hỗ trợ của Nhà nước cho Dự án vẫn chưa được bố trí; nguồn thu phí không đủ để trả lãi vay nên việc đầu tư xây dựng giai đoạn 2 sẽ phá vỡ phương án tài chính dự án. Ngoài ra, nguồn vốn Ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế, không thể cân đối đầu tư ngay nút giao liên thông trên Quốc lộ 38 như kiến nghị của cử tri huyện Ân Thi.

Trong thời gian tới, khi các khoản hỗ trợ của Nhà nước theo Quyết định số 746/QĐ-TTg nêu trên được bố trí, lưu lượng giao thông tăng cao và phương án tài chính của Dự án cân đối được, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo VIDIFI triển khai đầu tư nút giao liên thông trên Quốc lộ 38. Bộ GTVT ghi nhận kiến nghị của cử tri tỉnh Hưng Yên, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hưng Yên và mong cử tri tỉnh Hưng Yên chia sẻ với khó khăn chung của quốc gia cũng như của ngành giao thông vận tải.

67. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị:Tuyến Quốc lộ 27 đoạn đi qua tỉnh Ninh Thuận đã được cải tạo, nâng cấp và đưa vào sử dụng từ năm 2015. Tuy nhiên, hiện nay trên tuyến đường này vẫn còn nhiều đoạn [tổng cộng là 12,9km] chưa được đầu tư, nâng cấp, đang bị xuống cấp nghiêm trọng, gây rất nhiều khó khăn cho các phương tiện tham gia giao thông và các hộ dân trong khu vực. Để tiếp tục đầu tư nâng cấp các đoạn đường trên, năm 2016 Bộ Giao thông vận tải đã đưa vào danh mục các dự án sử dụng nguồn vốn trung hạn 2016-2020 để trình Chính phủ xem xét, quyết định. Tuy nhiên, đến nay các đoạn đường trên vẫn chưa được bố trí vốn. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải sớm bố trí vốn để tiếp tục đầu tư, nâng cấp các đoạn đường còn lại [12,9km] trên quốc lộ 27, đoạn đi qua tỉnh Ninh Thuận.

Trả lời: Tại công văn số 7413/BGTVT-KHĐT ngày 09/7/2018

Dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 27 đoạn Km174+00 - Km272+800 đi qua hai tỉnh Lâm Đồng và Ninh Thuận đã được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 3034/QĐ-BGTVT ngày 09/10/2007, sử dụng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2012 - 2015. Trong quá trình triển khai do vướng mắc của công tác giải phóng mặt bằng, Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ cho phép điều chỉnh dự án với chiều dài dự án được điều chỉnh từ 95 km thành 82,9 km, do 12,9 km thuộc địa bàn tỉnh Ninh Thuận chưa được bàn giao mặt bằng. Đến nay, dự án đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng.

Để hoàn thiện dự án nâng cấp QL27 trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, Bộ GTVT đã tổng hợp 12,9 km còn lại của dự án vào danh mục các dự án sử dụng nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Tuy nhiên, do nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 rất hạn chế, không thể cân đối bố trí cho dự án.

Ngày 22/6/2018, Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo số 223/TB-VPCP thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ tại cuộc họp về cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ tỉnh Ninh Thuận phát triển kinh tế - xã hội, ổn định sản xuất, đời sống nhân dân giai đoạn 2018 - 2023, trong đó đối với việc đầu tư nâng cấp, mở rộng 12,9 km các đoạn còn lại trên QL27 đoạn qua địa bàn tỉnh Ninh Thuận, Phó Thủ tướng kết luận như sau: "Đồng ý chủ trương sử dụng nguồn dự phòng đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 vốn ngân sách trung ương để bố trí vốn cho Dự án QL27 [đoạn 12 km], thanh toán vốn đầu tư công của Dự án đường ven biển [225 tỷ đồng] và đầu tư Dự án liên thông giữa hồ chứa nước Tân Giang và hồ chứa nước sông Biêu khi có chủ trương sử dụng nguồn này".

Vì vậy, Bộ GTVT sẽ phối hợp UBND tỉnh Ninh Thuận và các bộ, ngành liên quan để triển khai 12,9 km còn lại của dự án từ nguồn vốn dự phòng đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 vốn ngân sách trung ương sau khi có chủ trương sử dụng nguồn vốn này theo đúng chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ tại Thông báo nêu trên.

68. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị:Cử tri kiến nghị Bộ GTVT sớm triển khai thực hiện xây dựng tuyến cao tốc thành phố Hồ Chí Minh – Mộc Bài.

Trả lời: Tại công văn số 8256/BGTVT-KHĐT ngày 30/7/2018

Tuyến đường bộ cao tốc từ thành phố Hồ Chí Minh đi Mộc Bài, Tây Ninh có chiều dài 55 km nằm trong Quy hoạch hệ thống đường bộ cao tốc Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 01/3/2016 về Quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án đối tác trao đổi kinh nghiệm phát triển sử dụng ODA không hoàn lại của Chính phủ Hàn Quốc, trên cơ sở đó, Bộ GTVT đã phê duyệt văn kiện Dự án đối tác trao đổi kinh nghiệm phát triển lĩnh vực giao thông vận tải, sử dụng ODA không hoàn lại của Chính phủ Hàn Quốc để triển khai nghiên cứu và lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư theo hình thức PPP. Hiện nay Tư vấn đã cơ bản hoàn thành dự thảo Báo cáo cuối kỳ và đang gấp rút hoàn thành các thủ tục để trình các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt. Sau khi Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc TP Hồ Chí Minh – Mộc Bài được phê duyệt, Bộ GTVT sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ để triển khai các thủ tục tiếp theo, theo quy định.

69. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị:Để phục vụ, phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng cho khu vực, đồng thời phát huy hiệu quả đầu tư tuyến, khai thác các hạng mục đã đầu tư xong, tránh lãng phí, như phần nền đường, các cầu. Đề nghị Bộ GTVT sớm đầu tư hoàn thành giai đoạn 1 Dự án đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa thuộc các tỉnh Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh và Long An.

Trả lời: Tại công văn số 6578/BGTVT-ĐTCT ngày 20/6/2018

Dự án đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa thuộc quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 01/3/2016 [trước đây là Quyết định số 1734/QĐ-TTg ngày 01/12/2008] với quy mô 4 làn xe.

Thực hiện Nghị Quyết 38/2004/QH11 ngày 03/12/2004 của Quốc hội, Bộ Giao thông vận tải đã phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 3950/QĐ-BGTVT ngày 17/12/2007 với chiều dài 84 km, tiêu chuẩn kỹ thuật cơ bản đạt đường cao tốc, mặt cắt ngang giai đoạn phân kỳ 02 làn xe, tổng mức đầu tư 3.389 tỷ đồng bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Dự án đã được khởi công từ năm 2009, đã cơ bản thi công hoàn thành phần nền đường. Tuy nhiên, do khó khăn về nguồn vốn, thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ và Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ, dự án đã tạm đình hoãn.

Trong điều kiện nguồn vốn Nhà nước khó khăn, để phát huy hiệu quả nguồn vốn đã đầu tư cho dự án, từng bước hoàn thành đường Hồ Chí Minh theo quy hoạch, Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 15313/BGTVT-ĐTCT ngày 03/12/2014 báo cáo Thủ tướng chuyển đổi hình thức đầu tư hoàn thiện các hạng mục còn lại của dự án sang đầu tư theo hình thức BOT, đặt 02 trạm thu phí theo lượt để hoàn vốn và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại văn bản số 872/TTg-KTN Ngày 19/06/2015, Bộ Giao thông vận tải đã phê duyệt Đề xuất dự án tại Quyết định số 190/QĐ-BGTVT ngày 19/01/2017 và đang triển khai bước nghiên cứu khả thi.

Tuy nhiên, từ thực tế triển khai các dự án BOT trên các tuyến quốc lộ sử dụng hình thức thu phí theo lượt cho thấy, hình thức thu phí theo lượt không bảo đảm tính công bằng, không nhận được sự đồng thuận của người dân trong khu vực, đặc biệt dự án Chơn Thành - Đức Hòa phải cần 02 trạm thu phí mới có thể hoàn vốn...bất cập nêu trên đã được chỉ ra tại Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 của UBTV Quốc hội.

Để thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 của UBTV Quốc hội, Bộ Giao thông vận tải đã có văn bản số 3843/BGTVT-ĐTCT ngày 13/4/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án đầu tư dự án Chơn Thành - Đức Hòa theo quy mô 04 làn xe cao tốc [Bnền = 17 m] và chuyển đổi hình thức thu phí thành thu phí theo chiều dài đường sử dụng [thu phí kín] nhằm bảo đảm công bằng cho người sử dụng. Tại văn bản số 4141/VPCP-CN ngày 07/5/2018 Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Giao thông vận tải quyết định theo thẩm quyền.

Hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đang chỉ đạo các cơ quan, đơn vị khẩn trương cập nhật, hoàn chỉnh Báo cáo nghiên cứu khả thi để phê duyệt và triển khai các bước tiếp theo. Bộ Giao thông vận tải rất mong nhận được sự quan tâm, đồng hành của cử tri cũng như các cấp chính quyền tỉnh Tây Ninh để dự án sớm được khởi công.

70. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị:Cử tri huyện Hoằng Hóa đề nghị Bộ Giao thông vận tải sớm xem xét mở rộng tuyến đường Quốc lộ 10, thuộc tiểu dự án 2, Quốc lộ 1A vì hiện nay, đường hẹp, lưu lượng tham gia giao thông quá đông nên thường xuyên xảy ra ùn tắc.

Trả lời: Tại công văn số 7621/BGTVT-KHĐT ngày 12/7/2018

Đoạn tuyến Quốc lộ 10 từ ngã tư Gòng, thị trấn Bút Sơn đến Quốc lộ 1 [Km225+175-Km227+800] là cửa ngõ vào trung tâm huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, kết nối trung tâm huyện Hoằng Hóa, Khu du lịch Hải Tiến với thành phố Thanh Hóa. Tuyến hiện tại đang được khai thác với quy mô đường cấp IV đồng bằng và đã xuất hiện các hư hỏng cục bộ tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn giao thông, do vậy việc đầu tư nâng cấp, mở rộng đoạn tuyến nêu trên là cần thiết. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn vốn ngân sách được giao cho Bộ GTVT trong giai đoạn 2016-2020 hết sức hạn hẹp, chưa đủ để cân đối cho các nhiệm vụ cần thiết, cấp bách của ngành nên không thể cân đối cho việc đầu tư dự án. Bộ GTVT ghi nhận ý kiến của cử tri tỉnh Thanh Hóa về việc đầu tư cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 10 đoạn từ ngã tư Gòng, thị trấn Bút Sơn đến QL1 [Km225+175-Km227+800], tỉnh Thanh Hóa và sẽ đầu tư khi được Quốc hội, Chính phủ bố trí vốn cho dự án. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường duy tu để đảm bảo khai thác an toàn.

71. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Khu dân cư của các hộ dân sinh sống gần dốc cầu Bình Phú thường xuyên bị ngập nước vào mùa mưa, do khu vực này không có lắp đặt cống thoát nước dọc theo Quốc lộ 1A, có đoạn tuy có lắp cống thoát nước, nhưng không có kết nối vào chỗ xả thải nào”. Đề nghị Bộ Giao thông vận tải tiến hành kiểm tra hệ thống cống thoát nước dọc tuyến Quốc lộ 1A, đoạn qua xã Bình Phú [gần chân cầu Bình Phú và trước Nghĩa trang liệt sỹ huyện Cai Lậy] và có phương án thực hiện đấu nối hoàn thiện để việc đầu tư cống rãnh thoát nước được hiệu quả.

Trả lời: Tại công văn số 8455/BGTVT-KCHT ngày 02/8/2018

Đoạn QL.1 qua xã Bình Phú [gần chân cầu Bình Phú và trước Nghĩa trang Liệt sỹ huyện Cai Lậy] từ Km1996 - Km1997, thuộc Dự án ĐTXDCT mở rộng QL.1 đoạn tránh thị trấn Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang theo hình thức hợp đồng BOT; đoạn Km1994+600 - Km1995 có hệ thống rãnh dọc nhưng chưa được kết nối với cửa xả, nên thường bị ngập nước vào mùa mưa. Cục QLĐB IV thường xuyên kiểm tra, có văn bản nhắc nhở nhà đầu tư BOT nạo vét khơi thông cống rãnh để thoát nước tạm thời. Trong thời gian tới, Bộ GTVT giao Tổng cục ĐBVN phối hợp với Nhà đầu tư rà soát các tồn tại về hệ thống thoát nước để bổ sung vào Hợp đồng dự án BOT.

72. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Kiến nghị Bộ sớm chỉ đạo các đơn vị có liên quan khảo sát, thi công đấu nối hệ thống cống, rãnh thoát nước cặp QL1A đoạn qua địa bàn tỉnh Tiền Giang, nhằm góp phần giảm ứ đọng nước vào mùa mưa, đảm bảo vệ sinh môi trường, an toàn giao thông, và nhất là tăng tuổi thọ sử dụng công trình của mặt đường Quốc lộ 1A, cụ thể:

Đoạn trước cổng trường tiểu học Mỹ Đức Tây A và trước cửa hàng xe Minh Thư thuộc ấp Mỹ Tường thường xuyên bị ngập, ứ đọng nước khi trời mưa, hai bên dốc cầu Mỹ Đức Tây bị hư hỏng nặng, gây nguy hiểm cho học sinh và người đi đường; Đoạn từ An Cư đến Bà Đắc không có cống thoát nước, mưa xuống bị ứ đọng nước gây ách tắc giao thông, dễ gây tai nạn và ảnh hưởng đến đời sống người dân khu vực này; Đoạn từ xã Phước Thạnh đi qua Phường 10 ra sông Bảo Định để nước thoát dễ dàng khi trời mưa.

Trả lời: Tại công văn số 8455/BGTVT-KCHT ngày 02/8/2018

- Đoạn Quốc lộ 1 trước cổng trường tiểu học Mỹ Đức Tây A và trước cửa hàng xe Minh Thư từ Km2015+962 - Km2017+875 hiện chưa có rãnh dọc nên thường xuyên bị ngập, ứ đọng nước khi trời mưa. Hiện tại, Bộ GTVT đang triển khai các thủ tục để đưa danh mục công trình đoạn rãnh nêu trên vào kế hoạch bảo trì hệ thống quốc lộ năm 2019 để xây dựng.

- Đoạn Quốc lộ 1 đoạn từ cầu An Cư đến cầu Bà Đắc [Km2006 - Km2007] thuộc dự án BOT Cai Lậy, hiện chưa có hệ thống thoát nước. Cục QLĐB IV đã thường xuyên kiểm tra, đề nghị nhà đầu tư BOT san gạt lề đường để, khơi thông rãnh xương cá nhằm hạn chế ngập nước mặt đường. Trong thời gian tới, Bộ GTVT giao Tổng cục ĐBVN phối hợp với Nhà đầu tư rà soát các tồn tại về hệ thống thoát nước để bổ sung vào Hợp đồng dự án BOT.

Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang có ý kiến với UBND tỉnh Tiền Giang chỉ đạo các cơ quan chức năng tổ chức xử lý nghiêm tình trạng lấn chiếm lòng đường và hành lang an toàn giao thông đoạn từ cầu An Cư đến cầu Bà Đắc để đảm bảo an toàn giao thông và thoát nước mặt đường.

- Đoạn Quốc lộ 1 đoạn từ xã Phước Thạnh đi qua Phường 10 ra sông Bảo Định từ Km1966+700 - Km1967+000: Cục QLĐB IV đã chỉ đạo đơn vị duy tu bảo dưỡng đường bộ lắp đặt ống thoát nước, hiện tại đã xử lý cơ bản tình trạng ngập nước mặt đường.

73. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Cử tri phản ánh: hiện nay phương tiện lưu thông trên QL1 đang quá tải, thường xuyên xảy ra ùn tắc. Đề nghị Bộ xem xét, đầu tư xây dựng thêm cầu song hành với các cầu hiện hữu: Cầu Bà Lâm, cầu Rạch Miễu, cầu Mỹ Đức Tây để giải quyết tình trạng này như việc đầu tư xây dựng cầu Kinh Sáng tại Long Định.

Trả lời: Tại công văn số 8010/BGTVT-KHĐT ngày 23/7/2018

Bộ GTVT đã phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án mở rộng các cầu trên Quốc lộ 1A, đoạn qua tỉnh Tiền Giang đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ còn dư giai đoạn 2014-2016 của các dự án cải tạo, nâng cấp QL1A và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên [vốn dư lần 3], trong đó có đầu tư xây dựng thêm 01 đơn nguyên song hành với cầu Rạch Miễu. Hiện đang triển khai thủ tục để có thể khởi công xây dựng trong Quý I năm 2019.

Đối với cầu Bà Lâm và cầu Mỹ ĐứcTây, Bộ GTVT đang tổng hợp vào danh mục các dự án đề xuất sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ tiếp tục còn dư giai đoạn 2014-2016 của các dự án cải tạo, nâng cấp QL1A và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định làm cơ sở triển khai thực hiện.

74. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Đề nghị Bộ tiến hành đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước trên Quốc lộ 50, để đảm bảo thoát nước, vệ sinh môi trường và đảm bảo an giao thông cho người tham gia lưu thông, cụ thể:

- Đoạn khu dân cư lộ Thạnh Lạc Đông xã Thạnh Nhựt đến lộ số 6 xã Bình Nhì] để đảm bảo thoát nước vào mùa mưa tránh ứ đọng, làm xuống cấp, hư hỏng mặt đường.

- Đoạn Ô1 Khu 3 Quốc lộ 50 cũ và Quốc lộ 50 mới. Vì, hiện nay chưa có hệ thống thoát nước, nước ứ đọng thường xuyên vào mùa mưa, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe, đi lại của người dân. Đề nghị sớm xem xét thi công cống thoát nước khu vực này.

Trả lời: Tại công văn số 8455/BGTVT-KCHT ngày 02/8/2018

-Đoạn QL.50 từ khu dân cư lộ Thạnh Lạc Đông xã Thạnh Nhựt đến lộ số 6 xã Bình Nhì [Km61 - Km62] và Đoạn Ô1 Khu 3 mới [Km73 - Km74+300] được đầu tư nâng cấp nền mặt đường và xây dựng hệ thống thoát nước dọc, đưa vào sử dụng trong giai đoạn 2010-2013. Khi mới đưa vào sử dụng, không có hiện tượng đọng nước lề. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác, do các tổ chức, cá nhân xây dựng công trình có cốt nền cao hơn mặt đường làm một số vị trí bị đọng nước cục bộ. Tháng 5/2018, Tổng cục ĐBVN đã tổ chức kiểm tra hiện trường để xây dựng kế hoạch bảo trì đường bộ năm 2019, đã đề xuất xây dựng hệ thống thoát nước dọc đoạn Km86+300 - Km86+800 [P] vào kế hoạch bảo trì đường bộ năm 2019; đồng thời yêu cầu Cục QLĐB IV thường xuyên chỉ đạo đơn vị duy tu bảo dưỡng ban gạt lề đường, khơi thông rãnh xương cá, rãnh đất để thoát nước.

Đề nghịĐoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang có ý kiến với UBND tỉnh Tiền Giang về việc cấp đất và san lấp mặt bằng xây dựng công trình dọc QL.50 phải có giải pháp đảm bảo thoát nước mặt đường.

- Đoạn Ô1 Khu 3 Quốc lộ 50 cũ [nội ô thị trấn Chợ Gạo] đã được Ban QLDA 8 làm Chủ đầu tư xây dựng mới hệ thống thoát nước dọc, thảm BTN toàn bộ mặt đường. Hiện nay Bộ GTVT chấp thuận chuyển thành đường địa phương giao cho UBND tỉnh Tiền Giang quản lý tại Quyết định số 1078/QĐ-BGTVT ngày 28/5/2018, Cục QLĐB IV đã bàn giao cho Sở GTVT tỉnh Tiền Giang quản lý từ ngày 30/6/2018. Do đó, đề nghịĐoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang có ý kiến với UBND tỉnh Tiền Giang quan tâm giải quyết ý kiến của cử tri.

75. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Kiến nghị Bộ Giao thông vận tải có kế hoạch duy tu QL1A đoạn đường từ QL50 đến cầu Bến Chùa vì hiện nay đường bị nứt lún, xe lưu thông qua đoạn này rất nguy hiểm và gây tiếng ồn.

Trả lời: Tại công văn số 8455/BGTVT-KCHT ngày 02/8/2018

Trong thời gian qua, mặc dù kinh phí bảo trì còn hạn hẹp nhưng Bộ GTVT đã nỗ lực bố trí kinh phí để sửa chữa những hư hỏng trên đoạn tuyến QL.1 thuộc địa phận tỉnh Tiền Giang, cụ thể như sau:

  • Kế hoạch sửa chữa định kỳ năm 2018: Sửa chữa cục bộ các vị trí mặt đường bị đùn lún, nứt mu rùa Km1954+790 - Km1963+400;Sửa chữa cục bộ bằng tái chế lại phần mặt bị răn nứt, lún; thảm BTN toàn diện mặt đường Km1963+400 - Km1966. Hiện nay các dự án này đang tổ chức đấu thầu.
  • Dự kiến Kế hoạch sửa chữa định kỳ năm 2019: Sửa chữa cục bộ, thảm BTN mặt đường từng đoạn Km1967 - Km1969, Km1977+400 - Km1987+360; Sửa chữa cục bộ bằng tái chế lại phần mặt đường bị rạn nứt, lún; thảm BTN toàn diện mặt đường Km2014 - Km2025+113.
  • Các đoạn còn lại, Bộ GTVT sẽ tiếp tục đưa vào kế hoạch bảo trì năm tiếp theo; Hiện tại, Tổng cục ĐBVN đã yêu cầu Cục QLĐB IV chỉ đạo đơn vị duy tu bảo dưỡng thường xuyên xử lý dặm vá hư hỏng mặt đường đảm bảo an toàn giao thông.

76. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị:Sớm đầu tư nâng cấp mở rộng Quốc lộ 53 đoạn từ thành phố Trà Vinh đến thị xã Duyên Hải để tạo điều kiện lưu thông và vận chuyển hàng hóa được an toàn.

Trả lời: Tại công văn số 8136/BGTVT-KHĐT ngày 25/7/2018

Dự án cải tạo, nâng cấp QL53 đoạn Km67-Km114 [từ thành phố Trà Vinh đến thị xã Duyên Hải] được Bộ GTVT phê duyệt từ năm 2009 với quy mô đường cấp III đồng bằng được đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, tổng mức đầu tư là 1.014 tỷ đồng. Dự án đã khởi công xây dựng từ năm 2010, tuy nhiên phải dừng giãn theo Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ. Để tiếp tục triển khai hoàn thành đầu tư khối lượng còn lại của dự án, Bộ GTVT đã hoàn thiện các thủ tục theo quy định của Luật Đầu tư công để đưa vào danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.

Ngày 12/7/2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua danh mục các dự án đường sắt quan trọng và đường bộ quan trọng, cấp bách sử dụng 15.000 tỷ đồng từ nguồn vốn dự phòng kế hoạch trung hạn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2016-2020 theo Nghị quyết số 52/2017/QH14 của Quốc hội, trong đó đã phân bổ 800 tỷ đồng để đầu tư hoàn thiện QL53 đoạn Km67-Km114. Sau khi có Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo của Chính phủ, Bộ GTVT sẽ khẩn trương hoàn thiện các thủ tục theo quy định để triển khai Dự án này.

77. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Đề nghị Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu phương án đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông [học sinh, phụ huynh] khi băng qua Quốc lộ 1A tại khu vực có nhiều trường tiểu học, mẫu giáo gần cầu Bình Phú.

Trả lời: Tại công văn số 8455/BGTVT-KCHT ngày 02/8/2018

Tại các khu vực trường tiểu học, mẫu giáo dọc trên Quốc lộ 1 đoạn trước cầu Bình Phú Km1996+500 [đoạn thuộc dự án BOT Cai Lậy QL1, tỉnh Tiền Giang] hiện nay đã bố trí đầy đủ hệ thống biển báo, vạch sơn,... theo QCVN41:2016/BGTVT. Đề nghị chính quyền địa phương thường xuyên tuyên truyền cho người dân trong khu vực nâng cao ý thức, thực hiện đúng Luật giao thông đường bộ khi tham gia giao thông nhất là các bậc phụ huynh đưa đón con em đến trường học, đảm bảo an toàn giao thông.

78. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm lắp đặt đèn giao thông thay cho đèn chớp tại đoạn qua Ngã tư Giồng Tre [đường tỉnh ĐT 875B giao với Tuyến tránh thị xã Cai Lậy]. Vì khu vực này thường xuyên có học sinh, người dân qua lại, đến nay đã xảy ra 03 vụ tai nạn giao thông chết người do không có tín hiệu đèn giao thông.

Trả lời: Tại công văn số 8455/BGTVT-KCHT ngày 02/8/2018

Ngã tư Giồng Tre [đường tỉnh ĐT.875B giao với tuyến tránh thị xã Cai Lậy tại Km02+600 - tuyến tránh] thuộc dự án BOT Quốc lộ 1 Cai Lậy tỉnh Tiền Giang đã có lắp đặt đèn chớp vàng cảnh báo. Tuy nhiên, tại nút giao này vẫn xảy ra các vụ tai nạn giao thông như phản ánh. Bộ GTVT sẽ yêu cầu Nhà đầu tư BOT thực hiện việc thay thế đèn cảnh báo bằng đèn tín hiệu giao thông tại nút giao này.

Đề nghị chính quyền địa phương thường xuyên tuyên truyền cho người dân trong khu vực nâng cao ý thức, thực hiện đúng Luật giao thông đường bộ khi tham gia giao thông.

79. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Kiến nghị lắp đặt hệ thống đèn chiếu sáng từ cầu Mỹ Lợi đến UBND xã Tân Trung, thị xã Gò Công, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi tham gia giao thông.

Trả lời: Tại công văn số 8455/BGTVT-KCHT ngày 02/8/2018

Hiện tại nguồn vốn bảo trì đường bộ hàng năm không bố trí kinh phí để lắp đặt và chi phí khai thác hệ thống chiếu sáng trên các quốc lộ. Vừa qua, được sự quan tâm của tỉnh nên Sở GTVT Tiền Giang thực hiện đầu tư lắp đặt hệ thống chiếu sáng đoạn Km47+400 - Km50+500 QL50. Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang có ý kiến với UBND tỉnh Tiền Giang chỉ đạo Sở GTVT tiếp tục nghiên cứu lắp đặt đèn chiếu sáng từ cầu Mỹ Lợi Km36+500 đến UBND xã Tân Trung Km45+200 để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi tham gia giao thông.

80. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:Kiến nghị Bộ xem xét, khảo sát lắp đặt biển báo hạn chế tốc độ trên đoạn đường Quốc lộ 50 từ cầu Mỹ Lợi đến điểm giao tỉnh lộ 873 để đảm bảo an toàn giao thông cho người dân khi lưu thông qua khu vực này.

Trả lời: Tại công văn số 8455/BGTVT-KCHT ngày 02/8/2018

Hiện nay, đoạn tuyến QL.50 từ cầu Mỹ Lợi [Km35+500] đến điểm giao với đường tỉnh 873 [Km38+600] mặt đường đã được cải tạo nâng cấp rộng 11m, thảm BTN êm thuận, bằng phẳng, không có đường cong bán kính nhỏ; hệ thống biển báo đầy đủ, rõ ràng, có bố trí một số đèn cảnh báo cho người tham gia giao thông. Mặt khác đoạn tuyến qua khu vực này với lưu lượng xe còn ít, dân cư thưa nên việc hạn chế tốc độ là chưa cần thiết.

81. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị:Nút giao thông giao nhau giữa Quốc lộ 1A và đường đi xã Duy Thành, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam bố trí không phù hợp [đường gom dẫn từ Quốc lộ 1A đi xã Duy Thành tại vị trí có góc cua lớn, đường nhỏ hẹp] gây nguy hiểm cho người và phương tiện giao thông. Đề nghị Cục Quản lý đường bộ xem xét đầu tư cầu vượt hoặc hầm chui tại nút giao thông này để đảm bảo an toàn giao thông và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Trả lời: Tại công văn số 8343/BGTVT-CQLXD ngày 31/7/2018

Để cải thiện tình trạng mất an toàn giao thông tại vị trí nút giao thông giao nhau giữa Quốc lộ 1A tại Km957+450 với tuyến ĐH5, phía Bắc cầu Bà Rén mới [đường đi xã Duy Thành, huyện Duy Xuyên], Tổng cục Đường bộ Việt Nam đã phê duyệt dự án xử lý điểm đen tại vị trí nút giao bằng giải pháp trồng hộ lan mềm bên trái tuyến tại vị trí nút giao, đồng thời mở đường gom 2 bên để người dân lưu thông được an toàn và dự án đã hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng từ tháng 9/2017. Theo báo cáo của Tổng cục Đường bộ Việt Nam, đến nay phương án xử lý tại nút giao nêu trên đảm bảo phát huy hiệu quả đầu tư, an toàn và thuận lợi trong quá trình khai thác.

Bộ Giao thông vận tải ghi nhận kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Nam về việc đầu tư xây dựng cầu vượt hoặc hầm chui tại vị trí nút giao nêu trên. Tuy nhiên do điều kiện nguồn vốn ngân sách hạn hẹp, Bộ Giao thông vận tải sẽ chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam và các cơ quan chức năng tiếp tục nghiên cứu phương án đầu tư vào thời điểm thích hợp.

82. Cử tri TP Hải Phòng kiến nghị: Những năm vừa qua, Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương đã quan tâm đầu tư hạ tầng giao thông cho thành phố Hải Phòng khá đồng bộ, tạo động lực quan trọng cho sự phát triển không chỉ của thành phố Hải Phòng mà cho cả sự phát triển vùng Duyên hải Bắc Bộ. Tuy nhiên, việc xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao nối Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai vẫn chưa được triển khai thực hiện. Dự án này được thực hiện sẽ tạo động lực phát triển Hành lang kinh tế Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh trên quan điểm hợp tác phát triển “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” Việt Nam - Trung Quốc. Cử tri đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo các Bộ, ngành Trung ương đẩy nhanh tiến độ, sớm đầu tư xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao nối Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai.

Trả lời: Tại công văn số 8888/BGTVT-KHĐT ngày 13/8/2018

Thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2014 của Ban Chấp hành TW Đảng Khóa XI về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, Bộ GTVT đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt Việt Nam [tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/2/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015] theo đó định hướng nghiên cứu đầu tư xây dựng mới tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng dài khoảng 380km, điện khí hóa, khổ 1.435mm; tuyến đường sắt này sẽ kết nối với Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng để đáp ứng nhu cầu vận tải bằng đường sắt trên hành lang Đông - Tây, tạo động lực phát triển và tăng cường kết nối hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Nam - Trung Quốc; đồng thời, quy hoạch cũng đã xác định lộ trình dự kiến nghiên cứu, đầu tư xây dựng tuyến đường sắt này trong giai đoạn sau 2020.

Trường hợp có nhà đầu tư quan tâm để sớm triển khai dự án, Bộ GTVT sẽ phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương có liên quan để nghiên cứu, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Với quy mô dự án lớn, trước mắt để chủ động trong triển khai thực hiện, Bộ GTVT đang chỉ đạo Cục Đường sắt Việt Nam phối hợp với tư vấn hỗ trợ kỹ thuật phía Trung Quốc nghiên cứu lập quy hoạch chi tiết tuyến đường sắt này.

Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng chuyển các ý kiến nêu trên để cử tri được rõ; đồng thời chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan của địa phương phối hợp chặt chẽ với Cục Đường sắt Việt Nam và tư vấn phía Trung Quốc trong quá trình thực hiện dự án hỗ trợ kỹ thuật lập quy hoạch chi tiết tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.

83. Cử tri TP Hải Phòng kiến nghị: Cử tri đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành hỗ trợ nguồn vốn để Hải Phòng triển khai Dự án Nhà ga hành khách thứ 2 tại cảng hàng không quốc tế Cát Bi và Dự án tuyến đường nối Quốc lộ 5 với Quốc lộ 10 kéo dài từ quấn Kiến An đến huyện Vĩnh Bảo [thành phố Hải Phòng]. Đây là tuyến đường huyết mạch góp phần giải phóng hàng hóa, hành khách qua cảng biển Hải Phòng, cảng hàng không quốc tế Cát Bi, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía nói chung và thành phố Hải Phòng nói riêng.

Trả lời: Tại công văn số 9122 /BGTVT-KHĐT ngày 17/8/2018

  1. Đối với Dự án Nhà ga hành khách thứ 2 tại cảng hàng không quốc tế Cát Bi

Trong kế hoạch đầu tư 2018, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam [ACV] đã đưa Dự án đầu tư nhà ga hành khách số 2 CHKQT Cát Bi với công suất 5 triệu hành khách/năm; nâng cấp mở rộng sân đỗ máy bay; cải tạo dây chuyền khai thác, lắp bổ sung cầu hành khách cho nhà ga T1; xây dựng nhà ga hàng hóa vào kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2018, đáp ứng quy hoạch đến năm 2030. Hiện nay, ACV đang tuyển tư vấn lập Báo cáo nghiên cứu khả thi. Dự kiến, thời gian thiết kế và đấu thầu khoảng 12-14 tháng, khởi công dự kiến vào quý 3/2019 và hoàn thành vào quý 4/2020.

Ngày 11/6/2018, ACV đã có văn bản số 218/TCTCHKVN-HĐQT đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng chỉ đạo các cơ quan hữu quan phối hợp với ACV xác định diện tích và lên kế hoạch thực hiện giải phóng mặt bằng song song với thời gian ACV chuẩn bị đầu tư dự án. Bộ GTVT rất mong nhận được sự hỗ trợ của Ủy ban nhân dân [UBND] thành phố Hải Phòng trong quá trình thực hiện dự án.

Ngoài ra, để đảm bảo dây chuyền khai thác đồng bộ, đảm bảo an ninh an toàn trong khai thác, ACV đã xây dựng kế hoạch, chuẩn bị vốn hơn 1.000 tỷ đồng để sửa chữa đường cất hạ cánh cũ thành đường lăn song song trường hợp ngân sách nhà nước không bố trí được.

  1. Đối với Dự án tuyến đường nối Quốc lộ 5 với Quốc lộ 10 kéo dài

Tuyến đường nối Quốc lộ 5 với Quốc lộ 10 là công trình do UBND thành phố Hải Phòng quản lý đầu tư. Do vai trò quan trọng của tuyến đường, Bộ GTVT ủng hộ sự cần thiết đầu tư để sớm đưa công trình vào khai thác. Đề nghị UBND thành phố Hải Phòng huy động các nguồn vốn hợp pháp để đầu tư và thông báo đến cử tri được biết và tiến độ thực hiện.

84. Cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị cần giám sát chặt chẽ việc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ liên quan đến chủ trương mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất. Cử tri đề nghị cần sớm thu hồi đất Dự án sân Golf trong sân bay Tân Sơn Nhất để mở rộng sân bay.

Trả lời: Tại công văn số 9490/BGTVT-KHĐT ngày 24/8/2018

Ngày 28/3/2018, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì cuộc họp Thường trực Chính phủ với sự tham gia của Lãnh đạo các Bộ và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để nghe Công ty Tư vấn ADP-I [Cộng hòa Pháp] báo cáo kết quả nghiên cứu, rà soát phương án mở rộng CHKQT Tân Sơn Nhất. Trên cơ sở báo cáo và kiến nghị của Tư vấn ADP-I, ý kiến tham gia của các đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ GTVT, UBND thành phố Hồ Chí Minh, Cục Hàng không Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã “đồng ý lựa chọn phương án do Công ty Tư vấn ADP-I đề xuất, cụ thể là thực hiện điều chỉnh Quy hoạch mở rộng, đầu tư và xây dựng mới một nhà ga hành khách hiện đại, đồng bộ và đạt tiêu chuẩn quốc tế tại khu vực phía Nam để đáp ứng yêu cầu phục vụ đạt 20 triệu hành khách/năm, nâng công suất khai thác Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển bằng đường hàng không, đảm bảo tối thiểu đạt 50 triệu hành khách/năm; đồng thời chuẩn bị đầu tư xây dựng nhà ga hàng hóa, sân đỗ tàu bay, khu bảo dưỡng phương tiện, thiết bị và các công trình phục vụ cho hoạt động hàng không tại khu vực Bắc Cảng hàng không – Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất [nơi có vị trí sân Golf hiện tại]”; đồng thời giao Bộ GTVT “chỉ đạo Công ty Tư vấn ADP-I tiếp tục phối hợp với Công ty Thiết kế và Tư vấn xây dựng công trình hàng không [Công ty Tư vấn ADCC] hoàn thiện phương án điều chỉnh Quy hoạch, đảm bảo hiệu quả nhất, đặc biệt là việc sử dụng đất cả về phía Nam và phía Bắc; đồng thời phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu, tính toán cụ thể, đề xuất các giải pháp khả thi nhằm giảm ùn tắc giao thông tại khu vực bên ngoài Cảng hàng không – Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất”.

Hiện nay, Công ty Tư vấn ADCC đang hoàn chỉnh Quy hoạch chi tiết Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất trên cơ sở ý kiến tham gia của các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Dự kiến, trong tuần tới Bộ GTVT sẽ tổ chức họp Hội đồng thẩm định với sự tham gia của các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để thẩm định và phê duyệt.

Theo Quy hoạch chi tiết được lấy ý kiến và đang hoàn thiện, toàn bộ sân Golf sẽ được đưa vào quy hoạch để đầu tư mở rộng các công trình dịch vụ kỹ thuật hàng không như: ga hàng hoá, khu logistics, suất ăn, hangar, xăng dầu hàng không, hồ điều hoà và cây xanh. Việc xây dựng công trình trên khu đất sân golf sẽ được Bộ GTVT tổ chức kêu gọi đầu tư theo hình thức xã hội hóa và tiến hành đền bù giải phóng mặt bằng theo đúng quy định của pháp luật.

85. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị sớm triển khai tuyến tránh thành phố Long Xuyên để vừa phát triển kinh tế các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với Campuchia vừa đảm bảo quốc phòng - an ninh.

Trả lời: Tại công văn số 9102/BGTVT-KHĐT ngày 16/8/2018

Dự án Tuyến nối QL91 và tuyến tránh thành phố Long Xuyên được Bộ Giao GTVT phê duyệt tại Quyết định số 1461/QĐ-BGTVT ngày 05/7/2011, là dự án thành phần nằm trong tổng thể Dự án Kết nối khu vực trung tâm đồng bằng MêKông. Tuy nhiên tại thời điểm đó không đủ nguồn vốn nên chưa thực hiện.

Trong quá trình thực hiện Dự án Kết nối khu vực trung tâm đồng bằng MêKông, trên cơ sở nguồn vốn dư sau đấu thầu [khoảng 91,9 triệu USD vốn vay OCR của ADB], Bộ GTVT đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án Tuyến nối Quốc lộ 91 và tuyến tránh thành phố Long Xuyên tại Quyết định số 612/QĐ-TTg ngày 5/5/2017 với Tổng mức đầu tư khoảng 2.110 tỷ đồng.

Đến nay, Bộ GTVT đã hoàn thành công tác lập, thẩm định Dự án đầu tư, tuy nhiên do Dự án chưa nằm trong danh mục đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 nên chưa đủ điều kiện để phê duyệt. Bộ GTVT đã có Văn bản số 4861/BGTVT-KHĐT ngày 10/5/2018 gửi Thủ tướng Chính phủ về phương án điều hòa, điều chỉnh sử dụng 10% vốn dự phòng kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016-2020 cho các dự án ODA của Bộ GTVT, trong đó đã kiến nghị bổ sung Dự án vào danh mục kế hoạch đầu tư công trung hạn của Bộ, đồng thời kiến nghị bố trí 2.093 tỷ đồng vốn ODA và 15,93 tỷ đồng vốn đối ứng cho Dự án từ nguồn dự phòng kế hoạch đầu tư công trung hạn của Bộ GTVT.

Ngoài ra, Bộ GTVT đã có văn bản số 6747/BGTVT-KHĐT ngày 22/6/2018 gửi Thủ tướng Chính phủ báo cáo về tình hình triển khai thực hiện và kiến nghị đối với Dự án Tuyến nối QL91 và tuyến tránh thành phố Long Xuyên, trong đó kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tách Dự án tuyến nối Quốc lộ 91 và tuyến tránh thành phố Long Xuyên để Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội chấp thuận bổ sung riêng Dự án này vào danh mục kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 của Bộ GTVT với mức vốn là 2.093 tỷ đồng vốn ODA và 15,93 tỷ đồng vốn đối ứng theo đúng Nghị quyết 26/2016/QH14 của Quốc hội và theo quy định của Luật Đầu tư công.

Sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội chấp thuận, Thủ tướng Chính phủ giao kế hoạch trung hạn, Bộ GTVT sẽ khẩn trương hoàn thiện các thủ tục theo quy định, phê duyệt Dự án để triển khai thực hiện.

86. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị nâng cấp Quốc lộ 91C, vì hiện nay lưu lượng xe vận chuyển hàng hóa giao thương với nước bạn Campuchia ngày càng nhiều, trong khi đó đường hẹp, tải trọng thấp dễ gây tai nạn giao thông.

Trả lời: Tại công văn số 8000/BGTVT-KHĐT ngày 23/7/2018

Bộ GTVT đã triển khai lập chủ trương đầu tư và thực hiện các thủ tục thẩm định nguồn vốn theo quy định của Luật Đầu tư công đối với Dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 91C, tỉnh An Giang. Tuy nhiên, do nguồn vốn đầu tư công trung hạn 2016 - 2020 giao cho Bộ GTVT rất hạn chế, không thể cân đối bố trí cho Dự án này. Bộ GTVT sẽ tiếp tục báo cáo Thủ tướng Chính phủ bổ sung nguồn vốn dự phòng của Chính phủ giai đoạn 2016-2020 để hoàn thành các công trình dở dang và triển khai một số công trình quan trọng, cấp bách của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Khi được bổ sung nguồn vốn, Bộ GTVT sẽ xem xét đến việc đầu tư một số dự án quốc lộ quan trọng trên địa phận tỉnh An Giang, trong đó có tuyến Quốc lộ 91C. Trước mắt, Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác kiểm tra, duy tu, sửa chữa để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông trên tuyến.

87. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri tiếp tục bức xúc kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các chủ đầu tư, nhà thầu, đơn vị thi công, nhất là đối với các tuyến đường thực hiện theo phương thức BOT khẩn trương tích cực sửa chữa, khắc phục hư hỏng tuyến Quốc lộ 1 [trong đó có đoạn đi qua các huyện Phù Mỹ, An Nhơn của tỉnh Bình Định] theo trách nhiệm bảo hành đối với các đoạn của dự án mở rộng, nâng cấp, tuy mới đưa vào sử dụng đã xuống cấp, hư hỏng nặng.

Trả lời: Tại công văn số 9183/BGTVT-CQLXD ngày 20/8/2018

Các dự án nâng cấp mở rộng QL1A đoạn qua tỉnh Bình Định đã hoàn thành thông xe vào ngày 14/10/2015. Sau thông xe, tuyến đường đã trải qua các mùa mưa lũ lớn và kéo dài vào các năm 2016 và 2017 gây ra tình trạng nhiều đoạn đường bị ngập liên tục. Việc khai thác công trình với mật độ, lưu lượng, tải trọng lớn trên tuyến trong điều kiện mưa, lũ ngập lụt đã gây nên tình trạng hư hỏng mặt đường [bao gồm cả những đoạn đã đầu tư nâng cấp từ trước].

Do địa bàn tỉnh Bình Định nằm trong vùng có biến đổi khí hậu đặc biệt, cần có giải pháp để tăng cường ứng phó đảm bảo bền vững công trình, Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại Văn bản số 430/TTg-CN ngày 27/3/2017 về việc khắc phục hậu quả bão lũ đối với dự án quốc lộ 1 đoạn qua các tỉnh từ Bình Định đến Khánh Hòa.

Ngày 14/8/2018, Bộ GTVT đã tổ chức cuộc họp giải quyết các tồn tại, vướng mắc liên quan đến kiến nghị của địa phương, cử tri trên tuyến Quốc lộ 1, theo đó Bộ GTVT yêu cầu:

- Các Ban QLDA, Nhà đầu tư, Nhà thầu thi công thực hiện nghĩa vụ bảo hành, hoàn thành công tác khắc phục, sửa chữa hư hỏng mặt đường trong tháng 8/2018, đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến.

- Về giải pháp tăng cường mặt đường cho phù hợp điều kiện khí hậu trong khu vực, theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 430/TTg-CN ngày 27/3/2017: Bộ GTVT đang tiếp tục chỉ đạo và kiểm tra công tác sửa chữa khắc phục, đồng thời triển khai các biện pháp phù hợp để tăng cường khả năng chịu tác động của thời tiết và các yếu tố liên quan, nhằm đảm bảo an toàn cho công trình do ảnh hưởng của những điều kiện khí hậu, thời tiết bất thường của khu vực Miền Trung nói chung và khu vực Bình Định nói riêng cũng như đảm bảo hiệu quả khai thác lâu dài của công trình.

+ Đối với dự án TPCP: Bộ GTVT đã phê duyệt Hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công, dự toán, kết quả lựa chọn nhà thầu đối với hạng mục khắc phục hậu quả bão lũ, tăng cường kết cấu áo đường, Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh đang tiến hành thương thảo ký kết Hợp đồng với nhà thầu thi công; dự kiến triển khai thi công vào tháng 8/2018. Tuy nhiên, liên quan đến kế hoạch vốn bố trí cho dự án, sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuậnkéo dài thời gian giải ngân kế hoạch đầu tư công năm 2016 sang năm 2018, Bộ GTVT sẽ tập trung triển khai ngay công tác khắc phục hậu quả bão lũ, tăng cường kết cấu áo đường, đảm bảo hoàn thành trong năm 2018.

+ Đối với các Dự án BOT Bắc Bình Định đoạn Km1125 – Km1153 và BOT Nam Bình Định đoạn Km1212+400 – Km1265: Bộ GTVT đã chỉ đạo Ban QLDA, các Nhà đầu tư, Tư vấn khẩn trương hoàn chỉnh hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công khắc phục hậu quả bão lũ và tăng cường kết cấu áo đường, thẩm định, phê duyệt, hoàn chỉnh các thủ tục cần thiết để triển khai thi công khi điều kiện thời tiết thuận lợi, dự kiến đầu tháng 8/2018.

88. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Đề nghị phối hợp với Bộ Công an tăng cường kiểm soát xe quá khổ, quá tải, xử lý nghiêm các vi phạm.

Trả lời: Tại công văn số 9277/BGTVT-ATGT ngày 21/8/2018

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh tình trạng phương tiện vận tải đường bộ vi phạm chở hàng quá tải trọng và tăng cường kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ [tại các Công điện số 95/CĐ-TTg ngày 10 tháng 01 năm 2013, số 1966/CĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2013], ngày 21 tháng 11 năm 2013, liên Bộ Công an - Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Kế hoạch liên ngành số 12593/KHPH-BGTVT-BCA về phối hợp thực hiện kiểm soát, xử lý vi phạm chở hàng vượt quá tải trọng của xe ô tô; kế hoạch được thực hiện đồng loạt trên toàn quốc từ ngày 01 tháng 4 năm 2014.

Sau hơn 02 năm thực hiện, ngày 30 tháng 8 năm 2016 hai Bộ đã tổ chức Hội nghị tổng kết Kế hoạch số 12593/KHPH-BGTVT-BCA. Tại Hội nghị này, hai Bộ đánh giá kết quả triển khai thực hiện, cơ bản đã đạt được mục tiêu, yêu cầu của Kế hoạch số 12593/KHPH-BGTVT-BCA đề ra, vi phạm quá tải trọng đã giảm trên 92%, ý thức của người tham gia giao thông và các cơ quan quản lý về vận tải đường bộ đã được nâng cao. Vì vậy, hai Bộ thống nhất kết thúc thực hiện Kế hoạch liên ngành số 12593/KHPH-BGTVT-BCA và thống nhất chủ trương chỉ đạo lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông triển khai công tác kiểm soát tải trọng xe trong thời gian sau đó theo đúng chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng được pháp luật quy định. Như vậy, lực lượng Cảnh sát giao thông tăng cường tuần tra, kiểm soát lưu động để phát hiện, xử lý các vi phạm về tải trọng xe trên các tuyến giao thông; lực lượng Thanh tra giao thông tập trung kiểm soát tải trọng xe tại nơi xuất phát, các điểm tập kết hàng hóa, kho cảng, bến bãi, nhà ga, mỏ vật liệu và tại các điểm đặt thiết bị cân kiểm tra tải trọng xe trên đường bộ do ngành giao thông vận tải quản lý.

Để cụ thể hóa chủ trương trên, ngày 25 tháng 11 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg về tăng cường công tác kiểm soát tải trọng pương tiện giao thông [Chỉ thị số 32/CT-TTg], công tác phối hợp giữa các lực lượng chức năng của 02 ngành [công an và giao thông] trong công tác kiểm soát tải trọng xe vẫn được triển khai thực hiện; tuy nhiên phương thức, nội dung phối hợp có sự thay đổi so với kế hoạch số 12593/KHPH-BGTVT-BCA nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các lực lượng và phù hợp với tình hình thực tiễn; theo đó, các lực lượng cảnh sát cơ động, cảnh sát trật tự vẫn thường xuyên tham gia phối hợp với các lực lượng chức năng của ngành giao thông trong công tác bảo đảm an ninh trật tự tại các trạm kiểm soát tải trọng xe hoặc khi được yêu cầu; công tác phối hợp liên ngành giữa lực lượng Thanh tra giao thông và Cảnh sát giao thông để xử lý xe quá khổ, quá tải do địa phương tự quyết định trên cơ sở diễn biến thực tế xe qua tải tham giao thông trên địa bàn.

Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông 6 tháng đầu năm 2018, các đơn vị chức năng đã sơ kết 02 năm thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TTg. Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tại Hội nghị nêu trên [theo Thông báo số 242/TB-VPCP ngày 12 tháng 7 năm 2018], Bộ Giao thông vận tải đã ban hành văn bản số 8073/BGTVT-ATGT ngày 24 tháng 7 năm 2018, theo đó đã chỉ đạo lực lượng thanh tra giao thông tăng cường phối hợp với các lực lượng ngành Công an tiếp tục đẩy mạnh và triển khai có hiệu quả công tác kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định.

89. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Rà soát, tổ chức, sắp xếp lại, hiện đại hóa hệ thống gác chắn đường ngang với đường sắt; phối hợp với các địa phương giải quyết dứt điểm các điểm có nguy cơ gây mất an toàn giao thông, nhất là tại các nút giao cắt giữa đường sắt và đường ngang dân sinh.

Trả lời: Tại công văn số 9253/BGTVT-KCHT ngày 20/8/2018

1. Về rà soát, tổ chức, sắp xếp lại, hiện đại hóa hệ thống gác chắn đường ngang với đường sắt:

- Theo quy hoạch chi tiết xây dựng hệ thống giao cắt giữa đường sắt với đường bộ trên mạng đường sắt Việt Nam, trên địa bàn tỉnh Bình Định có 66 đường ngang, trong đó 22 đường ngang phòng vệ có người gác; 21 đường ngang phòng vệ cảnh báo tự động có cần chắn tự động; 23 đường ngang phòng vệ bằng biển báo.

- Đối với đường ngang có người gác, camera giám sát và động cơ điện cho hệ thống dàn chắn, dàn chắn đã được lắp đặt nhằm giám sát trình trạng đường ngang và hỗ trợ cho nhân viên gác chắn; đường ngang phòng vệ cảnh báo tự động đã được lắp đặt bổ sung cần chắn tự động, camera giám sát kết nối nhằm đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông;

- Đối với đường ngang phòng vệ bằng biển báo, Chính phủ đã có Công văn số 1024/VPCP-CN ngày 27/01/2018, chấp thuận đầu tư nâng cấp 452 đường ngang biển báo trên mạng đường sắt quốc gia thành đường ngang cảnh báo tự động có lắp đặt cần chắn tự động. Theo kế hoạch năm 2018 trên địa bàn tỉnh Bình Định có 06 đường ngang biển báo được nâng cấp thành đường ngang cảnh báo tự động có lắp đặt cần chắn tự động. Số đường ngang biển báo còn lại sẽ được tiếp tục đầu tư nâng cấp thành đường ngang cảnh báo tự động trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2020.

- Bộ GTVT đã có hướng dẫn tạo êm thuận cho lối đi tự mở, quy cách xây dựng gờ, gồ giảm tốc tại các đường ngang, lối đi tự mở và đã đề nghị danh mục thứ tự ưu tiên xây dựng gồ, gờ giảm tốc. Đề nghị UBND tỉnh Bình Định chỉ đạo các đơn vị liên quan tiếp tục thực hiện nhàm dảm bảo ATGT đường sắt.

2. Về nội dung phối hợp với các địa phương giải quyết dứt điểm các điểm có nguy cơ gây mất an toàn giao thông, nhất là tại các nút giao cắt giữa đường sắt và đường ngang dân sinh:

- Theo báo cáo của Cục ĐSVN trên địa bàn tỉnh Bình Định đang tồn tại 153 lối đi tự mở, trong đó có 39 vị trí nguy hiểm đối với ATGT đường sắt [địa phương mới chỉ tổ chức cảnh giới tại 03/07 vị trí cần cảnh giới].

- Bộ GTVT đã chỉ đạo Cục ĐSVN, Tổng công ty ĐSVN thường xuyên phối hợp, làm việc với Ban ATGT các tỉnh để tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông tại các đường ngang và lối đi tự mở. Theo đó đã phối hợp với Ban ATGT tỉnh Bình Định lập hồ sơ quản lý 153 lối đi tự mở; kiềm chế không phát sinh mới lối đi tự mở; bố trí cảnh giới tại 03 lối đi tự mở nguy hiểm; tạo êm thuận đường bộ tại đường ngang; phát quang đảm bảo tầm nhìn tại khu vực đường ngang.

- Đề nghị UBND tỉnh Bình Định tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan chủ trì giải tỏa các công trình che khuất tầm nhìn, bổ sung biển báo, gờ, gồ giảm tốc tại các đường ngang, lối đi tự mở thuộc địa phận quản lý của cơ quan quản lý đường bộ địa phương; tiếp tục tổ chức cảnh giới tại 07 vị trí nguy hiểm đến ATGT đường sắt; thực hiện kết nối tín hiệu tại 02 đường ngang Km1003+200 tuyến đường sắt Hà Nội – Tp. Hồ Chí Minh và Km9+406 tuyến đường sắt Diêu Trì – Quy Nhơn; tổ chức thực hiện kiềm chế, không phát sinh lối đi tự mở, thu hẹp bề rộng, xây dựng đường gom, xóa bỏ lối đi tự mở trên địa bàn theo đúng lộ trình quy định tại Nghị định số 65/2018/NĐ-CP ngày 12/5/2018 của Chính phủ.

90. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ trưởng Bộ GTVT quan tâm sớm đề nghị Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương chấm dứt hoạt động, di dời tuyến đường sắt Diêu Trì – Quy Nhơn và ga Quy Nhơn; bàn giao mặt bằng ga Quy Nhơn và đoạn đường sắt Diêu Trì – Quy Nhơn cho tỉnh Bình Định quản lý, sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo quy hoạch chung của tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 495/QĐ-TTg ngày 14/4/2015 về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Quy Nhơn và vùng phụ cận đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2050.

Trả lời: Tại công văn số 9417/BGTVT-KCHT ngày 23/8/2018

1. Theo đề nghị của UBND tỉnh Bình Định về việc chấm dứt hoạt động của tuyến Diêu Trì – Quy Nhơn, ga Quy Nhơn, Bộ GTVT đã có các buổi làm việc với UBND tỉnh Bình Định và đã ra thông báo kết luận tại Thông báo số 49/TB-BGTVT ngày 13/02/2012, Thông báo số 924/TB-BGTVT ngày 23/10/2015 và Thông báo số523/TBB-BGTVT ngày 01/3/2016 của Bộ GTVT và đã giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị liên quan triển khai, thực hiện.

2. Hiện tại, Luật Đường sắt năm 2017, Nghị định số 46/2018/NĐ-CP ngày 14/3/2018 Quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, Nghị định số 56/2018/NĐ-CP ngày 16/4/2018 Quy định về quản lý, bảo vệ kết cấu hạ tầng đường sắt đã có hiệu lực, quy định rõ phương án tháo dỡ, xử lý tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, Bộ GTVT sẽ phối hợp với UBND tỉnh Bình Định, Bộ Tài chính khẩn trương xây dựng phương án xử lý tháo dỡ tuyến đường sắt Diêu Trì – Quy Nhơn và ga Quy Nhơn để sớm trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, chấp thuận theo quy định.

91. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri mong muốn Chính phủ chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính sớm có phương án trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung vốn dự phòng đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 cho dự án đường Quốc lộ 19 từ Cảng Quy Nhơn đến giao Quốc lộ 1 để sớm hoàn thành công trình đưa vào sử dụng, tránh lãng phí; đồng thời góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường vì hiện nay các phương tiện vào Cảng Quy Nhơn đều phải đi vào nội thành.

Trả lời: Tại công văn số 8994/BGTVT-KHĐT ngày 15/8/2018

Dự án Quốc lộ 19 đoạn từ cảng Quy Nhơn đến giao Quốc lộ 1 [QL1], dài 17 km, tổng mức đầu tư khoảng 5.300 tỷ đồng, phân kỳ đầu tư theo 3 giai đoạn và được Thủ tướng Chính phủ giao UBND tỉnh Bình Định là cấp quyết định đầu tư và thực hiện theo cơ chế 70% nguồn vốn ngân sách Trung ương và 30% ngân sách địa phương đối với tổng mức đầu tư giai đoạn I của dự án. Trong quá trình triển khai, theo đề nghị của UBND tỉnh Bình Định, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản số 1186/TTg-KTTH ngày 24/7/2015, cho phép điều chỉnh phân kỳ đầu tư dự án từ 3 giai đoạn thành 2 giai đoạn và thực hiện theo cơ chế 70% nguồn vốn ngân sách Trung ương và 30% ngân sách địa phương đối với toàn bộ dự án, đồng thời giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư [Bộ KH&ĐT] chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ GTVT bố trí phần vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ cho dự án trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016 - 2020 của Bộ GTVT, đồng thời tổng hợp dự án vào danh mục sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ [TPCP] vào giai đoạn 2016 - 2020 khi có chủ trương phát hành trái phiếu của cấp có thẩm quyền.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã tổng hợp một phần vốn của dự án vào danh mục các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước [NSNN] giai đoạn 2016 - 2020 tại văn bản số 1907/BGTVT-KHĐT ngày 24/02/2016 gửi Bộ KH&ĐT để trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, nguồn vốn NSNN giai đoạn 2016 - 2020 của Bộ GTVT chỉ đủ để trả nợ đọng xây dựng cơ bản, hoàn ứng trước kế hoạch và đáp ứng một phần vốn đối ứng các dự án ODA... Trong khi đó nguồn vốn TPCP giai đoạn 2016 - 2020 của Bộ GTVT được ưu tiên bố trí cho các dự án đường cao tốc Bắc Nam [phía Đông]. Vì vậy, việc bố trí vốn cho dự án từ nguồn NSNN, TPCP của Bộ GTVT là không thể thực hiện được.

Ngày 27/6/2018, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản số 6065/VPCP-KTTH về việc xử lý đề nghị của UBND tỉnh Bình Định, theo đó thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng tiêu chí, đề xuất danh mục dự án cấp bách sử dụng khoản vốn thu hồi từ dự án chống ngập thành phố Hồ Chí Minh, trong đó xem xét ưu tiên hỗ trợ một phần kinh phí cho Dự án tuyến đường Quốc lộ 19, đoạn từ cảng Quy Nhơn đến giao Quốc lộ 1, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xem xét, giải quyết.

92. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Hiện nay, hệ thống giao thông tỉnh Cao Bằng chỉ có duy nhất một loại hình giao thông là đường bộ, phần lớn đi qua địa hình đèo, dốc, khó khăn cho hoạt động đi lại và vận tải hàng hóa; hoạt động thông thương phát triển kinh tế ngày càng tăng trong khi hệ thống đường bộ chưa đảm bảo dễ dẫn đến tai nạn giao thông nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Do vậy, cử tri Cao Bằng tiếp tục đề nghị Trung ương, Chính phủ quan tâm xem xét, sớm đầu tư xây dựng Quốc lộ 3 mới từ Bắc Kạn - Cao Bằng, tránh 04 đèo: đèo Giàng, đèo Gió, đèo Cao Bắc, đèo Tài Hồ Sìn; nâng cấp toàn tuyến quốc lộ 4A, quốc lộ 34, quốc lộ 34B để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và du lịch của tỉnh Cao Bằng và các tỉnh lân cận.

Trả lời: Tại công văn số 9447/BGTVT-KHĐT ngày 24/8/2018

Bộ GTVT thống nhất với các kiến nghị nêu trên của cư tri Cao Bằng việc đầu tư các tuyến quốc lộ trên địa bàn tỉnh Cao Bằng là rất cần thiết. Các dự án này, Bộ GTVT đã đưa vào kế hoạch trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, nguồn vốn đã bố trí giai đoạn này hết sức khó khăn, không thể bố trí cho các dự án này được. Bộ GTVT sẽ xem xét đầu tư vào giai đoạn sau năm 2020, khi Quốc hội, Chính phủ có chủ trương bố trí vốn cho Dự án. Trước mắt, Tổng cục Đường bộ Việt Nam bố trí từ nguồn vốn bảo trì đường bộ để thực hiện công tác bảo trì, đảm bảo giao thông êm thuận.

93. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Tuyến đường từ xã Tân Khai đến xã Tân Quan, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước trước đây các xe tải chở vật liệu xây dựng để thi công tuyến đường Hồ Chí Minh đi lại nhiều nên hiện tại đã bị hư hỏng nghiệm trọng, các phương tiện giao thông qua lại rất khó khăn và dễ xảy ra tai nạn, đây lại là tuyến đường giao thông chính của nhân dân các xã trong khu vực. Đề nghị Bộ Giao thông Vận tải quan tâm sớm có kế hoạch triển khai sửa chữa lại đường cho nhân dân lưu thông qua lại được thuận tiện.

Trả lời: Tại công văn số 9610/BGTVT-CQLXD ngày 28/8/2018

Dự án Đường Hồ Chí Minh đoạn qua tỉnh Bình Phước đã hoàn thành và Hội đông Nghiệm thu Nhà nước các công trình xây dựng nghiệm thu cho phép đưa vào sử dụng từ tháng 6/2015, theo báo cáo của Ban QLDA Đường Hồ Chí Minh [đơn vị trực tiếp quản lý thực hiện dự án]: Trong quá trình thi công các dự án thành phần đường Hồ Chí Minh qua tỉnh Bình Phước, các nhà thầu không sử dụng tuyến đường từ xã Tân Khai đến xã Tân Quan, huyện Hớn Quản.

Ngày 13/7/2017, Thủ tướng Chính phủ đã có Văn bản số 1024/TTg-CN về chủ trương cải tạo, sửa chữa các tuyến đường địa phương kết nối với đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên và Bình Phước. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ GTVT cùng các địa phương liên quan thực hiện cải tạo, sửa chữa các tuyến đường kết nối đã bị xuống cấp do ảnh hưởng của việc thi công đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên và Bình Phước như kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Văn bản số 4444/BKHĐT-KCHTĐT ngày 02/6/2017.

Về việc lựa chọn tuyến đường kết nối để đầu tư theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tại Văn bản số 2816/UBND-KT ngày 18/8/2018 UBND tỉnh Bình Phước không đề nghị tuyến đường nêu trên trong danh mục cải tạo sửa chữa các tuyến đường địa phương kết nối với đường Hồ Chí Minh. Để có cơ sở xác định việc sửa chữa tuyến đường xã Tân Khai đến xã Tân Quan, huyện Hớn Quản, đề nghị UBND tỉnh Bình Phước chỉ đạo các cơ quan chức năng của Tỉnh, chính quyền địa phương phối hợp với Bộ GTVT kiểm tra, rà soát nguồn vốn, quy mô, tiêu chí,...theo hướng dẫn tại Văn bản số 4444/BKHĐT-KCHTĐT ngày 02/6/2017 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư để triển khai các bước tiếp theo tuân thủ quy định. Lưu ý xem xét lại việc cải tạo sửa chữa các tuyến đường vào mỏ đá, có thể tuyến đường bị hư hỏng do vận chuyên vật liệu phục vụ thi công đường Hồ Chí Minh nhưng không nằm trong biện pháp tổ chức thi công của dự án. Nếu do vận chuyên vật liệu từ mỏ đất, mỏ đá của doanh nghiệp địa phương thì trách nhiệm đầu tư của doanh nghiệp, đơn vị khai thác thì kiên quyết không sử dụng vốn nhà nước để đầu tư theo ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

94. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Bộ Giao thông vận tải sớm có giải pháp mở đường dân sinh tại một số đoạn có đường cao tốc Long Thành – Dầu Giây đi qua, Vì hiện tại, người dân sống hai bên đường cao tốc khi đi vào khu sản xuất nông nghiệp phải cắt rào để lưu thông gây mất an toàn giao thong.

Trả lời: Tại công văn số 9427/BGTVT-KCHT ngày 23/8/2018

- Dự án đường cao tốc Tp. Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây được khởi công từ tháng 10/2009 và hoàn thành, đưa vào khai thác từ tháng 02/2015, đồng thời, thời hạn khoản vay để thực hiện dự án theo Khoản vay 2451/VIE đã kết thúc vào 30/6/2016.

- Trong quá trình khảo sát, lập dự án, Bộ GTVT đã chỉ đạo cơ quan liên quan thỏa thuận với địa phương về đầu tư xây dựng hệ thống đường gom dân sinh dọc tuyến, đồng thời đã tiếp tục chấp thuận bổ sung đường gom dân sinh, mương thoát lũ theo kiến nghị của UBND tỉnh Đồng Nai tại các Văn bản số: 6626/UBND-ĐT ngày 21/7/2014, số 11726/UBND-ĐT ngày 17/12/2014 [Quyết định số 5097/QĐ-BGTVT ngày 31/12/2014, Công văn số 6137/BGTVT-KHĐT ngày 28/5/2014, số 10350/BGTVT-KHĐT ngày 20/8/2014 của Bộ GTVT]. Hệ thống đường gom dân sinh đã được đầu tư và hoàn thành đồng bộ trong thời gian đầu tư xây dựng dự án [trước 30/6/2016].

- Ngày 15/11/2016, Bộ GTVT có Văn bản số 13561/BGTVT-KHĐT trong đó có ý kiến về thời hạn Khoản vay 2451/VIE cho dự án kết thúc vào 30/6/2016.

- Sau thời điểm kết thúc dự án thực hiện theo Khoản vay 2451/VIE [30/6/2016], UBND tỉnh Đồng Nai đã có các Công văn số: số 7488/UBND-ĐT ngày 23/8/2016 , số 11021/UBND-ĐT ngày 17/11/2016 tiếp tục đề nghị bổ sung đường gom dân sinh, mương thoát lũ, Bộ GTVT đã có Công văn số 14990/BGTVT-KHĐT ngày 15/12/2016 nêu rõ Hiệp định vay 2451/VIE đã hết hạn, việc bổ sung thêm đường gom dân sinh, mương thoát lũ vào dự án là không phù hợp.

- Đến nay, Dự án đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây đã hoàn thành toàn bộ công tác xây dựng, hiệp định vay vốn của dự án đã kết thúc, không thể thực hiện đầu tư xây dựng tuyến đường gom dọc tuyến từ nguồn vốn dự án như kiến nghị của cử tri.

Đối với việc xây dựng đường gom dân sinh tại một số đoạn trên tuyến theo kiến nghị của cử tri Đồng Nai sau thời điểm kết thúc dự án, Bộ GTVT đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai xem xét, bố trí nguồn vốn đầu tư; đồng thời, chỉ đạo các cơ quan liên quan của tỉnh phối hợp với Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi cắt, phá hàng rào bảo vệ đường cao tốc gây mất an toàn giao thông và bảo vệ tài sản của đường cao tốc.

95. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Việc đấu nối đường nhánh vào quốc lộ hiện nay còn nhiều thủ tục, quy trình thực hiện nhiều bước rất phức tạp [từ văn bản thỏa thuận của Bộ GTVT, văn bản chấp thuận thiết kế và phương án tổ chức thi công, cấp phép thi công nút giao] làm ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ thi công. Đề nghị có giải pháp giảm bớt các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian để các công trình thực hiện đúng tiến độ [như gộp 3 văn bản và thực hiện trong quá trình thẩm định dự án, thiết kế bản vẽ thi công].

Trả lời: Tại công văn số 9242/BGTVT-KCHT ngày 20/8/2018

- Quốc lộ là đường nối các trung tâm hành chính cấp tỉnh, nối các cảng biển, cảng hàng không quốc tế và các cửa khẩu quốc tế, phục vụ việc lưu thông của người dân và các phương tiện tham gia giao thông đảm bảo an toàn, thông suốt. Để hình thành mạng lưới giao thông đường bộ lan tỏa đến mọi vùng, miền của đất nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, việc kết nối, đấu nối đường nhánh với hệ thống quốc lộ là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc đấu nối đường nhánh vào quốc lộ tràn lan sẽ hạn chế khả năng khai thác của các tuyến quốc lộ và tiềm ẩn nguy cơ gây mất ATGT. Do vậy, việc đấu nối vào quốc lộ phải được cấp có thẩm quyền xem xét rất chặt chẽ, ngoài việc căn cứ vào cự ly tối thiểu giữa các điểm đấu nối theo quy định còn phải xem xét đến hiện trạng đoạn tuyến quốc lộ và các yếu tố hình học tại khu vực đấu nối nhằm bảo đảm nút giao đấu nối an toàn, thông suốt.

- Hiện nay, việc đấu nối đường nhánh vào quốc lộ được quy định rất cụ thể tại Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23/9/2015 và Thông tư số 35/2017/TT-BGTVT ngày 09/10/2017 của Bộ GTVT. Trình tự, thủ tục hành chính đã được đơn giản hóa theo Đề án 30 của Chính phủ, đảm bảo thủ tục đơn giản và thuận lợi.

- Việc đấu nối đường nhánh vào quốc lộ được thực hiện qua 3 bước: bước 1 là thỏa thuận vị trí đấu nối giữa Bộ GTVT với UBND cấp tỉnh; bước 2 là chấp thuận TKKT và phương án tổ chức giao thông giữa Tổng cục ĐBVN [đơn vị quản lý quốc lộ] với chủ sử dụng nút giao; bước 3 là cấp phép thi công nút giao giữa Cục QLĐB hoặc Sở GTVT [đơn vị được ủy thác quản lý quốc lộ] với chủ sử dung nút giao để thuận tiện trong quá trình giám sát đơn vị thi công nút giao nhằm đảm bảo ATGT trong quá trình thi công và nghiệm thu sau khi thi công hoàn thành. Kết quả bước 1 làm cơ sở để triển khai các bước tiếp theo. Khi bước 1 không được chấp thuận, các bước tiếp theo sẽ không thực hiện. Do vậy, việc gộp 3 bước thành 1 bước và thực hiện trong quá trình thẩm định dự án, hồ sơ TKKT, thiết kế bản vẽ thi công và cấp phép thi công là không phù hợp.

96. Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị: Hiện nay, Quốc lộ 5A chạy qua địa phận tỉnh Hưng Yên [nhất là đoạn qua huyện Mỹ Hào và Văn Lâm] đang bị xuống cấp, hư hỏng nặng. Cử tri huyện Mỹ Hào đề nghị Bộ Giao thông vận tải cần có phương án để nâng cấp, tu bổ. Vì đây là tuyến đường hay xảy ra hiện tượng ùn tắc và tai nạn giao thông; bất cập với việc thu phí tại trạm thu phí Như Quỳnh – Văn Lâm.

Trả lời: Tại công văn số 9246/BGTVT-KCHT ngày 20/8/2018

Quốc lộ 5 do Tổng Công ty Phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính Việt Nam [VIDIFI] quản lý, bảo trì kể từ ngày 01/01/2016. Để đảm bảo ATGT, nâng cao hiệu quả khai thác và bền vững công trình; hiện nay, đoạn tuyến từ Km11+135-Km76 đã được VIDIFI lập dự án sửa chữa, hiện đang hoàn thiện các thủ tục pháp lý theo quy định để triển khai thực hiện.

Trước mắt, để đảm bảo an toàn giao thông, Tổng cục ĐBVN đã yêu cầu VIDIFI đã tổ chức sơn vạch kẻ đường toàn bộ các nút giao có đèn tín hiệu giao thông và tiến hành sửa chữa đột xuất. Đồng thời, ngày 04/7/2018, Tổng cục ĐBVN đã có văn bản số 4054/TCĐBVN-TC về việc giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ tại 02 trạm thu phí trên QL5 [giảm giá cho các xã lân cận khu vực trạm thu phí].

97. Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị: Bộ GTVT đã có văn bản trả lời số 2946/BGTVT-CQLXD ngày 22/3/2017 và văn bản số 287/BGTVT-KHĐT ngày 10/01/2018 là sẽ xem xét đầu tư nút giao liên thông tại địa phận xã Tân Phúc và xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi vào cuối năm 2018. Tuy nhiên đến nay, theo cử tri huyện Ân Thi vẫn chưa có tín hiệu gì đảm bảo dự án được khởi công xây dựng như cam kết. Đề nghị Bộ GTVT trả lời để cử tri rõ.

Trả lời: Tại công văn số 8835/BGTVT-ĐTCT ngày 13/8/2018

Dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng do Tổng công ty Phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính Việt Nam [VIDIFI] triển khai đầu tư và hoàn thành, đưa vào khai thác năm 2015. Đoạn tuyến đi qua địa phận tỉnh Hưng Yên đã kết nối với hệ thống đường giao thông địa phương tại nút giao với Quốc lộ 39 [Km20+300] thuộc địa phận xã Lý Thường Kiệt, huyện Yên Mỹ. Đối với nút giao với Quốc lộ 38 [Km29+850] thuộc địa phận xã Tân Phúc, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi do lưu lượng phương tiện tham gia giao thông trên Quốc lộ 38 chưa cao nên để phát huy hiệu quả đầu tư, nút giao thông này sẽ được nghiên cứu để đầu tư xây dựng trong giai đoạn 2 của Dự án.

Theo cơ chế của Dự án, để đảm bảo tính khả thi về phương án tài chính, Nhà nước thực hiện tham gia, hỗ trợ cho Dự án khoảng 39% tổng mức đầu tư [Điều 2 Quyết định số 746/QĐ-TTg ngày 29/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ]. Tuy nhiên, theo báo cáo của VIDIFI sau gần 03 năm đưa vào khai thác các khoản hỗ trợ của Nhà nước cho Dự án vẫn chưa được bố trí; nguồn thu phí không đủ để trả lãi vay nên việc đầu tư xây dựng giai đoạn 2 sẽ phá vỡ phương án tài chính dự án. Ngoài ra, nguồn vốn Ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT rất hạn chế, không thể cân đối đầu tư ngay nút giao liên thông trên Quốc lộ 38 như kiến nghị của cử tri huyện Ân Thi.

Trong thời gian tới, khi các khoản hỗ trợ của Nhà nước theo Quyết định số 746/QĐ-TTg nêu trên được bố trí, lưu lượng giao thông tăng cao và phương án tài chính của Dự án cân đối được, Bộ GTVT sẽ chỉ đạo VIDIFI triển khai đầu tư nút giao liên thông trên Quốc lộ 38. Bộ GTVT ghi nhận kiến nghị của cử tri tỉnh Hưng Yên, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hưng Yên và mong cử tri tỉnh Hưng Yên chia sẻ với khó khăn chung của quốc gia cũng như của ngành giao thông vận tải.

98. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Cử tri tại một số xã thuộc địa bàn các huyện Chi Lăng, Hữu Lũng là địa phương bị ảnh hưởng bởi dự án BOT đường cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn, đề nghị chủ đầu tư nghiên cứu mở thêm một số hầm chui dân sinh để phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân trên địa bàn và việc canh tác sản xuất được thuận lợi.

Trả lời: Tại công văn số 9244/BGTVT-ĐTCT ngày 20/8/2018

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 585/TTg-CN ngày 08/5/2018, Bộ GTVT đã chuyển nhiệm vụ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền Dự án đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Bắc Giang - TP. Lạng Sơn đoạn Km45+100 - Km108+500 kết hợp tăng cường mặt đường Quốc lộ 1 đoạn Km1+800 - Km106+500, tỉnh Bắc Giang và tỉnh Lạng Sơn và bổ sung đoạn cao tốc cửa khẩu Hữu Nghị - Chi Lăng theo hình thức Hợp đồng BOT [Dự án] từ Bộ GTVT về Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn kể từ ngày 25/5/2018.

Việc xử lý đề xuất của cử tri thuộc trách nhiệm của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn chuyển kiến nghị của cử tri đến Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn để xử lý theo quy định.

99. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Việc nâng cấp QL20 [đường tránh Tp. Bảo Lộc] thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với việc đầu tư hạ tầng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng cũng như Tp. Bảo Lộc và được cử tri đồng tình hưởng ứng. Tuy nhiên, trong quá trình thi công đoạn qua thôn 3, thôn 4 xã Lộc Châu [Tp. Bảo Lộc] không có cống ngang và mương thoát nước, nhà dân bị ngập khi mưa to....Cử tri đề nghị Bộ GTVT chỉ đạo Ban QLDA sớm khắc phục tình trạng nêu trên.

Trả lời: Tại công văn số 8957/BGTVT-CQLXD ngày 14/8/2018

- Tuyến tránh Tp. Bảo Lộc chủ yếu đi qua khu vực đất nông nghiệp, thưa dân cư và công trình được nghiên cứu, thiết kế bố trí đầy đủ hệ thống thoát nước, đến nay đang trong giai đoạn xây dựng.

- Đối với đoạn qua thôn 3 và thôn 4 xã Lộc Châu có bố trí cống ngang đường tại Km0+375 và Km0+700 để thu nước từ phía bên trái dẫn sang bên phải đường và theo mương thoát nước dẫn ra sông. Tuy nhiên, sau khi thi công đường, các hộ dân bên đường bắt đầu san mặt bằng gây lấp mương dẫn dòng thượng lưu cống ngang Km0+375 và lấp mương hạ lưu cống ngang Km0+700, dẫn đến gây ngập úng cục bộ phía bên trái đường.

Ngay sau khi xảy ra ngập úng, Nhà đầu tư đã chỉ đạo các đơn vị thi công khơi thông dòng chảy tạm thời dẫn nước về cống Km0+375, khắc phục được ngập úng.

- Hiện nay dọc hai bên tuyến tránh Tp. Bảo Lộc xảy ra tình trạng người dân tự phát đào san lấp mặt bằng xây dựng, làm lấp mương dẫn dòng thượng, hạ lưu cống thoát nước ngang đường một số vị trí, gây ngập úng khu vực thượng lưu, dẫn đến phải bổ sung công trình cải tạo thoát nước làm tăng chi phí xây dựng và không đảm bảo bền vững Chủ đầu tư dự án đã chỉ đạo điều chỉnh, bổ sung một số công trình thoát nước để đảm bảo

- Để đảm bảo hệ thống thoát nước khu vực đô thị Tp. Bảo Lộc và tuyến tránh, Bộ GTVT đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng quan tâm, có ý kiến và đề nghị UBND tỉnh Lâm Đồng và UBND Tp. Bảo Lộc tăng cường công tác quản lý xây dựng, không cấp phép san lấp, xây dựng công trình trong hành lang an toàn đường bộ, bảo vệ hệ thống mương thoát nước thượng , hạ lưu cống thoát nước ngang đường.

100. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị Bộ Giao thông vận tải có giải pháp hiệu quả trong thực hiện các dự án BOT để quyền lợi của người tham gia giao thông được đảm bảo. Tiếp tục nâng cấp, mở rộng QL62, đường N2, đường Hồ Chí Minh [đoạn qua địa bàn tỉnh Long An] để đảm bảo an toàn giao thông, phát triển kinh tế, xã hội.

Trả lời: Tại công văn số 9319/BGTVT-ĐTCT ngày 22/8/2018

1. Tiếp tục có giải pháp hiệu quả trong thực hiện các dự án BOT:

Trong thời gian vừa qua, trước ý kiến của người dân và ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã nghiêm túc rà soát và từng bước xử lý các bất cập, tồn tại để nâng cao hiệu quả đầu tư các dự án BOT cũng như đảm bảo quyền lợi của người tham gia giao thông, cụ thể:

1.1. Về đầu tư dự án BOT trên đường hiện hữu

Từ năm 2016 đến nay, Bộ GTVT đã đàm phán với các Nhà đầu tư, làm việc với các địa phương, Bộ, ngành để dừng 04 dự án BOT đã ký Hợp đồng và đang triển khai; dừng 10 dự án đã phê duyệt đề xuất dự án hoặc đang lập Báo cáo nghiên cứu khả thi. Đặc biệt, sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao [BOT], trong đó có chỉ đạo: “chỉ áp dụng đối với các tuyến đường mới để bảo đảm quyền lựa chọn cho người dân, không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu”, Bộ GTVT đã nghiêm túc thực hiện chỉ đạo này của Quốc hội.

1.2. Đối với các dự án đang nghiên cứu, dự án triển khai trong thời gian tới

- Hoàn thiện thể chế, chính sách: Bộ GTVT phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu sửa đổi, hoàn chỉnh thể chế, chính sách về đầu tư theo hình thức PPP..., đặc biệt là ban hành chính sách, cơ chế tạo nguồn vốn dài hạn đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông.

- Về chủ trương đầu tư: Bộ GTVT tiếp tục đẩy mạnh thu hút mọi nguồn lực, trong đó có sự tham gia của tư nhân vào đầu tư các công trình xây dựng mới. Trường hợp dự án đầu tư áp dụng hình thức hợp đồng BOT [có thu phí người sử dụng] sẽ phải đảm bảo quyền đi lại tối thiểu của người dân và người sử dụng dịch vụ có quyền lựa chọn khi tham gia giao thông.

- Về quản lý chi phí đầu tư, đảm bảo hiệu quả: Chủ trương của Bộ GTVT là tiến hành đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo quy định đối với tất cả các dự án đầu tư theo hình thức PPP.

- Về quản lý doanh thu: Tiếp tục chỉ đạo, đẩy mạnh triển khai áp dụng hệ thống thu phí điện tử tự động không dừng tại các trạm thu giá sử dụng dịch vụ đường bộ.

- Về công khai thông tin: Triển khai công bố các thông tin [về tổng mức đầu tư, mức giá, thời gian hoàn vốn...] các dự án đầu tư theo hình thức PPP hạ tầng giao thông trên trang thông tin điện tử [địa chỉ //www.ppp.mt.gov.vn] để các doanh nghiệp, tổ chức và người dân quan tâm tiếp cận, giám sát.

2. Nâng cấp, mở rộng QL62, đường N2, đường Hồ Chí Minh [qua địa bàn tỉnh Long An]:

Bộ GTVT đã có văn bản 8134/BGTVT-KHĐT ngày 25/7/2018 gửi Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Long An về việc nâng cấp, mở rộng QL62, đường N2, đường Hồ Chí Minh đoạn qua địa bàn tỉnh Long An [xin gửi kèm văn bản này].

101. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Bộ GTVT chỉ đạo đơn vị chủ đầu tư sớm kiểm tra, khắc phục tuyến Quốc lộ 30 [đoạn từ Mương Lớn đến trung tâm Thị xã Hồng Ngự] vừa mới duy tu đưa vào sử dụng đã bị xuống cấp, hư hỏng nặng. Đồng thời, duy tu, sửa chữa kịp thời tuyến Quốc lộ 80 bị xuống cấp nghiêm trọng, phương tiện giao thông đông, tiềm ẩn tai nạn giao thông.

Trả lời: Tại công văn số 9337/BGTVT-KCHT ngày 22/8/2018

1. Về Quốc lộ 30: đoạn từ cầu Mương lớn [Km86+750] đến trung tâm thị xã Hồng Ngự [Km92+000] được sửa chữa định kỳ năm 2017 [Sửa chữa mặt đường xây dựng hệ thống thoát nước dọc Km86+754÷Km91+000; Km92+050 ÷Km94+050] và được nghiệm thu hoàn thành và đưa vào sử dụng; Thời gian qua, do ảnh hưởng của cơn bão số 3 từ ngày 16/7/2018 đến 22/7/2018, khu vực Tây Nam bộ mưa liên tục kéo dài nhiều ngày và do lưu lượng phương tiện lưu thông trên tuyến lớn dẫn đến một số vị trí mặt đường bị bong tróc, Cục QLĐB IV đã chỉ đạo nhà thầu thi công thực hiện trách nhiệm bảo hành công trình. Đến nay, các vị trí hư hỏng, bong tróc đã được Nhà thầu bảo hành công trình khắc phục xong đảm bảo ATGT trên tuyến.

2. Về Quốc lộ 80: đoạn từ Km0+000÷Km50+857 thuộc dự án Cải tạo, nâng cấp QL 80 được Ban QLDA7 bàn giao cho Cục QLĐB IV quản lý, khai thác từ tháng 11/2011. Trong quá trình khai thác, sử dụng do lưu lượng xe trên tuyến ngày càng tăng và từ khi cầu Cao Lãnh được đưa vào sử dụng tháng 5/2018 làm phát sinh hư hỏng nền, mặt đường. Để giải quyết tình trạng trên, ngành giao thông đang thực hiện các công việc sau:

- Năm 2018: Bộ GTVT đã cho phép đầu tư xây dựng công trình sửa chữa cục bộ các đoạn Km2+250÷Km5+350; Km7+550÷Km9+000; Km15+200÷Km16+000; Km20+200÷Km29+500 thuộc tỉnh Đồng Tháp, Km58+000÷Km72 thuộc TP.Cần Thơ. Hiện nay, Cục QLĐB IV đã bàn giao mặt bằng cho Nhà thầu để triển khai sửa chữa, dự kiến hoàn thành tháng 12/2018.

- Năm 2019: Bộ GTVT sẽ tiếp tục rà soát, kiểm tra các đoạn khác trên tuyến, cân đối nguồn vốn quỹ bảo trì đường bộ để khắc phục hư hỏng mặt đường đảm bảo ATGT.

102. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị sớm nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 19, Quốc lộ 25C, đồng thời giải quyết kiến nghị nhiều lần về việc Ban Quản lý đường Hồ Chí Minh chưa trả nợ 2,31 tỷ đồng cho ủy ban nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh và khu vực.

Trả lời: Tại công văn số 9031/BGTVT- ngày //2018

103. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ Giao thông và Vận tải sớm triển khai, nâng cấp sửa chữa tuyến đường Quốc lộ 22, 22B như Bộ đã hứa, trước mắt :

+ Lắp đặt đèn tín hiệu giao thông tại ngã ba Tân Bình, huyện Tân Biên [đường 783 giao với Quốc lộ 22B]; đèn tín hiệu giao thông hoặc đèn giảm tốc độ tại ngã tư trước UBND xã Thạnh Đức, huyện Gò Dầu; đèn tín hiệu giao thông tại ngã ba xã An Thạnh, huyện Bến Cầu [đường Xuyên Á, đoạn cây xăng Lam Sơn, đi về 3 xã cánh Tây, huyện Trảng Bàng]; đồng thời xem xét, sửa chữa biển báo đường giao nhau [đường QL 22B] hướng từ Nghĩa trang liệt sỹ Trà Võ đến trụ sở UBND xã Thạnh Đức [đã hư hỏng cách đây hơn 2 năm], phối hợp với địa phương giải tỏa việc lấn chiếm hàng lang đường bộ đoạn từ ngã ba Mít Một [xã Hiệp Tân, huyện Hòa Thành] đến Công ty Hoàng Gia [QL22B] ấp Thanh Phước, xã Thanh Điền, huyện Châu Thành nhiều hộ dân lấn chiếm gây mất tầm nhìn khi phương tiện lưu thông;

+ Rà soát, điều chỉnh, bổ sung kịp thời hệ thống biển báo, biển chỉ dẫn, đèn tín hiệu nhằm nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng và đảm bảo an toàn giao thông. Các nắp cống cặp hai bên đường QL22B đã bị hư hỏng, sụp lún, có nơi không có cống thoát nước nên trời mưa nước không thoát nước được, dễ xảy ra tai nạn giao thông. Có giải pháp khắc phục tình trạng ngập úng cục bộ vào mùa mưa tại ngã 3 khu vực đường tránh thị trấn Trảng Bàng [Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Trảng Bàng]; ngã tư ấp Bến Đình đến cây xăng số 36, ấp Bến Mương, xã Thạnh Đức, huyện Gò Dầu; ngã tư Trảng Lớn đến ngã 3 Á Đông, huyện Châu Thành; đoạn phía trước Công ty Hoàng Gia, xã Thanh Điền, huyện Châu Thành.

Trả lời: Tại công văn số 9577/BGTVT-KCHT ngày 27/8/2018

1. Về việc lắp đèn tín hiệu giao thông tại các nút giao trên tuyến QL.22 và QL.22B:

Tuyến QL.22 và QL.22B đi qua địa bàn tỉnh Tây Ninh là tuyến giao thông huyết mạch kết nối giao thông vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam bộ đi cửa khẩu Mộc Bài và cửa khẩu Xa Mát, tuyến quốc lộ có mật độ các phương tiện tham gia giao thông rất cao. Hiện nay, qua địa bàn tỉnh trên QL.22 từ Km30+250-Km58+250 đã có 09 vị trí tổ chức giao thông bằng đèn tín hiệu, 08 vị trí lắp đặt đèn cảnh báo; trên QL.22B từ Km0+000-Km84+162 đã có 11 vị trí tổ chức giao thông bằng đèn tín hiệu, 13 vị trí lắp đặt đèn cảnh báo, đồng thời, hệ thống an toàn giao thông [vạch sơn, biển báo] trên QL.22 và QL.22B đã cơ bản đầy đủ, với kiến nghị lắp đặt bổ sung đèn tín hiệu giao thông tại một số nút giao như ý kiến của cử tri sẽ làm giảm năng lực thông hành trên quốc lộ và gia tăng nguy cơ ùn tắc giao thông trên tuyến. Để đảm bảo an toàn giao thông, nâng cao hiếu biết về Luật giao thông đường bộ đối với người tham gia giao thông, đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh tăng cường tuyên truyền ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ tới người dân và chỉ đạo các lực lượng chức năng tăng cường kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm.

2. Về tồn tại một số biển báo bị hư hỏng, chưa thay thế kịp thời đoạn từ Nghĩa trang liệt sỹ Trà Võ [Km12+300] đến trụ sở UBND xã Thạnh Đức [Km13+400/QL.22B] Quốc lộ 22B: Bộ GTVT sẽ chỉ đạo đơn vị quản lý đường bộ khắc phục kịp thời các biển báo hư hỏng, hoàn thành xong trước ngày 31/8/2018. Đồng thời, việc điều chỉnh, bổ sung, thay thế hệ thống biển báo, biển chỉ dẫn, đèn tín hiệu giao thông đã được đưa vào Dự án cải tạo, sửa chữa QL.22B đoạn từ Km0+000 đến Km84+162 để hoàn chỉnh và đồng bộ theo Quy chuẩn báo hiệu đường bộ QCVN 41:2016/BGTVT.

3. Về việc lấn chiếm hành lang ATGT đường bộ, đoạn từ Km34+00-Km35+00 QL.22B: đây là khu vực thường xuyên có các hộ dân tập trung buôn bán dọc hai bên đường, đặc biệt tại ngã tư Thanh Điền Km35+600 còn tồn tại một sổ nhà dân xây dựng sát mép đường gây khuất tầm nhìn, do giai đoạn đầu tư xây dựng tuyến tránh Tp. Tây Ninh chưa giải phóng được mặt bằng. Thời gian qua, cơ quan quản lý đường bộ đã nhiều lần phối hợp với chính quyền địa phương xã Thanh Điền tuyên truyền, nhắc nhở và xử lý vi phạm nhưng tình trạng lấn chiếm, sử dụng hành lang đường bộ để bán hàng gây mất trật tự an toàn giao thông vẫn tái diễn. Để bảo đảm ATGT trên QL.22B, đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh chỉ đạo các đơn vị chức năng tiếp tục, thực hiện kế hoạch cưỡng chế các trường hợp lấn chiếm hành lang đường bộ ảnh hưởng tới an toàn giao thông trên tuyến, rà soát và lập kế hoạch hỗ trợ di dời các trường họp xây dựng công trình trong phạm vi đất của đường bộ tồn tại trong giai đoạn đầu xây dựng tuyến tránh Tp. Tây Ninh.

4. Tồn tại về úng ngập cục bộ, hư hỏng mương thoát nước trên:

- Đoạn QL.22 qua địa phận huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh [Km35-Km38] dã được đầu tư xây dựng đồng bộ và hoàn chỉnh hệ thống thoát nước nên đã và đang phát huy hiệu quả khai thác. Tuy nhiên, tại Ngã ba thị trấn Trảng Bàng [Km35+600/QL.22] là ngã ba đường nhánh đấu nối vào quốc lộ, do chủ sử dụng nút giao chưa đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước trong khu vực đường nhánh nên xảy ra tình trạng đọng nước khi trời mưa tại khu vực nút giao. Đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh chỉ đạo các đơn vị chức năng kiểm tra, đôn đốc Chủ đầu tư sử dụng nút giao tự đầu tư kinh phí xây dựng hệ thống thoát nước, bảo đảm không để nước mặt và nước thải sinh hoạt từ đường nhánh tràn ra mặt đường quốc lộ làm ảnh hưởng đến tuổi thọ công trình và khó khăn cho phương tiện tham gia giao thông.

- QL. 22B được nâng cấp, cải tạo và đưa vào khai thác sử dụng từ năm 2008, do dự án mới hoàn thiện giai đoạn 1 nên hệ thống thoát nước còn chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ. Một số đoạn tuyến còn chưa có hệ thống thoát nước nên xảy ra tình trạng ngập nước cục bộ khi trời mưa, trong đó có đoạn đi qua khu vực ngã tư ấp Bến Đình, ấp Ben Mương và khu dân cư xã Cẩm Giang, huyện Gò Dầu; xã Thanh Điền, huyện Châu Thành, v.v... như kiến nghị của Cử tri tỉnh Tây Ninh. Đơn vị quản lý tuyến đường đã tăng cường công tác đào rãnh dọc, bạt lề đường đế bảo đảm thoát nước, nhưng do nhà dân 2 bên tôn cao hơn mặt đường quốc lộ nên tình trạng đọng nước khi trời mưa vẫn xảy ra.

Đối với khu vực từ ngã tư Trảng Lớn đến ngã 3 Á Đông từ Km40+600- Km41+200 có bố trí rãnh dọc thoát nước có nắp đậy [loại không chịu lực]. Tại khu vực này thường xuyên có các phương tiện xe ô tô, xe tải nặng đi qua nắp tấm đan, nên xảy ra tình trạng vỡ nắp tấm đan rãnh, kết hợp với việc các hộ dân sinh sống hai bên quốc lộ đổ rác thải vào lòng rãnh nên đã làm mất tác dụng thoát nước của rãnh dọc. Để khắc phục tình trạng ngập úng cục bộ trên tuyến QL.22B, Bộ GTVT đã cho phép thực hiện dự án sửa chữa, cải tạo QL.22B, việc bổ sung rãnh dọc thoát nước được thực hiện và hoàn thành trong năm 2018.

Đồng thời, để bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, bảo đảm thoát nước trên tuyến và trong khu vực, đề nghị UBND tỉnh Tây Ninh chỉ đạo các lực lượng chức năng tuyên truyền tới người dân, xử lý nghiêm các hành vi phá hoại tài sản công trình đưòng bộ.

104. Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: Đề nghị Chính phủ có cơ chế, chính sách đầu tư hạ tầng giao thông đồng bộ, kết nối liên hoàn giữa các tỉnh Miền núi phía Bắc, trong đó có hạ tầng giao thông kết nối giữa 03 tỉnh Tuyên Quang - Hà Giang - Bắc Kạn, để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là kết nối về ngành du lịch giữa các tỉnh trong khu vực.

Trả lời: Tại công văn số 9446/BGTVT-KHĐT ngày 24/8/2018

Khu vực miền núi phía Bắc trong đó có các tỉnh Tuyên Quang - Hà Giang - Bắc Kạn là khu vực có địa hình hết sức khó khăn, nhu cầu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về giao thông là rất lớn. Tuy nhiên, đây là khu vực nghèo, ngân sách của các tỉnh phụ thuộc rất lớn từ trung ương. Không hấp dẫn đầu tư, nhất là cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông. Vì vậy, trong những năm qua, Bộ GTVT đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ bố trí vốn đầu tư cho các công trình thiết yếu trên địa bàn, nhằm tăng cường kết nối giữa các tỉnh, trong đó có 3 tỉnh Tuyên Quang - Hà Giang - Bắc Kạn. Tuy vậy, việc đầu tư vẫn chưa đáp ứng được với nhu cầu đòi hỏi của sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội và kết nối về du lịch. Bộ GTVT ghi nhận ý kiến đóng góp của cử tri và trong thời gian tới sẽ tiếp tục báo cáo trong kế hoạch đầu tư sau năm 2020, đồng thời phối hợp với UBND các tỉnh đề nghị Thủ tướng Chính phủ có cơ chế chính sách cần ban hành theo hướng:

- Xây dựng kế hoạch đầu tư theo thứ tự ưu tiên các công trình giao thông phải tuân thủ các quy hoạch chuyên ngành, quy hoạch vùng đã được phê duyệt.

- Ưu tiên sử dụng vốn ngân sách và bố trí đủ vốn để đầu tư một số công trình quan trọng mang tính phát triển kinh tế, tăng khả năng liên kết vùng, liên kết giữa các phương thức vận tải. Sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách Nhà nước, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí;

- Có chính sách cụ thể để khuyến khích đầu tư theo hình thức PPP với mô hình lợi nhuận rõ ràng và ổn định từ việc cung cấp các dịch vụ du lịch trong vùng. Có các chính sách hấp dẫn thu hút đầu tư tư nhân như quỹ đất, thuế, phí, bảo lãnh hạ tầng...

- Tăng cường công tác quản lý và bổ sung nguồn vốn bảo trì hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông. Sử dụng hiệu quả Quỹ Bảo trì đường bộ.

- Nghiên cứu áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ để xử lý các vấn đề kỹ thuật xuất phát từ điều kiện địa chất thuỷ văn phức tạp của khu vực như­ vấn đề sụt, trượt, kiên cố hoá công trình ..., nhằm làm giảm giá thành xây dựng và nâng cao chất lượng công trình.

105. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Hiện tại dự án đường tránh phía Đông thành phố Đông Hà đang được Bộ GTVT đầu tư dở dang, chưa thông tuyến; vì vậy xe tải, xe công ten nơ chạy xuyên tâm thành phố vào giờ cao điểm [do xe dừng chờ đèn tín hiệu] nên gây ách tắc giao thông và là nguyên nhân làm tai nạn giao thông tăng cao [trong năm 2017 tăng 17,6% và 6 tháng đầu năm 2018 tăng 6,83%]. Hiện nay, tỉnh Quảng Trị là tỉnh duy nhất trên QL1 chưa có đường tránh; vì vậy, cử tri kiến nghị Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính quan tâm đầu tư đoạn còn lại khoảng 13km để thông tuyến nhằm giảm áp lực giao thông lên trung tâm thành phố Đông Hà.

Trả lời: Tại công văn số 8553/BGTVT-KHĐT ngày 03/8/2018

Để hỗ trợ tỉnh Quảng Trị từng bước đầu tư xây dựng đường tránh phía Đông thành phố Đông Hà nhằm phân luồng giảm tải giao thông trên Quốc lộ 1; hạn chế phương tiện lưu thông qua trung tâm các đô thị, tăng năng lực vận tải, đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, Bộ GTVT đã phối hợp với UBND tỉnh Quảng Trị báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ có ý kiến chỉ đạo về việc đầu tư xây dựng tuyến đường nêu trên tại văn bản số 671/TTg-CN ngày 15/5/2017, trong đó:

- Bộ GTVT đã phê duyệt điều chỉnh Dự án tuyến tránh Quốc lộ 1 đoạn qua thị xã Quảng Trị tại Quyết định số 449/QĐ-BGTVT ngày 07/3/2018 để hỗ trợ tỉnh Quảng Trị hoàn thành một phần tuyến đường tránh phía Đông thành phố Đông Hà với chiều dài xây dựng mới khoảng 5,02km đoạn từ Quốc lộ 9 đến Quốc lộ 1 và đang triển khai thực hiện.

- Đối với việc hỗ trợ cho Dự án tuyến đường tránh phía Đông thành phố Đông Hà từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ tiếp tục còn dư của các dự án mở rộng Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua khu vực Tây Nguyên: Bộ GTVT đã có văn bản số 7730/BGTVT-KHĐT ngày 16/7/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về phương án sử dụng vốn vốn trái phiếu Chính phủ tiếp tục còn dư của các dự án mở rộng Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua khu vực Tây Nguyên, trong đó có đề nghị bố trí 245 tỷ đồng để hỗ trợ hoàn thành Dự án tuyến đường tránh phía Đông thành phố Đông Hà. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bố trí vốn cho dự án, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Quảng Trị để triển khai thực hiện.

106. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Đề nghị Bộ GTVT chỉ đạo Tổng công ty ĐSVN rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch ga Bỉm Sơn, từ năm 1987 đến nay không thực hiện xây dựng, không quản lý đất được giao để dân lấn chiếm sử dụng, một phần diện tích đang cho thuê sử dụng không đúng mục đích, làm lãng phí tài nguyên đất.

Trả lời: Tại công văn số 9040/BGTVT-KCHT ngày 15/8/2018

1. Hiện tại, Tổng công ty ĐSVN là đơn vị được giao quản lý, sử dụng đất tại ga Bỉm Sơn; và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00578 kèm theo Quyết định số 1487/QĐ-UB ngày 18/6/2001 của UBND tỉnh Thanh Hóa, với tổng diện tích đất là 135.775m2, trong đó: 43.000m2 trên địa phận phường Phú Sơn và 92.775m2 trên địa phận phường Ngọc Trạo, với mục đích sử dụng để xây dựng kết cấu hạ tầng đường sắt trong thời gian lâu dài.

2. Về nhu cầu sử dụng đất để phát triển ga Bỉm Sơn: Bộ GTVT có Quyết định số 2477/QĐ-BGTVT ngày 09/7/2015 phê duyệt quy hoạch chi tiết hiện đại hóa tuyến đường sắt Bắc - Nam. Trong đó, ga Bỉm Sơn nằm trong danh mục những ga phải nâng cấp, cải tạo ga hành khách, ga hàng hóa, bãi hàng, kết nối cảng biển và đường sắt nhánh vào cấp kỹ thuật quốc gia để tăng cường chất lượng phục vụ và thu hút hành khách, hàng hóa. Theo quy hoạch được duyệt, ga Bỉm Sơn sẽ được giữ nguyên quy mô như hiện nay.

3. Về sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước: thực hiện Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg ngày 19/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ, Tổng công ty ĐSVN đã tổ chức thực hiện kê khai hiện trạng quản lý, sử dụng nhà, đất trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Trên cơ sở ý kiến thống nhất của UBND tỉnh Thanh Hóa tại Văn bản số 2863/UBND-KT ngày 08/5/2012, Bộ Tài chính đã phê duyệt phương án xử lý các cơ sở nhà, đất trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa tại Văn bản số 12163/BTC-QLCS ngày 01/9/2015, trong đó ga Bỉm Sơn được tiếp tục giữ lại để quản lý, sử dụng theo quy hoạch của UBND tỉnh Thanh Hóa.

4. Do lịch sử để lại, trước khi có Quyết định số 1487/QĐ-UB ngày 18/6/2001 của UBND tỉnh Thanh Hóa về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ga Bỉm Sơn, đã có 22 hộ dân với diện tích khoảng 1470m2 đang sinh sống trong khu đất ga Bỉm Sơn. Sau khi có Quyết định số 1487/QĐ-UB ngày 18/6/2001, do thiếu kinh phí để chôn cọc mốc chỉ giới, xây dựng tường rào theo ranh giới, nên đã có 95 hộ dân lấn chiếm, xây dựng trái phép trên khu đất ga Bỉm Sơn với với diện tích khoảng 4141m2.

5. Hiện nay, Chi nhánh khai thác đường sắt Hà Thanh [đơn vị được giao quản lý, sử dụng đất ga Bỉm Sơn] đang ký hợp đồng cho 01 tổ chức và 01 cá nhân thuê tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt với diện tích khoảng 2190m2 bãi hàng tại ga Bỉm Sơn. Việc ký hợp đồng cho thuê được thực hiện theo quy định tại Quyết định số 84/2007/QĐ-TTg ngày 11/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 21/2008/TT-BTC ngày 04/3/2008 của Bộ Tài chính về phương thức và mức thu phí, giá thuê sử dụng kết cấu hạ tầng đường sắt do nhà nước đầu tư nhằm tận dụng và khai thác tối đa diện tích, năng lực kết cấu hạ tầng đường sắt, không gây lãng phí tài nguyên đất.

6. Triển khai Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ Quy định việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công, Bộ GTVT chỉ đạo Tổng công ty ĐSVN kiểm tra, phân loại nhà ở trong khu ga để giải quyết theo hướng: trường hợp không vướng quy hoạch phát triển của ngành thì bàn giao cho địa phương quản lý; trường hợp cần giải tỏa thì thực hiện giải tỏa đưa vào sử dụng đúng mục đích.

107. Cử tri tỉnh Thừa Thiên – Huế kiến nghị: Tuyến đường QL.49 qua địa bàn huyện A Lưới và QL.49B qua địa bàn huyện Phong Điền, Phú Vang, Phú Lộc có một số đoạn bị ảnh hưởng do cơn bão số 12 năm 2018; tuy đã có biện pháp sửa chữa, khắc phục nhưng vẫn có nhiều đoạn chưa đảm bảo an toàn, nguy cơ sạt lở rất cao khi mùa mưa, lũ sắp tới. Đề nghị Bộ quan tâm kiểm tra, rà soát nâng cấp toàn tuyến để đảm bảo an toàn cho người dân khi lưu thông trên tuyến đường này.

Trả lời: Tại công văn số 9243/BGTVT-KCHT ngày 20/8/2018

1. Tuyến QL.49 đoạn qua huyện A Lưới:

- Đối với các đoạn tuyến bị hư hỏng do ảnh hưởng của cơn bão số 12 năm 2017 đã được sửa chữa khắc phục kịp thời đáp ứng tải trọng khai thác, đảm bảo nhu cầu đi lại của nhân dân [vấn đề này đã được Bộ GTVT trả lời kiến nghị của cử tri tại Văn bản số 2039/BGTVT-KCHT ngày 01/3/2018]. Để nâng cao khả năng khai thác, cải thiện điều kiện giao thông và ATGT, Bộ GTVT đã có kế hoạch đầu tư sửa chữa một số hạng mục trên tuyến với tổng kinh phí khoảng 50,9 tỷ đồng. Trong đó, bổ sung kế hoạch bảo trì năm 2017 là 29,2 tỷ đồng để thực hiện trong năm 2018 và kế hoạch bảo trì năm 2018 là 21,7 tỷ đồng. Hiện tại, Bộ GTVT đang triển khai xây dựng kế hoạch bảo trì công trình đường bộ năm 2019, các hư hỏng gây mất ATGT và ảnh hưởng đến việc lưu thông trên tuyến sẽ tiếp tục được đầu tư sửa chữa.

- Dự án đầu tư xây dựng công trình QL.49 đã được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 2050/QĐ-BGTVT ngày 14/7/2009 với tổng mức đầu tư 2.442 tỷ đồng [trong đó giai đoạn 1 là 1.892 tỷ đồng]. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ và Chỉ thị số 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ dự án phải tạm đình hoãn. Đến nay, tổng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đã bố trí cho dự án là 353,8 tỷ đồng. Bộ GTVT đã chỉ đạo tập trung thi công hoàn thành các gói thầu từ Km65+000 đến Km74+000 [đoạn tuyến qua đèo Aco] và xử lý vuốt nối với đường hiện tại để khai thác và đảm bảo ATGT. Việc sửa chữa trong thời gian qua mới chỉ mang tính chất cục bộ, chưa cải thiện được tổng thể khả năng lưu thông của tuyến đường, Bộ GTVT thống nhất với UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về sự cần thiết tiếp tục đầu tư cải tạo, nâng cấp QL.49 để đảm bảo lưu thông thông suốt, an toàn nhưng nguồn vốn ngân sách được giao cho Bộ GTVT trong giai đoạn 2016-2020 rất hạn hẹp, không đủ để cân đối để tiếp tục triển khai đầu tư dự án.

2. Tuyến QL.49B đoạn qua huyện Phong Điền, Phú Vang, Phú Lộc:

- Đối với các đoạn tuyến bị hư hỏng do ảnh hưởng của cơn bão số 12 năm 2017 đã được sửa chữa khắc phục kịp thời. Hiện tại, nền, mặt đường như trạng thái ban đầu, đảm bảo lưu thông cho người dân đi lại [vấn đề này đã được Bộ GTVT trả lời kiến nghị của cử tri tại Văn bản số 2039/BGTVT-KCHT ngày 01/3/2018]. Ngoài ra, để đảm bảo nhu cầu đi lại của nhân dân, Bộ GTVT đã thực hiện sửa chữa thảm BTN mặt đường bằng vốn Quỹ BTĐBTW, cụ thể như sau: năm 2015, 2016 đầu tư đoạn Km43-Km48+440; năm 2016, 2017 đầu tư các đoạn Km4+000-Km4+800, Km7+450-Km9+300, Km10+500-Km11+200, Km11+700-Km12+600, Km19+000-Km23+100, Km40-Km43; năm 2017, 2018 đầu tư các đoạn Km12+600-Km19+000, Km23+100-Km26+300, Km86+600-Km87+400 [đoạn cải tuyến không nằm trong dự án XDCB], Km91+110-Km92+100 [đoạn cải tuyến không nằm trong dự án XDCB]. Hiện tại, Bộ GTVT đang triển khai xây dựng Kế hoạch bảo trì công trình đường bộ năm 2019, các hư hỏng gây mất ATGT và ảnh hưởng đến việc lưu thông trên tuyến sẽ tiếp tục được đầu tư sửa chữa.

- Dự án đầu tư xây dựng công trình nâng cấp, mở rộng QL.49B đoạn Thuận An - Tư Hiền – QL.1 do Sở GTVT Thừa Thiên Huế làm chủ đầu tư, được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 3114/QĐ-BGTVT ngày 29/10/2010 với tổng mức đầu tư 761,835 tỷ đồng, sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Dự án đang triển khai thi công đoạn Km73+400-Km92+200 [dài khoảng 18,8 km] theo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải tại Văn bản số 861/VPCP-KTN ngày 25/01/2013, đến nay đã hoàn thành đưa vào sử dụng đoạn Km73+400-Km83+500 và hoàn thành khoảng 80% khối lượng của đoạn Km83+500-Km92+160. Đối với phần vốn còn thiếu để tiếp tục triển khai hoàn thành đoạn từ Km73+400-Km92+200, Bộ GTVT đã có Văn bản số 8602/BGTVT-KHĐT ngày 06/8/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, bổ sung nguồn vốn cho các dự án đang triển khai dở dang. Sau khi được cấp có thẩm quyền chấp thuận bổ sung vốn cho dự án, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Thừa Thiên Huế để triển khai thực hiện.

108. Cử tri tỉnh Thừa Thiên – Huế kiến nghị: Sân bay Quốc tế Phú Bài hiện đã quá tải, để đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân và khách du lịch, cử tri kiến nghị Bộ quan tâm đầu tư xây dựng nhà ga quốc tế, đường lăn, sân đỗ nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu vận tải trong thời gian tới.

Trả lời: Tại công văn số 8554/BGTVT-KHĐT ngày 03/8/2018

- Đối với nhà ga hành khách và sân đỗ tàu bay: Trong kế hoạch đầu tư phát triển năm 2018 được Bộ GTVT thông qua và Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam [ACV] phê duyệt đã bao gồm Dự án xây dựng nhà ga 5 triệu hành khách/năm và Dự án Mở rộng sân đỗ tàu bay [thêm 8 vị trí đỗ tàu bay code C]. Thực hiện kế hoạch đầu tư được duyệt, ACV đang thực hiện công tác tuyển chọn tư vấn lập Báo cáo nghiên cứu khả thi cho 2 dự án này. Ngày 11/6/2018, ACV đã có văn bản số 219/TCTCHKVN-HĐQT thông báo và đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế hỗ trợ công tác đền bù, giải phóng mặt bằng song song với quá trình chuẩn bị đầu tư của ACV.

- Đối với đường lăn: ACV đã đưa Dự án cải tạo, kéo dài đường cất hạ cánh, đường lăn song song vào kế hoạch đầu tư giai đoạn 2018-2021 là 978 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc quản lý, đầu tư khu bay [bao gồm đường lăn và đường cất hạ cánh] tại 21 cảng hàng không nói chung và Cảng hàng không quốc tế Phú Bài nói riêng đang gặp vướng mắc. Cụ thể, sau khi ACV cổ phần hóa, các công trình thuộc khu bay là công trình dùng chung của hàng không dân dụng và quốc phòng thuộc tài sản của Nhà nước nên tại thời điểm này ACV chưa được phép đầu tư các công trình tại khu bay. Thực hiện Nghị định số 44/2018/NĐ-CP ngày 13/03/2018 của Chính phủ quy định về quản lý, sử dụng, khai thác tài sản kết cấu hạ tầng hàng không, hiện nay Cục Hàng không Việt Nam đang xây dựng Đề án giao cho ACV quản lý, sử dụng, khai thác tài sản khu bay để Bộ GTVT xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Đề án được duyệt là cơ sở để ACV triển khai đầu tư hoàn chỉnh hệ thống đường lăn Cảng hàng không quốc tế Phú Bài theo quy hoạch.

109. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Nam về đề nghị Bộ GTVT sớm xúc tiến đầu tư nâng cấp, mở rộng tuyến đường Quốc lộ 14E và cầu Sông Trường; Quốc lộ 40B; Quốc lộ 14G và ngầm Dốc Rùa [được Bộ GTVT trả lời tại Công văn số 424/BGTVT-KHĐT ngày 15/01/2018] Chính phủ đã phê duyệt đưa vào danh mục đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, đã qua ‘1/2 giai đoạn đầu tư công nhưng các tuyến Quốc lộ trên vẫn chưa được đầu tư nâng cấp, mở rộng; đề nghị Bộ GTVT tham mưu Chính phủ xem xét bố trí nguồn vốn để triển khai đầu tư, xây dựng nhằm đảm bảo an toàn giao thông, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương và đáp ứng nguyện vọng của cử tri.

Trả lời: Tại công văn số 8992/BGTVT-KHĐT ngày 27/8/2018

1. Về việc đầu tư nâng cấp, mở rộng các tuyến đường Quốc lộ: 14E, 14G, 40B:

Ngày 15/01/2018, Bộ GTVT đã có văn bản số 424/BGTVT-KHĐT trả lời cử tri tỉnh Quảng Nam gửi tới Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV do Ban Dân nguyện chuyển đến theo Công văn số 707/BDN ngày 23/11/2017 về việc đầu tư nâng cấp, mở rộng các tuyến đường Quốc lộ: 14E, 14G, 40B. Theo đó để phù hợp quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ GTVT đã tổng hợp các dự án Quốc lộ 14E, quốc lộ 40B, Quốc lộ 14G vào danh mục các dự án đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Tuy nhiên, do nguồn vốn trung hạn 2016 - 2020 rất hạn chế, không thể cân đối bố trí cho các dự án. Như vậy, việc triển khai các dự án dự kiến sẽ sau năm 2020.

Riêng đối với Quốc lộ 40B, dự kiến trong thời gian tới sẽ triển khai đầu tư các đoạn Km1+770 - Km14+200 và Km35+305 - Km53+554, cụ thể:

- Đoạn Km1+770 - Km14+200: Theo đề nghị của UBND tỉnh Quảng Nam, Bộ GTVT đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư Quốc lộ 40B đoạn đường ven biển tỉnh Quảng Nam đến giao với đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi [Km1+770 - Km14+200] từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ còn dư của các dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên tại văn bản số 613/VPCP-KTTH ngày 17/01/2018. Đến nay, Bộ GTVT đã phê duyệt dự án đầu tư, dự kiến triển khai thi công vào cuối năm 2018, hoàn thành năm 2019.

- Đoạn Km35+305 - Km53+554: Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1143/QĐ-TTg ngày 27/6/2016 phê duyệt chủ trương đầu tư dự án liên kết vùng miền Trung - tỉnh Quảng Nam bằng nguồn vốn vay của Ngân hàng xuất nhập khẩu Hà Quốc [EDCF], trong đó có việc đầu tư Quốc lộ 40B đoạn từ Km35+305 - Km53+554 [dài 18,2km]. Hiện nay, Bộ Tài chính đang dự thảo Hiệp định vay để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

2. Về đầu tư các cầu Sông Trường, Nước Oa trên Quốc lộ 40B và ngầm Dốc Rùa trên Quốc lộ 14G:

2.1. Về đầu tư các cầu Sông Trường, Nước Oa trên Quốc lộ 40B:

Để phù hợp với quy hoạch phát triển đã được phê duyệt và phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an toàn khai thác trong mùa mũa lũ, Bộ GTVT đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án tín dụng ngành xây dựng 22 cầu yếu trên các tuyến Quốc lộ sử dụng vốn vay của Chính phủ Hàn Quốc [EDCF], trong đó có các cầu Sông Trường và cầu Nước Oa nằm trên Quốc lộ 40B tại các Quyết định: số 456/QĐ-TTg ngày 08/4/2015; 1168/QĐ-TTg ngày 29/6/2016. Dự án được triển khai thực hiện gồm hai giai đoạn:

- Giai đoạn 1 đã được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 138/QĐ-BGTVT ngày 16/01/2017 với danh mục gồm 06 cầu [trong đó có cầu Sông Trường và Nước Oa trên Quốc lộ 40B], hiện nay đang hoàn chỉnh các thủ tục để ký kết Hiệp định vay vốn làm cơ sở triển khai thực hiện.

- Giai đoạn 2 hiện đang triển khai công tác lập Báo cáo nghiên cứu khả thi, đến nay đã cơ bản hoàn thành và đã thống nhất với đoàn thẩm định của Nhà tài trợ [EDCF]. Do có thay đổi về danh mục các cầu đầu tư trong Giai đoạn 2 nên Bộ GTVT đang hoàn chỉnh thủ tục để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư và hoàn thiện dự án trước khi phê duyệt.

- Về kế hoạch vốn đầu tư: Bộ GTVT đã có văn bản số 4861/BGTVT-KHĐT ngày 10/5/2018 báo cáo Thủ tướng Chính phủ bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, trong đó có đề nghị bố trí kế hoạch vốn cho Dự án từ nguồn 10% dự phòng của Bộ GTVT.

Ngay sau khi kế hoạch vốn bố trí cho Dự án được cấp có thẩm quyền xem xét, chấp thuận, Bộ GTVT sẽ hoàn chỉnh thủ tục chuẩn bị đầu tư, phê duyệt Dự án “Tín dụng ngành cải tạo cầu yếu và cầu kết nối trên các quốc lộ sử dụng vốn vay EDCF - Giai đoạn 2” và triển khai thực hiện.

2.2 Về đầu tư ngầm Dốc Rùa trên Quốc lộ 14G:

Để phù hợp với quy hoạch phát triển đã được phê duyệt và phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an toàn khai thác trong mùa mũa lũ, Bộ GTVT đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án tín dụng ngành GTVT để cải tạo mạng lưới đường Quốc gia giai đoạn 2 để đầu tư một số cầu yếu ưu tiên tại Quyết định số 467/QĐ-TTg ngày 03/5/2018 với tổng số 23 cầu yếu [trong đó có cầu Dốc Rùa trên Quốc lộ 14G], sử dụng vốn vay của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản [JICA].

Hiện nay, Bộ GTVT đang chỉ đạo các đơn vị liên quan sớm hoàn tất thủ tục đầu tư để phê duyệt dự án đầu tư trong năm 2018, dự kiến khởi công năm 2019.

110. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Trên địa bàn xã Ating, Jơ Ngây, ZaHung thuộc huyện Đông Giang có 03 tuyến đường giao thông liên xã không được đấu nối với tuyến đường Hồ Chí Minh và QL.14G gây khó khăn cho việc đi lại của nhân dân. Đề nghị Bộ GTVT chỉ đạo các cơ quan liên quan kiểm tra và có biện pháp đảm bảo an toàn giao thông để các tuyến đường trên được kết nối, phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân và góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Trả lời: Tại công văn số 9163/BGTVT-KCHT ngày 17/8/2018

1. Theo báo cáo của Tổng cục ĐBVN, hiện trạng một số tuyến đường giao thông liên xã đấu nối vào đường Hồ Chí Minh và QL.14G qua địa bàn xã Ating, Jơ Ngây, ZaHung thuộc huyện Đông Giang cụ thể như sau:

- Đấu nối đường giao thông liên xã vào đường Hồ Chí Minh có 02 vị trí tại Km451+900 và Km454+020 thuộc xã Za Hung;

- Đấu nối đường giao thông liên xã vào QL.14G có 03 vị trí tại Km28+387 thuộc xã Ba; tại Km38+280 thuộc xã Ating; tại Km44+370 thuộc xã Jơ Ngây.

Điểm đấu nối tại Km454+020 vào đường Hồ Chí Minh đã được thỏa thuận với UBND tỉnh Quảng Nam tại Văn bản số 3573/BGTVT-KCHT ngày 09/4/2018; được chấp thuận hồ sơ thiết kế kỹ thuật nút giao đấu nối tại Văn bản số 1060/CQLĐBIII-ATGT ngày 01/6/2018. Đến nay, chủ đầu tư chưa gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý đường bộ để được cấp phép thi công theo quy định.

Điểm đấu nối tại Km451+900 vào đường Hồ Chí Minh và các điểm tại Km28+387; Km38+280; Km44+370 vào QL.14G là các điểm đấu nối tự phát, chưa được thỏa thuận đấu nối với Bộ GTVT.

2. Đề nghị UBND tỉnh Quảng Nam chỉ đạo các cơ quan chức năng của tỉnh lập hồ sơ các điểm đấu nối nêu trên theo quy định tại Thông tư số 50/2015/TT-BGTVT ngày 23/9/2015 của Bộ GTVT và Thông tư số 35/2017/TT-BGTVT ngày 09/10/2017, gửi Bộ GTVT và Tổng cục ĐBVN để thỏa thuận theo quy định.

111. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Nhiều cử tri tiếp tục phản ánh tuyến Quốc lộ 53, 54 đoạn đi ngang qua tỉnh Vĩnh Long xuống cấp nghiêm trọng, mặt đường hẹp lưu lượng xe qua lại nhiều nên thường xảy ra tai nạn giao thông. Đề nghị sớm duy tu, sửa chữa, nâng cấp nới rộng các tuyến Quốc lộ này nhất là Quốc lộ 54.

Trả lời: Tại công văn số 9104/BGTVT-KHĐT ngày 16/8/2018

1. Đối với Quốc lộ 53:

Quốc lộ 53 đoạn qua địa phận tỉnh Vĩnh Long có chiều dài 43km, đã hoàn thành đầu tư đoạn từ Km0 - Km15+617 theo quy mô đường cấp III và đường đô thị; đoạn từ Km15+617 - Km43 nằm trong Dự án đầu tư nâng cấp QL53 đoạn Long Hồ - Ba Si đã được Bộ GTVT triển khai đầu tư theo hình thức BOT. Tuy nhiên, trên cơ sở thống nhất của các tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, Bộ GTVT đã có văn bản số 1351/BGTVT-ĐTCT ngày 08/02/2018 chỉ đạo các cơ quan liên quan hoàn chỉnh thủ tục chấm dứt hợp đồng với Nhà đầu tư; giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tổ chức ngay việc tiếp nhận Dự án để quản lý và thực hiện công tác duy tu, sửa chữa các vị trí hư hỏng trên đường hiện hữu từ kế hoạch vốn bảo trì năm 2018 và 2019; đồng thời, tổ chức khảo sát, nghiên cứu, đề xuất phương án gia cố lề, mở rộng mặt đường đoạn tuyến QL53 qua địa bàn tỉnh Vĩnh Long, đáp ứng nhu cầu vận tải, đảm bảo an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông. Bộ GTVT sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển đổi hình thức đầu tư Dự án và nghiên cứu đưa Dự án vào danh mục đầu tư công giai đoạn 2021-2026 để triển khai thực hiện.

2. Đối với Quốc lộ 54:

Quốc lộ 54 đoạn qua địa phận tỉnh Vĩnh Long có chiều dài 49km đã hoàn thành theo quy mô Bn/Bm=6,5/3,5m và đã được Tổng cục Đường bộ Việt Nam cạp lề mỗi bên rộng 1m để mở rộng mặt đường lên 5,5m. Bộ GTVT đã chỉ đạo các đơn vị liên quan nghiên cứu đầu tư mở rộng QL54 đoạn qua địa phận tỉnh Vĩnh Long theo hình thức BOT, tuy nhiên do lưu lượng giao thông trên tuyến thấp nên dự án không khả thi về phương án tài chính.

Hiện nay, nguồn vốn ngân sách Nhà nước giao cho Bộ GTVT trong giai đoạn 2016-2020 rất hạn chế, do vậy giai đoạn trước mắt chưa cân đối được nguồn vốn để triển khai đầu tư nâng cấp đoạn tuyến này. Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường công tác kiểm tra, duy tu, sửa chữa để đảm bảo an toàn giao thông trên tuyến, đồng thời giao các cơ quan liên quan nghiên cứu, đưa Dự án vào kế hoạch trung hạn giai đoạn 2021-2026 để triển khai thực hiện.

112. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Đề nghị xem xét, nâng cấp tuyến đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đoạn Yên Bái – Lào Cai lên 4 làn xe, có dải phân cách cứng để nâng cao năng lực vận tải và đảm bảo an toàn cho người và phương tiện khi tham gia giao thong.

Trả lời: Tại công văn số 9582/BGTVT-KHĐT ngày 27/8/2018

Tuyến cao tốc Nội Bài – Lào Cai được Bộ GTVT phê duyệt đầu tư tại Quyết định số 3415/QĐ-BGTVT ngày 5/11/2007 và điều chỉnh tại Quyết định số 4165/QĐ-BGTVT ngày 04/11/2014, tổng mức đầu tư 31.132 tỷ đồng do Tổng công ty ĐTPT đường cao tốc Việt Nam [VEC] là chủ đầu tư. Dự án đưa vào khai thác toàn tuyến từ tháng 9/2014, trong đó đoạn Hà Nội – Yên Bái có quy mô cao tốc 4 làn xe; đoạn Yên Bái – Lào Cai có quy mô 2 làn xe.

Do kinh phí đầu tư tuyến cao tốc Nội Bài – Lào Cai lớn, nguồn thu phí của tuyến cao tốc theo phương án tài chính không đủ để hoàn vốn phần VEC vay lại nguồn vốn vay ADB [phải hỗ trợ từ các dự án cao tốc khác do VEC là chủ đầu tư]. Việc đầu tư hoàn chỉnh đoạn Yên Bái – Lào Cai từ 2 làn xe lên 4 làn xe theo đề xuất của cử tri trong dự án là không khả thi do làm tăng tổng mức đầu tư dẫn đến dự án không hoàn vốn do không khả thi về mặt tài chính.

Đồng thời, do nguồn vốn ngân sách nhà nước trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 bố trí cho Bộ GTVT khó khăn, không thể đầu tư hoàn chỉnh đoạn Yên Bái – Lào Cai từ 2 làn xe lên 4 làn xe tại thời điểm hiện nay. Bộ GTVT sẽ nghiên cứu đầu tư mở rộng tuyến đường khi huy động được nguồn lực.

113. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai hiện đã xuống cấp không phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, trên tuyến đường có nhiều đường ngang dân sinh không có gác chắn và biển cảnh báo nguy hiểm nguy cơ gây mất an toàn. Cử tri kiến nghị Bộ GTVT xem xét nâng cấp, mở rộng khổ đường sắt để nâng cao năng lực vận tải, tăng tốc độ chạy tàu, đồng bộ với khổ tiêu chuẩn quốc tế; bổ sung đường gom dân sinh 2 bên đường sắt kết nối với đường ngang, cống chui để phục vụ việc đi lại và sản xuất của nhân dân; đầu tư xây dựng hệ thống cảnh báo tự động ở các đường ngang không có rào chắn để đảm bảo an toàn giao thông đường sắt.

Trả lời: Tại công văn số 8887/BGTVT-KHĐT ngày 13/8/2018

Hiện nay Chiến lược, Quy hoạch phát triển GTVT đường sắt được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 214/QĐ-TTg ngày 10/02/2015 và Quyết định số 1468/QĐ-TTg ngày 24/8/2015 đã xác định bên cạnh việc cải tạo, nâng cấp tuyến đường sắt Yên Viên [Hà Nội] - Lào Cai khổ 1.000mm hiện có [không thực hiện mở rộng khổ đường], còn định hướng phát triển tuyến đường sắt khổ 1.435mm, đường đôi điện khí hoá Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng dài khoảng 380km và kết nối với Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng để đáp ứng nhu cầu vận tải bằng đường sắt trên hành lang Đông - Tây, tạo động lực phát triển và tăng cường kết nối hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Nam - Trung Quốc.

Đối với tuyến đường sắt hiện có, năm 2014, Bộ GTVT đã triển khai hoàn thành dự án cải tạo, nâng cấp giai đoạn 1 nhằm từng bước đảm bảo an toàn giao thông và nâng cao tốc độ chạy tàu như kiến nghị của cử tri. Đối với tuyến đường sắt mới Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, hiện nay, Bộ GTVT đang giao Cục Đường sắt Việt Nam phối hợp với tư vấn của phía Trung Quốc để thực hiện dự án hỗ trợ kỹ thuật lập quy hoạch chi tiết làm cơ sở báo cáo cấp có thẩm quyền triển khai nghiên cứu, chuẩn bị đầu tư Dự án theo định hướng Chiến lược, Quy hoạch phát triển đường sắt.

Đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan của địa phương phối hợp với Cục Đường sắt Việt Nam và tư vấn hỗ trợ kỹ thuật phía Trung Quốc trong quá trình nghiên cứu, lập quy hoạch tuyến đường sắt mới; đồng tăng cường phối hợp với Cục Đường sắt Việt Nam, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam trong việc đảm bảo an toàn giao thông đối với tuyến đường sắt hiện có trên địa bàn tỉnh.

114. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị Trung ương sớm bố trí vốn để triển khai thực hiện Dự án đường tránh Quốc lộ 53 đoạn từ chợ huyện Cầu Ngang đến xã Thuận Hòa, huyện Cầu Ngang để giúp lưu thông hàng hóa được thuận tiện.

Trả lời: Tại công văn số 9553/BGTVT-KHĐT ngày 27/8/2018

Tuyến tránh Quốc lộ 53 đoạn từ chợ huyện Cầu Ngang đến xã Thuận Hòa, huyện Cầu Ngang nằm trong Dự án cải tạo, nâng cấp QL53 đoạn Trà Vinh – Long Toàn, tỉnh Trà Vinh. Ngày 31/7/2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 556/NQ-UBTVQH14 về phương án sử dụng 15.000 tỷ đồng nguồn vốn dự phòng của Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 cho các dự án đường sắt và các dự án đường bộ quan trọng, cấp bách, trong đó đã phân bổ 800 tỷ đồng để đầu tư hoàn thiện QL53 đoạn Trà Vinh – Long Toàn. Hiện Bộ GTVT đang triển khai các thủ tục đầu tư theo quy định để sớm khởi công xây dựng công trình.

115. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Cử tri đề nghị Quốc hội, Chính phủ quan tâm, bố trí ngân sách hỗ trợ các tỉnh còn gặp khó khăn về cân đối ngân sách để cải tạo, nâng cấp các tuyến đường giao thông nông thôn, đường liên huyện, đường liên tỉnh đã xuống cấp nghiêm trọng ảnh hưởng đến an toàn giao thông, cụ thể như: Tuyến QL.39A đoạn qua thị trấn Hưng Hà; đoạn ĐH75 đi qua Quỳnh Thọ và Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ,...

Trả lời: Tại công văn số 9579/BGTVT-KHĐT ngày 27/8/2018

- Quốc lộ 39 đoạn qua thị trấn Hưng Hà thuộc gói thầu nâng cấp, mở rộng QL39 đoạn Triều Dương - Hưng Hà [RAI/CP13] thuộc dự án Quản lý tài sản đường bộ Việt Nam [VRAMP] sử dụng vốn vay Ngân hàng Thế giới, dự án triển khai thi công từ năm 2016, dự kiến hoàn thành tháng 7/2017, tuy nhiên do khó khăn về giải phóng mặt bằng [phạm vi thu hồi GPMB của gói thầu ảnh hưởng đến khoảng 3.000 hộ dân], dự án dự kiến thời gian hoàn thành 31/12/2018.

Hiện nay, Bộ GTVT đang yêu cầu chủ đầu tư phối hợp chặt chẽ với địa phương đẩy nhanh công tác GPMB, tăng cường thiết bị, nhân lực [đến nay đã bàn giao mặt bằng 18,6km/19km đạt 98%; thảm mặt đường 16/19km] để thi công sớm hoàn thành gói thầu, bao gồm cả đoạn qua thị trấn Hưng Hà, theo tiến độ nêu trên.

- Tuyến đường huyện ĐH75 đi qua huyện Quỳnh Thọ và Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ chiều dài 15,4km, quy mô đường cấp IV, 2 làn xe đang được UBND tỉnh Thái Bình triển khai thi công từ nguồn vốn ngân sách địa phương, vốn ngân sách trung ương và các nguồn vốn khác. Đề nghị UBND tỉnh Thái Bình tiếp tục cân đối, bố trí vốn để thực hiện đầu tư hoàn thành tuyến đường, trường hợp ngân sách địa phương khó khăn, đề nghị UBND tỉnh Thái Bình báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định hỗ trợ nguồn ngân sách trung ương; đồng thời báo cáo đến cử tri được biết về tiến độ thực hiện đầu tư tuyến đường.

116. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Cử tri cho rằng việc chấp hành Luật giao thông đường bộ của nhiều người dân vẫn chưa nghiêm, tình trạng vi phạm pháp luật giao thông nhưng không bị xử lý. Đề nghị Bộ GTVT xem xét, phối hợp với các ngành chức năng có những giải pháp triệt để đối phó với các hành vi vi phạm luật giao thong.

Trả lời: Tại công văn số 9235/BGTVT-ATGT ngày 20/8/2018

Trong những năm vừa qua công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông [TTATGT] luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.

Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 6 năm [từ 2012 ÷ 2017] tai nạn giao thông [TNGT] đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; đồng thời, trong 6 tháng đầu năm 2018 tình hình TNGT cũng giảm cả 03 tiêu chí, cụ thể: toàn quốc xảy ra 1.509 vụ, làm chết 627 người và làm bị thương 1.265 người. So với cùng kỳ năm 2017 giảm 60 vụ [giảm 3,82%], giảm 16 người chết [giảm 2,49%], giảm 83 người bị thương [giảm 6,16%]

Tuy nhiên, đúng như phản ảnh của cử tri, kết quả đạt được về công tác bảo đảm TTATGT chưa được như mong muốn và còn một số tồn tại hạn chế, như: số vụ tai nạn giao thông, số người chết vì tai nạn giao thông vẫn ở mức cao, vẫn còn xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa gây thiệt hại lớn về người và tài sản…một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do một số bộ phận người dân chưa chấp hành nghiêm các quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông.

Để chấn chỉnh tình trạng này, Bộ Giao thông vận tải đang chỉ đạo các đơn vị chức năng triển khai đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm về bảo đảm TTATGT theo chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, trong đó chú trọng một số nhóm giải pháp sau:

- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT một cách đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT, như: sửa đổi Nghị định quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, Nghị định quy định về kinh doanh dịch vụ đào tạo, sát hạch lái xe…theo hướng tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và hiệu lực thi hành pháp luật trong lĩnh vực an toàn giao thông.

- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm TTATGT; trong đó, nội dung tuyên truyền được thực hiện phong phú, phù hợp với thực tiễn của từng địa phương, nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân và doanh nghiệp trong công tác bảo đảm TTATGT.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT, trong đó tập trung vào một số nội dung, như: không tuân thủ quy định khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông, dừng, đỗ trái quy định, sử dụng hành lang an toàn đường bộ trái phép.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong phát hiện và xử lý đối với các hành vi vi phạm quy định của pháp luật khi tham gia giao thông.

- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động phối hợp liên ngành [Công an và Giao thông] trong triển khai các nhiệm vụ, giải pháp về bảo đảm trật tự an toàn giao thông, như: chia sẻ dữ liệu quản lý Giấy phép lái xe, kiểm soát tải trọng phương tiện, xử lý các vi phạm về TTATGT…

117. Cử tri TP Hà Nội kiến nghị: Cử tri phản ánh nhiều xã trên địa bàn huyện Thanh Trì, huyện Thường Tín có tuyến đường sắt đi qua nhưng chưa có Barie gây mất an toàn giao thông đường sắt xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Tổng công ty ĐSVN rà soát, lắp đặt Barie cảnh báo đường ngang dân sinh, đồng thời hoàn thiện các hành lang an toàn đường sắt trên địa bàn huyện Thanh Trì, huyện Thường Tín để đảm bảo an toàn giao thông.

Trả lời: Tại công văn số 9060/BGTVT-KCHT ngày 16/8/2018

1. Tuyến đường sắt Hà Nội – Tp. Hồ Chí Minh chạy qua địa bàn huyện Thanh Trì và huyện Thường Tín, Tp. Hà Nội với chiều dài là 23,8 km [từ Km7+300 đến Km31+100], có tổng số 48 đường ngang và 214 lối đi tự mở.

  1. Về đường ngang: đường ngang có người gác: 12 vị trí; đường ngang cảnh báo tự động: 35 vị trí; đường ngang biển báo: 01 vị trí. Trong thời gian qua, ngành đường sắt đã tập trung sửa chữa, nâng cấp hệ thống đường ngang, hàng rào, đường gom trên địa bàn huyện Thanh Trì và huyện Thường Tín, cụ thể như sau:

- Sửa chữa, nâng cấp từ đường ngang biển báo thành đường ngang cảnh báo tự động có lắp cần chắn tự động cho 17 đường ngang; lắp đặt cần chắn tự động cho 13 đường ngang;

- Đã xây dựng hàng rào, đường gom được 03 đoạn với gần 400m, từ Km21+100 đến Km21+202; từ Km22+375 đến Km22+564; từ Km 24+200 đến Km24+311. Dự kiến sẽ tiếp tục thực hiện xây dựng hàng rào, đường gom với 3 đoạn từ Km21+200 đến Km21+301; từ Km23+470 đến Km23+724; từ Km29+340 đến Km29+608;

- Phối hợp với địa phương để địa phương đầu tư kinh phí thực hiện xây dựng đoạn đường gom từ Km8+198 đến Km8+617 để xóa bỏ 35 lối đi tự mở.

  1. Về lối đi tự mở: theo quy định của Luật Đường sắt số 06/2017/QH14, việc quản lý và đảm bảo ATGT tại các lối đi tự mở thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp. Trong thời gian qua, ngành đường sắt đã phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện một số công việc như sau:

- Đã tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ, cung cấp thiết bị phòng vệ, tổ chức lắp điện thoại báo tàu cho 11 vị trí lối đi tự mở mà địa phương đã tổ chức cảnh giới, chốt gác;

- Đã lắp đặt thử nghiệm thiết bị tín hiệu đèn vàng nháy chớp và loa âm thanh cảnh báo có tàu tại 02 vị trí; thời gian tới, lập kế hoạch lắp đặt cho 51 vị trí có nguy cơ cao uy hiếp đến ATGT đường sắt.

2. Hiện tại, Bộ GTVT đã chỉ đạo Cục ĐSVN phối hợp Tổng công ty ĐSVN và chính quyền địa phương các cấp tập trung rà soát toàn bộ các vị trí giao cắt giữa đường bộ và đường sắt trên mạng lưới đường sắt quốc gia để xây dựng đề án “Xử lý các vị trí đường ngang, lối đi tự mở để đảm bảo ATGT đường sắt trên tuyến đường sắt quốc gia”, trình Chính phủ xem xét phê duyệt và bố trí kinh phí nhằm thực hiện lộ trình xóa bỏ các lối đi tự mở theo quy định tại Nghị định số 65/NĐ/2018/NĐ-CP của Chính phủ. Trước mắt, để tăng cường ATGT tại các lối đi tự mở trên địa bàn, đề nghị địa phương tiếp tục thực hiện Quy chế phối hợp số 33/QCPH-BGTVT-UBND; đồng thời, huy động các nguồn kinh phí để thực hiện xây dựng hệ thống đường gom, hàng rào cách ly với đường sắt để đóng, xóa các lối đi tự mở nhằm đảm bảo ATGT đường sắt.

118. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Hiện nay, lượng khách du lịch từ các địa phương đến Cao Bằng ngày càng tăng, kèm theo đó là nhu cầu đi lại, tham gia giao thông của các phương tiện, nhân dân trong và ngoài tỉnh, du khách nước ngoài cần được bảo đảm an toàn hơn. Do vậy, cử tri đề nghị cơ quan quản lý đường bộ tiến hành khảo sát các vị trí nguy hiểm, đèo, dốc trên toàn tuyến QL.3 và sớm xử lý sớm xử lý một số vướng mắc hiện nay để góp phần bảo đảm ATGT, cụ thể như sau:

- Mở rộng tầm nhìn, mặt đường tại các đoạn đường cong bán kính nhỏ;

- Bố trí đủ các biển báo hiệu “Khu vực đông dân cư” trên QL.3;

- Sớm khắc phục các điểm đen về tai nạn giao thông phát sinh theo từng năm;

- Thay thế biển báo hiệu đường bộ theo đúng QCVN 41:2016/BGTVT;

- Lắp đủ mắt phản quang trên hộ lan mềm, sơn phản quang tim đường, biển báo hiệu đường cong nguy hiểm, gờ giảm tốc trên các đoạn đường đèo dốc, đường cong bảo đảm ATGT.

Trả lời: Tại công văn số 9237/BGTVT-KCHT ngày 20/8/2018

QL.3 là tuyến đường giao thông kết nối thủ đô Hà Nội với các tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng đến cửa khẩu Quốc tế Tà Lùng đây là tuyến đường giao thông chính phục vụ vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu giữa 2 nước Việt Nam - Trung Quốc và phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, An ninh Quốc phòng các tỉnh Đông Bắc và cả nước.

Trong những năm qua, Bộ GTVT đã quan tâm bố trí nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản để nâng cấp, cải tạo toàn bộ tuyến đường, một số đoạn tuyến qua khu dân cư, đô thị được mở rộng nhằm đảm bảo an toàn giao thông. Tuy nhiên trên đoạn tuyến từ tỉnh Bắc Kạn - tỉnh Cao Bằng còn tồn tại các vị trí điểm đen, điểm tiềm ẩn mất an toàn giao thông mới phát sinh do tuyến đi qua nhiều đoạn đường đèo dốc, quang co nguy hiểm cần được sửa chữa, khắc phục.

Về công tác quản lý, vận hành khai thác và bảo trì tuyến đường QL.3. Trong các năm từ 2016 đến 2018, Tổng cục ĐBVN đã bố trí nguồn vốn Quỹ bảo trì đường bộ Trung ương đầu tư xử lý các vị trí điểm đen, điểm mất ATGT và chỉnh trang lại hệ thống ATGT theo QCVN 41:2016/BGTVT với kết quả cụ thể như sau:

- Năm 2016 đã xử lý các vị trí điểm đen, điểm tiềm ẩn mất ATGT tại các vị trí: Km168+170-Km168+830; Km199+750-Km199+800; Km253+600-Km253+680; Km259+00-Km259+060; Km101+500-Km101+650; Km102+150-Km103+400; Km105+900-Km106+050; Km181+075-Km181+500; Km300+280;

- Năm 2017 đã chỉnh trang hệ thống ATGT đoạn Km100-Km344+436; bổ sung đảo phân cách mềm ngã ba dẫn hướng Km56+600;

- Năm 2018 đang triển khai xử lý điểm đen, mất ATGT tại các vị trí: Km107+100; Km108+200-Km108+350; Km112+00-Km112+100; Km121+800; Km126+900-Km127+500; Km137+250; Km137+600; Km141+050-Km141+150; Km144+00; Km182+600-Km182+700; Km194+750-Km194+850; Km204+150- Km204+250;

- Về xử lý kiến nghị của cử tri tỉnh Cao Bằng. Ngày 25/7/2018, Cục Quản lý đường bộ I đã phối hợp với Ban ATGT tỉnh Cao Bằng, Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Cao Bằng, đại diện đơn vị quản lý, vận hành khai thác tuyến đường QL.3 tiến hành kiểm tra rà soát các vị trí điểm đen, điểm tiềm ẩn mất ATGT trên đoạn tuyến từ Km239+414-Km344+436 tỉnh Cao Bằng. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, Cục Quản lý đường bộ I đã kiến nghị Bộ GTVT, Tổng cục ĐBVN chấp thuận xử lý 03 vị trí điểm đen tại: Km250+200-Km250+500, Km254+400-Km254+550, Km291+050-Km291+200 và 06 điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông tại: Km253+500-Km253+700, Km272+600-Km272+800, Km283+650-Km283+900, Km292+700-Km292+800, Km295+900-Km296+050, Km312+400-Km312+500. Đến nay, Tổng cục ĐBVN đang rà soát báo cáo Bộ GTVT chấp thuận và bố trí vốn để sớm triển khai thực hiện theo kiến nghị của Cục Quản lý đường bộ I nhằm đảm bảo ATGT trên tuyến QL.3.

Trong thời gian tới, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chỉ đạo Tổng cục ĐBVN kiểm tra, rà soát việc xử lý các đoạn cong cua, khuất tầm nhìn; bố trí biển báo “Khu vực đông dân cư”; sửa chữa, thay thế hệ thống ATGT cho phù hợp.

119. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ cần chỉ đạo xử lý nghiêm người có trách nhiệm và người trực tiếp quản lý trật tự an toàn giao thông đường sắt, người điều khiển phương tiện giao thông đã để xảy ra liên tục các vụ tai nạn giao thông đường sắt trong thời gian qua.

Trả lời: Tại công văn số 8513/BGTVT-ATGT ngày 03/8/2018

Trong những năm vừa qua công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông [TTATGT] luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.

Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 5 năm [từ 2012 ÷ 2017] tai nạn giao thông đường sắt [TNGT] đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; bên cạnh đó, trong 06 tháng đầu năm 2018 [từ ngày 16/12/2017 đến 15/6/2018], cả nước xảy ra 143 vụ, làm chết 67 người, làm bị thương 104 người. So với cùng kỳ năm 2017 giảm 27 vụ [-16,4%], giảm 08 người chết [-10,7%], giảm 17 người bị thương [-14%].

Tuy nhiên, đúng như phản ánh của cử tri, tình hình TTATGT đường sắt diễn ra khá phức tạp, đặc biệt trong tháng 5 năm 2018, trên tuyến đường sắt Hà Nội – thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra liên tiếp 05 vụ sự cố, tai nạn giao thông đường sắt nghiêm trọng, trong đó có 03 vụ sự cố, tai nạn do lỗi chủ quan của ngành đường sắt gây ra, hậu quả làm 02 người chết và 11 người bị thương, gây thiệt hại lớn về người và tài sản cũng như ảnh hưởng đến uy tín của ngành Giao thông vận tải nói chung và đường sắt nói riêng.

Để chấn chỉnh tình trạng này, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Cục Đường sắt Việt Nam và Tổng công ty Đường sắt Việt Nam xử lý nghiêm trách nhiệm các tổ chức, cá nhân có liên quan, đặc biệt là vai trò của người đứng đầu các đơn vị để xảy ra tai nạn do lỗi chủ quan gây ra, cụ thể như sau:

- Đối với các vụ tai nạn đường sắt thời gian qua, Bộ GTVT đã kịp thời có các văn bản chỉ đạo Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Cục Đường sắt Việt Nam và các đơn vị có liên quan tăng cường các giải pháp nhằm bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường sắt và xử lý nghiêm trách nhiệm các tổ chức, cá nhân có liên quan đến các vụ tai nạn giao thông đường sắt nghiêm trọng vừa qua. Trong đó, Cục Đường sắt Việt Nam đã kỷ luật khiển trách đối với 03 công chức; hình thức phê bình nghiêm khắc đối với 11 công chức; Tổng công ty ĐSVN đã kỷ luật đối với 02 tập thể và 35 cá nhân vi phạm, cụ thể: phê bình nghiêm khắc đối với 06 cá nhân; khiển trách đối với 09 cá nhân [trong đó, có 01 đồng chí Phó Tổng giám đốc Tổng công ty]; cảnh cáo đối với 01 cá nhân; cách chức đối với 03 cá nhân; sa thải đối với 02 cá nhân và kéo dài thời hạn nâng lương đối với 13 cá nhân.

- Đối với Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Bộ GTVT đã có văn bản số 8156/BGTVT-TCCB ngày 26/7/2018 phê bình nghiêm khắc tập thể Hội đồng thành viên Tổng công ty; phê bình nghiêm khắc ông Vũ Anh Minh, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty và ông Vũ Tá Tùng, Thành viên Hội đồng thành viên – Tổng Giám đốc Tổng công ty, do chưa có các giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa các nguy cơ gây mất an toàn giao thông đường sắt. Giao Hội đồng thành viên thực hiện việc phê bình nghiêm khắc đối với Ban điều hành của Tổng công ty và có hình thức xử lý kỷ luật đối với Ông Đoàn Duy Hoạch – Phó Tổng giám đốc Tổng công ty, do chưa có các giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa các nguy cơ gây mất an toàn giao thông đường sắt.

- Đối với Cục Đường sắt Việt Nam, Bộ GTVT đã có văn bản số 8157/BGTVT-TCCB ngày 26/7/2018 phê bình nghiêm khắc Tập thể lãnh đạo Cục Đường sắt Việt Nam và cá nhân ông Vũ Quang Khôi - Cục trưởng, do chưa có các giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa các nguy cơ gây mất an toàn giao thông đường sắt, đặc biệt là trách nhiệm trong công tác quản lý nhà nước của Cục đối với hoạt động giao thông vận tải đường sắt, trách nhiệm trong công tác chỉ đạo đối với lực lượng làm công tác thanh tra, kiểm tra của Cục Đường sắt Việt Nam.

Để tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm giảm thiểu các vụ tai nạn giao thông đường sắt trong thời gian tới, Bộ GTVT đã và đang chỉ đạo Cục Đường sắt Việt Nam và Tổng công ty Đường sắt Việt Nam thực hiện một số nội dung sau:

1. Nghiên cứu đẩy nhanh tiến độ xây dựng Đề án đường sắt Bắc - Nam tốc độ cao trình Quốc hội.

2. Rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT đường sắt; đề xuất các giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý an toàn giao thông đường sắt.

3. Yêu cầu lãnh đạo Tổng công ty Đường sắt Việt Nam tập trung bám sát hiện trường rà soát, kiểm tra, giám sát, siết chặt kỷ cương trong công tác bảo đảm TTATGT đường sắt; đánh giá mô hình tổ chức của đơn vị, đặc biệt là bộ máy làm công tác an toàn để có điều chỉnh phù hợp; tổ chức huấn luyện, sát hạch lại đối với các chức danh làm các công việc trực tiếp liên quan đến an toàn chạy tàu như: lái tàu, điều độ chạy tàu, trực ban, gác ghi, gác chắn…, quan tâm tới chế độ tiền lương và đời sống của người lao động trong Tổng công ty.

4. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 994/QĐ-TTg ngày 19/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch lập lại trật tự hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sắt giai đoạn 2017 – 2020; thực hiện tốt Quy chế phối hợp giữa Bộ GTVT và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có đường sắt đi qua trong việc đảm bảo TTATGT tại các điểm giao cắt đồng mức giữa đường bộ và đường sắt. Trong đó, tập trung xử lý 4.200 lối đi tự mở trái phép tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông như: thu hẹp nhỏ hơn 2,5 m, làm đường gom, xây dựng gờ giảm tốc; cương quyết không để phát sinh thêm các lối đi tự mở trái phép.

5. Yêu cầu Cục Đường sắt Việt Nam đánh giá, củng cố hoạt động của Thanh tra Cục nhằm tăng cường vai trò, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, đặc biệt là thanh tra, kiểm tra phải theo hệ thống; kiện toàn lực lượng thanh tra đường sắt mang tính chuyên nghiệp cao.

6. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bảo đảm TTATGT; vận động các tổ chức, cá nhân tự tháo dỡ các công trình lấn chiếm, xây dựng trái phép trong phạm vi chỉ giới hành lang an toàn giao thông đường sắt, từng bước tạo lập môi trường giao thông vận tải đường sắt thông thoáng, thuận lợi, trật tự và an toàn.

120. Cử tri tỉnh Ninh Bình kiến nghị: Nút giao thông giữa đường Trần Hưng Đạo QL.1 qua thành phố Ninh Bình với đường Thảm Len cũ [nay là ngõ 389 đường Trần Hưng Đạo Km261+640] gây mất an toàn, khó khăn cho việc đi lại của người dân. Cử tri đề nghị Tổng cục ĐBVN xem xét giải quyết đóng nút giao thông này và mở nút giao giữa đường Trần Hưng Đạo và đương Lưu Cơ [Km261+500] để phục vụ nhu cầu đi lại thuận tiện an toàn của người tham gia giao thông…

Trả lời: Tại công văn số 9527/BGTVT-KCHT ngày 27/8/2018

Ngay sau khi nhận được ý kiến của cử tri tỉnh Ninh Bình về việc đóng nút giao tại Km261+640 và mở nút giao tại Km261+500 trên QL.1; Tổng cục Đường bộ Việt Nam [ĐBVN] đã chỉ đạo Cục quản lý đường bộ 1 cùng Sở GTVT Ninh Bình kiểm tra hiện trường. Tại buổi kiểm tra, các bên đã thống nhất phương án tổ chức giao thông tại Km261+640 và Km261+500 trên QL.1 theo ý kiến kiến nghị của Cử tri tỉnh Ninh Bình. Theo báo cáo của Tổng cục ĐBVN, công tác triển khai và thực hiện sẽ hoàn thành trong tháng 9 năm 2018.

121. Cử tri các tỉnh Long An, Đồng Tháp, Yên Bái, thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị các Bộ, ngành có liên quan cần thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để hạn chế tai nạn giao thông; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn giao thông; tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về an toàn giao thông nhằm nâng cao nhận thức của người tham gia giao thông.

Trả lời: Tại công văn số 9228/BGTVT-ATGT ngày 20/8/2018

Trong những năm vừa qua công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông [TTATGT] luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về bảo đảm TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.

Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 6 năm [từ 2012 ÷ 2017] tai nạn giao thông [TNGT] đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; đồng thời, trong 6 tháng đầu năm 2018 tình hình TNGT cũng giảm cả 03 tiêu chí, cụ thể: toàn quốc xảy ra 1.509 vụ, làm chết 627 người và làm bị thương 1.265 người. So với cùng kỳ năm 2017 giảm 60 vụ [giảm 3,82%], giảm 16 người chết [giảm 2,49%], giảm 83 người bị thương [giảm 6,16%]

Tuy nhiên, đúng như phản ảnh của cử tri, kết quả đạt được về công tác bảo đảm TTATGT chưa được như mong muốn và còn một số tồn tại hạn chế, như: số vụ tai nạn giao thông, số người chết vì tai nạn giao thông vẫn ở mức cao, vẫn còn xảy ra một số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa gây thiệt hại lớn về người và tài sản, một số cán bộ trong quá trình thực thi công vụ vẫn chưa nghiêm, có biểu hiện tiêu cực gây ra bức xúc trong dư luận xã hội…; đây thực sự là thách thức và là nguy cơ, hiểm họa tiềm ẩn đối với an sinh, trật tự, an toàn xã hội.

Để chấn chỉnh tình trạng này, Bộ Giao thông vận tải đang chỉ đạo các đơn vị chức năng triển khai đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm về bảo đảm TTATGT theo chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, trong đó chú trọng một số nhóm giải pháp sau:

- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT một cách đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT; trong đó, tập trung sửa đổi Nghị định quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, Nghị định quy định về kinh doanh dịch vụ đào tạo, sát hạch lái xe…theo hướng tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và hiệu lực thi hành pháp luật trong lĩnh vực an toàn giao thông.

- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm TTATGT; trong đó, theo chủ đề Năm an toàn giao thông hàng năm, các đơn vị chức năng đã và đang đẩy mạnh triển khai tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức, phù hợp với thực tiễn của từng địa phương, nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân và doanh nghiệp trong công tác bảo đảm TTATGT.

- Triển khai rà soát, xử lý các điểm đen, điểm tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông trên đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa; thực hiện điều chỉnh, bổ sung hợp lý hệ thống báo hiệu đường bộ, thiết bị an toàn giao thông, bổ sung rào hộ lan, đường cứu nạn trên các tuyến đường bộ qua khu vực đèo dốc quanh co; tăng cường thực hiện công tác thẩm tra ATGT đối với các dự án xây dựng mới, nâng cấp cải tạo đường bộ và các tuyến đường bộ đang khai thác có nguy cơ mất an toàn giao thông cao.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực, như: thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt động kinh doanh, điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, hoạt động các bến xe ô tô khách; việc chấp hành các quy định pháp luật trong công tác đăng kiểm phương tiện xe cơ giới đường bộ, đào tạo sát hạch lái xe.

- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của các lực lượng thực thi công vụ, nhiệm vụ về bảo đảm TTATGT, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với cán bộ, nhân viên vi phạm; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành hoạt động vận tải, khai thác hạ tầng giao thông và kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về TTATGT.

122. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Hiện tượng vượt hàng rào vi phạm hành lang an toàn giao thông, băng qua dải phân cách cứng… để bắt xe là hành vi diễn ra tại nhiều nút trên một số tuyến cao tốc. Hành vi trên không chỉ vi phạm Luật Giao thông đường bộ mà còn là một trong những nguyên nhân khiến số vụ va chạm, tai nạn giao thông luôn tiền ẩn gia tăng. Nguyên nhân khiến tình trạng trên xuất hiện là do nhu cầu bắt xe khách trên dọc tuyến cao tốc của người dân quá lớn trong khi cơ sở hạ tầng của hệ thống đường gom, trạm dừng nghỉ chưa đáp ứng hết nhu cầu vận chuyển hành khách, sử dụng dịch vụ xe khách của người dân… Cùng với đó một bộ phận người dân còn thiếu ý thức, chủ xe cố ý đón trả khách dọc đường cao tốc nên phần nào tiếp tay cho hành vi thiếu ý thức này. Đề nghị lực lượng chức năng xử lý nghiêm tình trạng dừng, đón trả khách không đúng quy định trên đường cao tốc nhằm đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông.

Trả lời: Tại công văn số 9511/BGTVT-ATGT ngày 27/8/2018

Trong những năm vừa qua công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông [TTATGT] luôn được Đảng , Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương và cả xã hội quan tâm vào cuộc; nhiều giải pháp cấp bách và lâu dài về đảm bảo TTATGT đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ trên phạm vi cả nước.

Kết quả, tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc đã có những chuyển biến tích cực; liên tiếp trong 6 năm [từ 2012 ÷ 2017] tai nạn giao thông [TNGT] đã được kiềm chế và giảm cả ba tiêu chí; đồng thời, trong 6 tháng đầu năm 2018 tình hình TNGT cũng giảm cả 03 tiêu chí, cụ thể: toàn quốc xảy ra 1.509 vụ, làm chết 627 người và làm bị thương 1.265 người. So với cùng kỳ năm 2017 giảm 60 vụ [giảm 3,82%], giảm 16 người chết [giảm 2,49%], giảm 83 người bị thương [giảm 6,16%]. Tình hình TNGT đường bộ đã có chuyển biến tích cực tuy nhiên vẫn còn một số tai nạn thương tâm liên quan tới việc đón trả khách trên đường cao tốc.

Tuy nhiên, đúng như phản ảnh của cử tri, do nguồn lực còn hạn chế, hệ thống hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, đồng thời ý thức tham gia giao thông của một số bộ phận người dân còn hạn chế, dẫn đến nguy cơ mất an toàn giao thông còn cao; đặc biệt là trên hệ thống đường bộ cao tốc, tình trạng xe khách dừng, đón trả khách không đúng nơi quy định và tình trạng người dân cố ý vượt hàng rào bảo vệ hành lang an toàn đường bộ để tham gia giao thông trên đường cao tốc đang diễn ra khá phổ biến.

Để chấn chỉnh tình trạng này, Bộ Giao thông vận tải đã và đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa thực hiện một số giải pháp như sau:

- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các quy định liên quan tới quản lý, quy hoạch các vị trí đường gom, trạm dừng nghỉ, điểm đón trả khách trên các tuyến đường bộ đảm bảo hợp lý, khoa học, thuận tiện, đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân, theo tình hình thực tế; đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm TTATGT trên đường cao tốc; đồng thời, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và hiệu lực thi hành pháp luật trong lĩnh vực an toàn giao thông trên đường cao tốc;

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT trên đường cao tốc; đặc biệt đối với tình trạng cố ý vi phạm các quy định về bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường; đồng thời tăng cường khai thác dữ liệu từ thiết bị giám sát hành trình để xử lý nghiêm theo quy định đối với trường hợp xe dừng, đỗ trái quy định.

- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, khai thác trên đường bộ cao tốc; trong đó chú trọng lắp đặt hệ thống camera giám sát trên đường cao tốc, nhằm phát hiện và xử lý kịp thời đối với các trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông.

- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm TTATGT trên đường cao tốc; chú trọng tuyên truyền đến các khu vực dân cư hai bên đường; nội tuyên truyền với nhiều hình thức, phù hợp với thực tiễn của từng địa phương, nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân và doanh nghiệp.

- Tiếp tục phối hợp với các địa phương rà soát, xây dựng hệ thống đường gom, các vị trí điểm dừng đón trả khách bên ngoài phạm vi đường cao tốc; bảo đảm sự kết nối đồng bộ với tuyến đường, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân.

123. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Tại nút giao cắt giao thông ngã tư Sòng [nút giao QL.1 với QL.9 đoạn nối dài về Cửa Việt] nên có hệ thống đèn xanh đèn đỏ để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện lưu thông qua khu vực này vì hiện nay lưu lượng người và phương tiện tham gia giao thông rất đông, trong đó có nhiều trường học, chợ. Kiến nghị Bộ GTVT và Tổng cục ĐBVN xem xét, giải quyết.

Trả lời: Tại công văn số 9240/BGTVT-KCHT ngày 20/8/2018

- Nút giao ngã tư Sòng là nút giao giữa QL.1 và QL.9 thuộc địa phận xã Cam Thanh, xã Cam An, huyện Cam Lộ. Lưu lượng người và phương tiện tham gia giao thông qua nút tương đối lớn, gần khu vực nút giao có nhiều trường học, chợ và cửa hàng xăng dầu. Nút giao thuộc dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng QL.1 theo hình thức BOT [nhà đầu tư là Công ty TNHH BOT Quảng Trị], đã đưa vào khai thác, sử dụng từ năm 2016. QL.1 đoạn qua nút giao có địa hình bằng phẳng, nền đường rộng 20,5m; mặt đường rộng 19,5m; kết cấu mặt đường bê tông nhựa. QL.9 đoạn qua nút giao có địa hình bằng phẳng; nền đường rộng 12 m; mặt đường rộng 11 m; kết cấu mặt đường bê tông nhựa.

- Nút giao đã được bố trí đầy đủ hệ thống biển báo hiệu đường bộ, vạch sơn kẻ đường theo đúng quy định. Từ khi dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng QL.1 hoàn thành, đưa vào khai thác, sử dụng tháng 7/2016 đến nay, chưa xảy ra tai nạn giao thông. Tuy nhiên, do lưu lượng người và phương tiện tham gia giao thông qua nút giao ngày càng tăng việc tổ chức giao thông tại nút giao bằng hệ thống đèn tín hiệu là cần thiết. Bộ GTVT yêu cầu Tổng cục ĐBVN chỉ đạo Cục QLĐB II kiểm tra, theo dõi chặt chẽ tình hình giao thông tại nút giao nêu trên; đề xuất triển khai lắp đặt hệ thống đèn tín hiệu giao thông khi cần thiết để đảm bảo an toàn, thuận lợi cho người và phương tiện lưu thông qua khu vực.

124. Cử tri tỉnh Thừa Thiên – Huế kiến nghị: Hiện nay, một số tuyến đường dân sinh băng qua tuyến đường sắt nhưng chưa có hệ thống rào chắn, gây mất an toàn giao thông. Đề nghị Bộ kiểm tra, rà soát để có giải pháp hạn chế tình trạng này.

Trả lời: Tại công văn số 9195/BGTVT-KCHT ngày 20/8/2018

1. Tuyến đường sắt Hà Nội – Tp. Hồ Chí Minh chạy qua địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế với chiều dài là 101,1 km [từ Km655+100 đến Km756+200], có tổng số 63 đường ngang và 90 lối đi tự mở.

  1. Về đường ngang: đường ngang có người gác có 26 vị trí; đường ngang cảnh báo tự động có 22 vị trí; đường ngang biển báo có 15 vị trí. Trong thời gian qua, ngành đường sắt đã tập trung sửa chữa, nâng cấp hệ thống đường ngang, hàng rào, đường gom trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, cụ thể như sau:

- Đã xây dựng hàng rào, đường gom được 11 đoạn với gần 6397 m, bao gồm từ Km682+303 đến Km682+910; từ Km691+442 đến Km691+760; từ Km692+733 đến Km693+340; từ Km695+386 đến Km695+800; từ Km697+580 đến Km 698+100; từ Km700+780 đến Km701+600; từ Km704+853 đến Km705+440; từ Km705+440 đến Km705+850; từ Km707+697 đến Km707+980; từ Km707+980 đến Km708+850; từ Km714+250 đến Km714+986;

- Dự kiến sẽ tiếp tục thực hiện xây dựng hàng rào, đường gom với 6.551 m gồm 11 đoạn từ Km674+705 đến Km675+030; từ Km679+027 đến Km679+380; từ Km686+200 đến Km687+150; từ Km687+790 đến Km687+915; từ Km689+075 đến Km689+200; từ Km690+380 đến Km690+772; từ Km690+772 đến Km691+442; từ Km699+120 đến Km699+350; từ Km703+602 đến Km703+950; từ Km710+037 đến Km710+585; từ Km713+300 đến Km713+680; từ Km715+640 đến Km716+220; từ Km718+600 đến Km718+880; từ Km731+430 đến Km731+900; từ Km735+250 đến Km735+800;

- Kế hoạch sửa chữa, nâng cấp từ đường ngang biển báo thành đường ngang cảnh báo tự động có lắp cần chắn tự động cho 12 đường ngang; lắp đặt cần chắn tự động cho 19 đường ngang cảnh báo tự động.

  1. Về lối đi tự mở: theo quy định của Luật Đường sắt số 06/2017/QH14, việc quản lý và đảm bảo ATGT tại các lối đi tự mở thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp. Trong thời gian qua, ngành đường sắt đã phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện thu hẹp và cắm biển “Chú ý tàu hỏa” được 44 vị trí. Tổ chức chốt gác tại 01 đường ngang tại Km713+630 tuyến đường sắt Hà Nội TP. Hồ Chí Minh; xóa bỏ được 20 lối đi dân sinh tự phát; kết nối tín hiệu đường bộ đường sắt tại 02 đường ngang tại Km686+576 và Km687+180.

2. Hiện tại, Bộ GTVT đã chỉ đạo Cục ĐSVN phối hợp Tổng công ty ĐSVN và chính quyền địa phương các cấp tập trung rà soát toàn bộ các vị trí giao cắt giữa đường bộ và đường sắt trên mạng lưới đường sắt quốc gia để xây dựng đề án “Xử lý các vị trí đường ngang, lối đi tự mở để đảm bảo ATGT đường sắt trên tuyến đường sắt quốc gia”, trình Chính phủ xem xét phê duyệt và bố trí kinh phí nhằm thực hiện lộ trình xóa bỏ các lối đi tự mở theo quy định tại Nghị định số 65/NĐ/2018/NĐ-CP của Chính phủ. Trước mắt, để tăng cường ATGT tại các lối đi tự mở trên địa bàn, đề nghị địa phương tiếp tục thực hiện Quy chế phối hợp số 13/QCPH-BGTVT-UBND; đồng thời, huy động các nguồn kinh phí để thực hiện xây dựng hệ thống đường gom, hàng rào cách ly với đường sắt để đóng, xóa các lối đi tự mở nhằm đảm bảo ATGT đường sắt.

125. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Trên tuyến đường Hồ Chí Minh qua địa bàn tỉnh Quảng Nam hết sức hiểm trở, nhất là đoạn qua đèo Lò Xo, huyện Phước Sơn thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông. Đề nghị Bộ GTVT chỉ đạo mở đường tránh những điểm đen, đầu tư gắn gương cầu lồi, biển báo chỉ dẫn giao thông, xây dựng hộ lan đường bộ cao hơn hiện nay để đảm bảo lưu thông và khắc phục tình trạng tai nạn giao thông qua đoạn đèo này.

Trả lời: Tại công văn số 9194/BGTVT-KCHT ngày 20/8/2018

1. Trước tình hình tại nạn giao thông gia tăng trong thời gian vừa qua trên đoạn đèo Lò Xo, Bộ GTVT đã tổ chức họp, bàn về các giải pháp tổng thể đảm bảo ATGT khu vực đèo Lò Xo trên đường Hồ Chí Minh, trong đó đề xuất 04 nhóm giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng thường tai nạn giao thông và đảm bảo ATGT qua đèo Lò Xo đi qua địa bàn hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum, cụ thể như sau:

  1. Nhóm giải pháp thứ nhất: sửa chữa đột xuất cấp bách điểm đen đèo Lò Xo, bao gồm công trình hệ thống an toàn giao thông nhằm hướng dẫn, cảnh báo nâng cao an toàn giao thông, lắp đặt các cụm biển báo hạn chế tốc độ, lắp camera giám sát, bổ sung sơn kẻ đường, đinh phản quang, gờ giảm tốc, các biển cảnh báo nguy hiểm; bố trí điểm dừng kiểm tra kỹ thuật xe; tăng cường thiết bị hộ lan phòng hộ; trồng cây tại các vị trí taluy âm, ... nhằm hạn chế, ngăn ngừa các vụ tai nạn giao thông thảm khốc do xe lao xuống vực cho tổng thể cả đoạn đèo Lò Xo. Đối với giải pháp này, hiện nay Tổng cục ĐBVN đang triển khai thực hiện.
  1. Nhóm giải pháp thứ hai: về sửa chữa, bổ sung một số kết cấu hạ tầng đường bộ bao gồm: [i] sửa chữa các đường cứu nạn hiện có, bổ sung một số hốc cứu nạn; [ii] sửa chữa, cạp cục bộ, vuốt nối, nắn chỉnh cục bộ, mở rộng một số đường cong nguy hiểm. Căn cứ vào nguồn kinh phí bảo trì được cấp hàng năm, nhóm giải pháp này sẽ được thực hiện trong kế hoạch bảo trì năm 2019 và các năm tiếp theo.
  1. Nhóm giải pháp thứ ba: phối hợp với các lực lượng chức năng dịa phương tăng cường tuần tra kiểm soát, tuyên truyền, xử lý các vi phạm về trật tự an toàn giao thông: [i] xử lý vi phạm về tốc độ, đi đúng làn đường; [ii] xử lý vi phạm về xe quá khổ, quá tải; [iii] xử lý kiểm tra nồng độ cồn, ma túy của lái xe; [iv] tuyên truyền về kỹ thuật lái xe khi đổ đèo nguy hiểm; [v] thiết lập đường dây nóng xử lý các vấn đề về trật tự ATGT về kết cấu và hành lang đường bộ.

Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Tổng cục ĐBVN phối hợp với các lực lượng chức năng tại địa phương [lực lượng Cảnh sát giao thông tỉnh, Thanh tra giao thông, Ban ATGT tỉnh] để tăng cường tuần tra, kiểm soát để xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ; xem xét việc dừng kiểm tra phương tiện trước khi đổ dốc xuống đèo, nếu không đủ điều kiện an toàn về người lái và phương tiện thì không cho phép phương tiện lưu thông.

  1. Nhóm giải pháp thứ tư: đây là nhóm giải pháp lâu dài, cần phải có nguồn kinh phí lớn, như xử lý cải tạo cục bộ, nắn chỉnh một số đoạn tuyến điạ hình cua dốc lớn, nguy hiểm bằng công trình cầu cạn, hầm, kè và cải nắn cục bộ một số đường cong khối lượng lớn.

2. Trước mắt, Bộ GTVT chỉ đạo quyết liệt Tổng cục ĐBVN, các cơ quan tham mưu ưu tiên bố trí kinh phí, tập trung nguồn lực và đôn đốc các cơ quan liên quan thực hiện tốt ba giải pháp đầu tiên nhằm nhằm giảm thiểu tình trạng tai nạn giao thông và đảm bảo ATGT qua đèo Lò Xo, đường Hồ Chí Minh qua địa bàn hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum.

126. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Nhiều cử tri ở 03 xã trong vùng đặt trạm thu phí BOT Cà Ná tiếp tục kiến nghị Bộ GTVT xem xét, miễn 100% phí qua trạm BOT Cà Ná cho các phương tiện ôtô không sử dụng kinh doanh của các hộ dân trên địa bàn 03 xã: Cà Ná, Phước Diêm, Phước Minh [không tính đến phạm vi bán kính]; phương tiện ôtô sử dụng kinh doanh của các hộ dân thuộc diện bồi thường, giải phóng mặt bằng để xây dựng trạm thu phí và phương tiện ôtô sử dụng kinh doanh của các hộ dân sinh sống trong phạm vi 150m tính từ tâm trạm thu phí. Giảm 60% giá vé đối với các phương tiện sử dụng kinh doanh trên địa bàn Cà Ná, Phước Diêm, Phước Minh.

Trả lời: Tại công văn số 9276/BGTVT-ĐTCT ngày 21/8/2018

Trạm thu phí Cà Ná đặt tại Km1584+100, QL1, tỉnh Ninh Thuận được sử dụng để thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ hoàn vốn đầu tư các dự án xây dựng công trình mở rộng QL1 đoạn qua tỉnh Ninh Thuận và mở rộng tuyến tránh TP. Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận theo hình thức hợp đồng BOT. Đối tượng phải thanh toán giá dịch vụ và đối tượng được miễn giá dịch vụ sử dụng đường bộ được quy định cụ thể tại Thông tư số 35/2016/TT-BGTVT ngày 15/11/2016 của Bộ GTVT [trước đây đối tượng chịu phí và các trường hợp được miễn phí được quy định tại Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính]. Trạm Cà Ná là trạm thu giá dịch vụ theo lượt [thu hở], áp dụng phù hợp cho việc đặt trên các tuyến quốc lộ, chính vì thu theo lượt nên không thể đảm bảo công bằng tuyệt đối cho tất cả các phương tiện như thu theo chiều dài quãng đường sử dụng trên các tuyến đường bộ cao tốc, kiểm soát được sự ra vào tuyến đường [thu kín].

Đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, các phương tiện giao thông của các hộ dân đang sinh sống, sản xuất tại khu vực đặt trạm thu phí như kiến nghị của quý Đoàn là các phương tiện không thuộc đối tượng được miễn giá dịch vụ sử dụng đường bộ. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến cử tri cũng như phản ánh của dư luận trong thời gian qua và trên cơ sở ý kiến các tỉnh, thành phố có trạm thu phí, Bộ GTVT đã tổng hợp và đưa ra chủ trương giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ cho các phương tiện của các hộ dân khu vực lân cận trạm thu phí, áp dụng chung cho tất cả các trạm trên các tuyến quốc lộ trên cả nước [văn bản số 11519/BGTVT-ĐTCT ngày 11/10/2017]. Đối với trạm thu phí Cà Ná, trên cơ sở kiến nghị của UBND tỉnh Ninh Thuận, Bộ GTVT đã có văn bản số 1509/BGTVT-ĐTCT ngày 07/02/2018 chấp thuận giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ cho một số phương tiện khu vực lân cận trạm; việc giảm giá này tương tự như đã thực hiện với các trạm thu phí khác trên toàn quốc.

Bên cạnh đó, tại buổi làm việc của Bộ GTVT với Lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận ngày 16/3/2018, các nội dung liên quan đến miễn, giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ của 03 xã khu vực lân cận trạm thu phí Cà Ná đã được Lãnh đạo tỉnh Ninh Thuận kiến nghị,các bên trao đổi và Bộ trưởng Bộ GTVT kết luận tại Thông báo số 135/TB-BGTVT ngày 20/3/2018. Theo đó, Bộ GTVT đã giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam phối hợp Nhà đầu tư xem xét cụ thể các phương tiện thuộc đối tượng miễn, giảm trong phạm vi 03 xã theo đề xuất của UBND tỉnh Ninh Thuận để chấp thuận trong trường hợp phương án tài chính dự án khả thi và Nhà đầu tư đồng thuận, đồng thời đề nghị Tỉnh chia sẻ nguyên tắc thực hiện thống nhất chung cả nước, không có đối tượng bị ảnh hưởng giải phóng mặt bằng vì chính sách đền bù giải phóng mặt bằng đã tuân thủ quy định pháp luật.

127. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Việc thi công dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn qua địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo hình thức BOT đã gây nứt 779 nhà ở của người dân trong vùng dự án [tổng thiệt hại khoảng 8,5 tỷ đồng]. Nội dung này đã được cử tri phản ánh nhiều lần nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết. Cử tri tiếp tục đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành liên quan sớm có giải pháp hỗ trợ những hộ dân có nhà bị ảnh hưởng do công tác thi công thực hiện dự án.

Trả lời: Tại công văn số 9229/BGTVT-CQLXD ngày 20/8/2018

Nội dung kiến nghị của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh Thuận nằm trong tồn tại chung về việc xử lý hỗ trợ, bồi thường cho nhà ở, công trình nằm ngoài phạm vi GPMB bị ảnh hưởng do quá trình thi công các dự án đầu tư xây dựng mở rộng QL1 đoạn Thanh Hóa - Cần Thơ và các dự án đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, đã được Bộ Giao thông vận tải đặc biệt quan tâm nghiên cứu giải pháp xử lý.

Thực tế trong những năm qua, Bộ Giao thông vận tải đã tích cực phối hợp với chính quyền các địa phương có nhà ở của hộ dân hoặc có công trình nằm ngoài phạm vi GPMB bị ảnh hưởng do quá trình thi công các dự án đầu tư xây dựng mở rộng QL1 đoạn Thanh Hóa - Cần Thơ và các dự án đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, đã có nhiều văn bản đề xuất giải pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, giải quyết. Kết quả như sau:

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 7084/VPCP-KTTH ngày 06/7/2017 của Văn phòng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ có Tờ trình số 390/TTr-CP ngày 20/9/2017 trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội với nội dung “cho phép Bộ Giao thông vận tải được sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ của các dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Thanh Hóa - Cần Thơ và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên để chi trả bồi thường thiệt hại [ngoài phần thuộc trách nhiệm do bảo hiểm chi trả] cho nhà ở, công trình nằm ngoài phạm vi GPMB bị ảnh hưởng do quá trình thi công xây dựng các dự án này; phần vốn này được lấy từ kinh phí GPMB trong tổng mức đầu tư của các dự án và giao Ủy ban nhân dân các tỉnh, Hội đồng GPMB địa phương xem xét, xác định đối tượng, mức độ ảnh hưởng, quyết định giá trị thiệt hại và thực hiện chi trả bồi thường trên cơ sở kết quả giám định tổn thất của đơn vị tư vấn giám định độc lập”.

Ngày 21/12/2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 19 ra Thông báo số 1541/TB-TTKQH, với nội dung như sau:

- Việc xem xét, bồi thường cho các hộ dân có nhà ở, công trình bị ảnh hưởng trong quá trình thi công các dự án nâng cấp mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Thanh Hóa - Cần Thơ và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên cần được Chính phủ chỉ đạo xử lý, giải quyết khẩn trương để ổn định đời sống Nhân dân, bảo đảm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân theo quy định của pháp luật.

- Phần thiệt hại phải bồi thường cho người dân có nhà ở, công trình bị ảnh hưởng trong quá trình thi công các dự án nâng cấp mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Thanh Hóa - Cần Thơ và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên [sau khi doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường theo hợp đồng] là khoản tiền bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự. Do đó, đề nghị Chính phủ chỉ đạo thực hiện theo các quy định của pháp luật có liên quan và không sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để bồi thường.

- Các Đoàn đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng ở các địa phương chịu ảnh hưởng theo chức năng, nhiệm vụ được giao triển khai tuyên truyền, giải thích để nhân dân hiểu rõ về quy định của pháp luật; đồng thời, giám sát quá trình bồi thường cho các hộ dân theo quy định, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân”.

Tiếp theo, ngày 11/01/2018, Văn phòng Chính phủ có Văn bản số 402/VPCP-KTTH thông báo ý kiến Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan khẩn trương triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Thông báo số 1541/TB-TTKQH ngày 21/12/2017 nêu trên theo quy định. Bộ Giao thông vận tải đã tổ chức Hội nghị với các đơn vị liên quan và chỉ đạo các Ban quản lý dự án, Nhà đầu tư phối hợp với các đơn vị thi công triển khai thực hiện đền bù theo chỉ đạo của Chính phủ.

128. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Hệ thống thoát nước trên tuyến QL.1 qua thị trấn Hải Lăng, xã Hải Trường [huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị] có nhiều đoạn còn chưa hoàn thiện, mùa mưa gây ngập nước, ảnh hưởng đến sinh hoạt người dân và ATGT trên tuyến đường này. Mặt khác, sau khi nâng cấp QL.1, nhiều đoạn nối giữa QL.1 với đường dân sinh có sự chênh lệch về độ cao rất lớn khiến người dân gặp nhiều khó khăn trong việc đi lại. Cử tri kiến nghị Bộ GTVT, Tổng cục ĐBVN xem xét, xử lý khắc phục.

Trả lời: Tại công văn số 9241/BGTVT-KCHT ngày 20/8/2018

1. Về hệ thống thoát nước trên QL.1 qua thị trấn Hải Lăng, xã Hải Trường:

- Đoạn qua thị trấn Hải Lăng: Tuyến được nâng cấp, mở rộng hoàn thành và bàn giao đưa vào khai thác năm 2017. Bên phải tuyến là đường sắt, bên trái tuyến dân cư đông đúc đã được xây dựng hệ thống rãnh thoát nước dọc kín bằng BTCT không xảy ra tình trạng ứ đọng, ngập nước mặt đường khi có mưa. Theo phản ánh của cử tri và qua kiểm tra thực tế hiện trường tại vị trí nút giao QL.1 với đường Hùng Vương [Km779+500] không đảm bảo thoát nước mặc dù đã bố trí 02 hố ga để thu nước mặt đường. Tuy nhiên, có 01 vị trí hố ga do hộ dân [hộ ông Nguyễn Quang Tuấn] xây dựng nhà, tập kết vật liệu làm lấp miệng hố ga cản trở việc thoát nước, gây ứ đọng cục bộ khi mưa lớn. Đến nay, việc xây dựng của hộ dân đã hoàn thành, đã được nhà thầu vệ sinh thanh thải sạch sẽ đảm bảo thoát nước nước tại khu vực này.

- Đoạn qua xã Hải Trường: Tuyến được nâng cấp, mở rộng hoàn thành và bàn giao đưa vào khai thác năm 2016. Theo phản ánh của cử tri và qua kiểm tra thực tế hiện trường đoạn Km784+420-Km785+230 không đảm bảo thoát nước [đoạn tuyến bên phải là đường sắt; bên trái tuyến là nhà cửa xen lẫn vườn cây, phía sau khu vực nhà cửa là đồi cát].

+ Hiện tại, đoạn Km784+420-Km784+650 đã bố trí rãnh dọc kín và xả nước vào rãnh dọc của đường ngang [gồm 34 m rãnh kín và 28,5 m rãnh đất] của địa phương. Tuy nhiên, đoạn rãnh đất của đường ngang hiện đã bị bồi lấp hoàn toàn nên rãnh dọc của QL.1 không phát huy tác dụng. Trước mắt, Tổng cục ĐBVN đã chỉ đạo Cục QLĐB II làm việc với địa phương cho nạo vét hệ thống rãnh dọc đường ngang nhằm phát huy hiệu quả của đoạn rãnh trên QL.1.

+ Đoạn Km784+650-Km785+230 chưa có rãnh, Bộ GTVT chỉ đạo Tổng cục ĐBVN kiểm tra, rà soát hệ thống rãnh dọc này, xây dựng kế hoạch để triển khai thực hiện.

2. Về vuốt nối đường ngang đoạn qua thị trấn Hải Lăng và xã Hải Trường:

Từ khi dự án nâng cấp, mở rộng QL.1 hoàn thành đến nay chưa có vụ tai nạn nào xảy ra tại vị trí giao cắt với các đường ngang nêu trên. Các vị trí vuốt nối đường ngang dân sinh đã được thi công vuốt nối theo đúng độ dốc dọc thiết kế. Tuy nhiên, tại một số vị trí có đường ngang dân sinh trước đây thấp, tuyến đường tránh đi qua vùng ngập lụt thường xuyên nên khi thiết kế đường đỏ tuyến phải đảm bảo tần suất thủy văn thiết kế H=4% có cao độ cao hơn so với đường dân sinh. Hiện tại, vẫn tồn tại một vài vị trí có độ dốc lớn, ít nhiều gây khó khăn cho việc đi lại của người dân. Tổng cục ĐBVN đã chỉ đạo đơn vị quản lý tuyến đường theo dõi và đề xuất sửa chữa, cải tạo nút giao với đường ngang để triển khai thực hiện trong kế hoạch bảo trì công trình đường bộ hàng năm nhằm đảm bảo ATGT cho các phương tiện tham gia giao thông.

129. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Cử tri huyện Bá Thước đề nghị Bộ GTVT chỉ đạo Ban Quản lý dự án Thăng Long sớm chi trả số tiền 309 triệu đồng đền bù cho 239 hộ dân ở xã Thiết Ống do quá trình thi công tuyến đường giao thông nâng cấp Quốc lộ 217, máy lu rung làm nứt tường các hộ dân.

Trả lời: Tại công văn số 8616/BGTVT-CQLXD ngày 06/8/2018

Thực hiện chỉ đạo của Bộ GTVT, ngày 25/7/2018, Ban Quản lý dự án Thăng Long đã phối hợp với Chính quyền địa phương [Ủy ban nhân dân huyện Bá Thước, Ủy ban nhân dân xã Thiết Ống, Trưởng các thôn, phố của xã Thiết Ống] cùng Nhà thầu thi công, Nhà thầu bảo hiểm tiến hành chi trả toàn bộ số tiền đền bù, hỗ trợ cho các hộ dân bị ảnh hưởng do lu rung trong quá trình thi công Gói thầu số 13, dự án Quốc lộ 217 với tổng số tiền là 352.904.477 đồng cho 223 hộ dân bị ảnh hưởng thuộc các phố Đồng Tâm 1, Đồng Tâm 2, Bá Lộc và thôn Chiềng, xã Thiết Ống, huyện Bá Thước.

Các hộ dân bị ảnh hưởng đã nhận được đầy đủ khoản tiền đền bù, hỗ trợ các tổn thất, hư hỏng do ảnh hưởng trong quá trình thi công dự án và cam kết sẽ không còn bất kỳ khiếu nại nào đối với Bộ GTVT, Ban Quản lý dự án Thăng Long, Nhà thầu thi công, chính quyền địa phương và các bên liên quan; Chính quyền địa phương sẽ giám sát đảm bảo các bên liên quan thực hiện đúng cam kết trong Biên bản thỏa thuận nhận tiền đền bù ký ngày 25/7/2018.

130. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Về khắc phục những vấn đề phát sinh trong quá trình thi công Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi: Cử tri đồng tình và vui mừng sự quan tâm, đầu tư dự án nhằm phát triển mạng lưới giao thông và phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thi công đã làm phát sinh nhiều vấn đề ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của Nhân dân trong vùng dự án. Cử tri các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa [tỉnh Quảng Ngãi] đề nghị Bộ Giao thông vận tải tiếp tục chỉ đạo chủ đầu tư [Tổng công ty Đầu tư và Phát triển đường cao tốc Việt Nam - VEC] cùng với các nhà thầu phụ, các đơn vị thi công khẩn trương phối hợp với chính quyền địa phương và Nhân dân trong vùng dự án rà soát, kiểm tra và xử lý ngay các vấn đề phát sinh như: việc thi công làm hư hỏng và bồi lấp các tuyến kênh, mương thủy lợi; tạo những khu vực ngập úng, cô lập cục bộ khi có mưa lớn và nhất là trong mùa mưa; kiểm tra khắc phục các hư hỏng nhà ở bị ảnh hưởng khi thi công; sửa chữa, tái tạo lại các tuyến đường sử dụng để vận chuyển vật liệu xây dựng; sớm hoàn thành và đảm bảo kỹ thuật đối với các đường gom, đường ngang, hầm chui để đảm bảo việc đi lại của người dân được an toàn,… Các vấn đề trên tuy đã được phản ánh nhiều lần nhưng chủ đầu tư và các đơn vị thi công vẫn chậm trễ trong xử lý, khắc phục, cử tri rất mong Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quan tâm, chỉ đạo.

Trả lời: Tại công văn số 9536/BGTVT-CQLXD ngày 27/8/2018

Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, đoạn qua địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có tổng chiều dài hơn 40km [từ Km99+200 đến Km139+204], đi qua địa bàn các huyên Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, thành phố Quảng Ngãi và huyện Nghĩa Hành. Trong quá trình thi công Chủ đầu tư, Tư vấn và Nhà Thầu luôn tuân thủ các biện pháp an toàn, đảm bảo giao thông cố gắng hạn chế thấp nhất các ảnh hưởng tới đời sống, sinh hoạt của Nhân dân nơi có Dự án đi qua. Tuy nhiên, trong quá trình thi công, không tránh khỏi các ảnh hưởng, bất cập, gây bức xúc trong Nhân dân như phản ánh của cử tri tỉnh Quảng Ngãi nêu trên. Về vấn đề này, Chủ đầu tư dự án đã chỉ đạo Nhà thầu, Tư vấn phối hợp với các bên liên quan và chính quyền địa phương giải quyết, cụ thể như sau:

1. Về việc thi công làm hư hỏng và bồi lấp các tuyến kênh, mương thủy lợi; tạo những khu vực ngập úng, cô lập cục bộ khi có mưa lớn:

- Dự án đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi đoạn qua địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có cắt qua 38 vị trí kênh, mương. Đến thời điểm hiện tại, các vị trí cắt kênh, mương nêu trên đều đã được hoản trả và đấu nối trở lại vào hệ thống thủy lợi của địa phương.

- Các vị trí đất của người dân địa phương bị bồi lấp, ngập úng do ảnh hưởng của dự án đều được đền bù mùa vụ không canh tác và cải tạo đất thông qua chính quyền địa phương để người dân có thể canh tác trở lại, đến nay đã khắc phục xong.

- Bộ GTVT đã chỉ đạo chủ đầu tư dự án tiếp tục theo dõi tình hình xô xạt, bồi lấp diễn biến trong mùa mưa tới để có các giải pháp xử lý cho phù hợp nhằm hạn chế tối đa các ảnh hưởng đến dân sinh khu vực dự án đi qua.

2. Về việc khắc phục các hư hỏng nhà ở bị ảnh hưởng khi thi công:

Theo thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có 1.056 ngôi nhà dân bị ảnh hưởng, đến nayđã được bồi thường được 1.040 trường hợp, hiện còn lại 16 trường hợp tại huyện Bình Sơn chưa đồng ý với giá trị đền bù, dự kiến sẽ giải quyết xong trước ngày 31/8/2018.

3. Sửa chữa, tái tạo lại các tuyến đường địa phương sử dụng để vận chuyển vật liệu xây dựng:

Tổng số đã đăng ký sử dụng 23 tuyến đường địa phương để vận chuyển vật liệu xây dựng, đến nay đã hoàn trả 17 tuyến đường, 06 tuyến đường còn lại [01 tuyến thuộc địa bàn huyện Bình Sơn và 05 tuyến thuộc địa bàn huyện Sơn Tịnh] dự kiến sẽ hoàn thành trước ngày 30/9/2018.

4. Về việc xây dựng các tuyến đường gom, đường ngang, hầm chui để đảm bảo việc đi lại của người dân được an toàn,…:

Tổng số gồm 27 hầm chui dân sinh và 126 đường gom, đường ngangvới tổng chiều dài 23,98 km[theo thiết kế kỹ thuật gồm20 hầm chui, 89 đường gom và đường ngang, bổ sung theo yêu cầu của địa phương gồm 7 hầm chui, 38 đường gom và đường ngang].Đến nay, các hầm chui dân sinh đã hoàn thành cùng với chính tuyến; các đường gom, đường ngang, hiện đã hoàn thành 109đường với tổng chiều dài là 18,99km, còn lại 17đường với tổng chiều dài 4,99km chưa thi công [trong đó, có 04 đường bị vướng mắc về giải phóng mặt bằng với tổng chiều dài vướng mắc là 440m], dự kiến các tuyến đường này sẽ hoàn thành các tuyến đường này trước ngày 30/9/2018.

131. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Cử tri cũng đề nghị cơ quan chức năng sớm chấn chỉnh và xử lý tình trạng lộn xộn mất an ninh, trật tự tại các trạm thu phí giao thông BOT.

Trả lời: Tại công văn số 9334/BGTVT-ĐTCT ngày 22/8/2018

Trong thời gian qua, có hiện tượng các đối tượng xấu lợi dụng một số bất cập của các dự án BOT giao thông để kích động, chống phá… làm mất an ninh trật tự và an toàn giao thông, gây ảnh hưởng xấu đến chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc thu hút đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức hợp đồng BOT. Tình trạng lộn xộn, mất an ninh trật tự xảy ra tại một số trạm thu phí BOT có diễn biến phức tạp nhưng chưa có sự vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, chính quyền địa phương. Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 82/CĐ-TTg ngày 18/01/2018 về đảm bảo an ninh trật tự tại các trạm thu phí đường bộ theo hình thức Hợp đồng BOT, trong đó, yêu cầu Bộ Công an, Bộ GTVT, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố có sự phối hợp chặt chẽ, tập trung các giải pháp giải quyết các bất cập đang diễn ra tại các dự án BOT giao thông, nhằm sớm lập lại an ninh, trật tự tại các trạm BOT trên toàn quốc. Hiện nay, các cơ quan liên quan đang tích cực triển khai các biện pháp để giải quyết tình hình mất trật tự, an ninh tại các trạm BOT giao thông theo chỉ đạo tại Công điện số 82/CĐ-TTg.

132. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Cử tri nhất trí với việc triển khai thực hiện các dự án giao thông theo hình thức xây dựng, kinh doanh, chuyển giao [BOT] như trong thời gian qua nhằm huy động nguồn lực xã hội đầu tư, phát triển giao thông vận tải, nâng cao chất lượng hạ tầng giao thông, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cử tri cũng đề nghị Nhà nước cần có cơ chế, chính sách quản lý hiệu quả các dự án đầu tư hạ tầng giao thông theo hình thức này theo hướng công khai, minh bạch quyết toán dự án, đặc biệt là công khai việc thu chi và thời gian hoàn vốn của các dự án để người dân biết, thực hiện và tham gia giám sát.

Trả lời: Tại công văn số 9335/BGTVT-ĐTCT ngày 22/8/2018

- Về quản lý chi phí, thời gian hoàn vốn: Dựa trên quy định pháp luật, trong quá trình đàm phán Hợp đồng BOT, Bộ GTVT đã quy định trong Hợp đồng, giá trị quyết toán mới là giá trị cuối cùng để tính toán thời gian thu phí. Do vậy, trong thời gian vừa qua, Bộ GTVT đã quyết liệt chỉ đạo công tác quyết toán chi phí đầu tư của các dự án, trong đó, cập nhật tất cả các kết luận của cơ quan thanh tra, kiểm toán trong quá trình quyết toán đảm bảo giá trị theo đúng quy định của pháp luật. Đến nay, 56 dự án đã hoàn thành đưa vào khai thác đều đã được quyết toán toàn bộ hoặc một phần. Giá trị quyết toán luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị được thanh tra, kiểm toán. Trên cơ sở giá trị quyết toán, lưu lượng thực tế, Bộ GTVT đã tính toán lại thời gian thu phí, đa số các dự án đều giảm thời gian thu giá so với Hợp đồng.

Từ năm 2016, Bộ GTVT công bố thông tin chủ yếu về các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT [bao gồm giá trị quyết toán, tổng thời gian thu phí] trên trang web tại địa chỉ //ppp.mt.gov.vn. Bộ GTVT cũng giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam chỉ đạo nhà đầu tư công bố thời gian thu phí tại trạm thu phí, đồng thời, trong quá trình vận hành khai thác, hàng năm Tổng cục Đường bộ Việt Nam đều phải theo dõi doanh thu tại các trạm, trường hợp doanh thu tăng, sẽ điều chỉnh rút ngắn thời gian thu phí; trường hợp doanh thu giảm, sẽ điều chỉnh kéo dài thời gian thu phí theo quy định của Hợp đồng BOT và các thông tin này sẽ được cập nhật thường xuyên tại trạm thu phí.

- Về quản lý doanh thu: Bộ GTVT xác định quản lý doanh thu là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình vận hành, khai thác dự án nhằm đảm bảo quyền lợi của Nhà nước và người sử dụng. Để từng bước hiện đại hoá công nghệ thu phí, tăng cường tính công khai minh bạch trong quản lý doanh thu thu phí, công nghệ thu phí tại các trạm BOT, Bộ GTVT đã tích cực triển khai hệ thống thu phí tự động không dừng: đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 07/2017/QĐ-TTg ngày 27/3/2017 tạo ra hành lang pháp lý; đang triển khai giai đoạn 1 áp dụng trên QL1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, hiện đã lắp đặt vận hành 24 trạm, 03 trạm đang vận hành chạy thử trước khi vận hành chính thức; giai đoạn 2 đang đấu thầu lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ, đảm bảo đến năm 2019 tại tất cả các trạm đều có cửa áp dụng công nghệ thu phí tự động không dừng theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 07/2017/QĐ-TTg ngày 27/3/2017.

Ngoài ra, để quản lý chặt chẽ, công khai, minh bạch công tác thu phí, Bộ GTVT đã xây dựng, ban hành Thông tư 49/2016/TT-BGTVT ngày 30/12/2016 quy định về xây dựng, tổ chức và hoạt động của trạm thu phí sử dụng đường bộ, theo đó dữ liệu của hệ thống quản lý thu bao gồm: các tập tin cơ sở dữ liệu, các tập tin hình ảnh chụp phương tiện lưu thông qua trạm, các tập tin hình ảnh liên tục giám sát làn phải được sao lưu dưới dạng tập dữ liệu và lưu giữ tối thiểu 05 năm; các tập tin hình ảnh giám sát cabin và giám sát toàn cảnh phải được sao lưu dưới dạng tập dữ liệu và lưu giữ tối thiểu 01 năm. Với các giải pháp đồng bộ nêu trên, việc kiểm soát doanh thu sẽ đảm bảo chặt chẽ, minh bạch, tốc độ lưu thông qua các trạm thu phí sẽ được cải thiện.

Bộ GTVT ghi nhận kiến nghị của cử tri tỉnh Thái Bình và sẽ tiếp tục rà soát, triển khai quyết liệt để công khai, minh bạch giá trị quyết toán, quản lý doanh thu và thời gian thu phí các dự án để người dân biết, thực hiện và tham gia giám sát.

133. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Cử tri tiếp tục phản ánh về trạm thu phí BOT tuyến tránh thị xã Cai Lậy hiện tạm dừng thu đã lâu. Đề nghị Bộ GTVT cho biết có tiếp tục thu hay không, phương án giải quyết đối với nhà đầu tư như thế nào. Đồng thời, cử tri cũng kiến nghị việc vận hành các dự án BOT trong tương lai nên nghiên cứu các biện pháp tuyên truyền, giải thích cho người dân hiểu rõ ý nghĩa, mục đích, lợi ích của dự án trước khi tiến hành thu phí để tranh thủ sự đồng thuận của người dân, tránh tạo nên bức xúc trong nhân dân.

Trả lời: Tại công văn số 9481/BGTVT-ĐTCT ngày 24/8/2018

Dự án xây dựng công trình tăng cường mặt đường QL1 đoạn Km1987+560÷Km2014 và đoạn tránh thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang được đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT; công trình dự án đã hoàn thành giai đoạn đầu tư, đưa vào khai thác và bắt đầu thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ từ ngày 01/8/2017. Tuy nhiên, khi tổ chức thu phí đã có phản ứng của một số người sử dụng đường dẫn đến mất an ninh trật tự và an toàn giao thông tại Trạm nên Nhà đầu tư tạm dừng từ ngày 14/8/2017. Sau khi dừng hoạt động, Bộ GTVT đã làm việc với UBND tỉnh Tiền Giang, thống nhất phương án xử lý miễn giảm phí [giảm 30% toàn bộ phương tiện và miễn 50-100% cho các phương tiện thuộc 4 xã lân cận], đồng thời xây dựng kế hoạch tổ chức thu trở lại. Ngày 30/11/2017, trạm thu phí Cai Lậy hoạt động trở lại nhưng tiếp tục có diễn biến phức tạp, mất an ninh trật tự. Do vậy, Bộ GTVT đã báo cáo vàtại cuộc họp Thường trực Chính phủ ngày 04/12/2017, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tạm dừng để nghiên cứu phương án xử lý.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã tổ chức rà soát lại toàn bộ quá trình triển khai dự án về trình tự, thủ tục; khảo sát lưu lượng giao thông; rà soát, tính toán lại toàn bộ chi phí đầu tư, có cập nhật các kết luận thanh tra, kiểm toán; cập nhật các thông số đầu vào của phương án tài chính; đàm phán sơ bộ với nhà đầu tư về các phương án và tổ chức họp lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương.Kết quả rà soát quá trình triển khai và kết luận của các Đoàn thanh tra, kiểm toán cho thấy dự án được triển khai cơ bản đảm bảo đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định pháp luật[chủ trương đầu tư phù hợp với lĩnh vực khuyến khích đầu tư quy định tại Nghị định số 108/2009/NĐ-CPngày 27/11/2009 của Chính phủ, được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận và địa phương có ý kiến đồng thuận bằng văn bản; vị trí đặt trạm thu phí đúng quy định pháp luật tại Nghị định số 108/2009/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 159/2013/TT-BTC ngày 14/11/2013 của Bộ Tài chính; trạm thu phí Cai Lậy nằm trong phạm vi dự án, cách trạm An Sương - An Lạc và trạm Cần Thơ - Phụng Hiệp >70km thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ GTVT], đồng thờiđể tăng thêm tính công khai, minh bạch, Bộ GTVT đã lấy ý kiến và nhận được sự đồng thuận của Bộ Tài chính; UBND, HĐND, Đoàn ĐBQH tỉnh Tiền Giang. Tuy nhiên, Bộ GTVT cũng nhận thấy tồn tại, bất cập là công tác tuyên truyền để người dân hiểu về dự án, về hình thức đầu tư chưa được tốt, chưa phù hợp thực tiễn; các quy định pháp luật liên quan đến hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT cũng còn những bất cập, có quy định pháp luật về thu phí theo lượtkhông thể đảm bảo công bằng tuyệt đối cho tất cả người sử dụng, chưa đánh giá hết các tác động khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật dẫn đến khi tổ chức thu phí tại trạm Cai Lậy đã có những phản ứng của một bộ phận người sử dụng đường.

Trên cơ sở kết quả rà soát, tính toán, Bộ GTVT đã xây dựng 05 phương án xử lý bất cập, trong đó phương án Nhà nước mua lại dự án là giải pháp xử lý triệt để nhất, các phương án còn lại là tiếp tục tổ chức thu phí hoàn vốn dự án, cóthực hiệngiảm giá vé chung cho các phương tiện và miễn, giảm giá cho chủ phương tiện khu vực lân cận trạm thu phí Cai Lậy.Trong bối cảnh nguồn vốn ngân sách Nhà nước hạn chế, rất khó để thực hiện việc mua lại dự án, Bộ GTVT đã báo cáo kiến nghị phương án tiếp tục thu phí hoàn vốn dự án và được Thủ tướng Chính phủ kết luận tại cuộc họp Thường trực Chính phủ ngày 23/4/2018 [Thông báo số 64/TB-VPCP ngày 04/5/2018], giao Bộ GTVT thống nhất với UBND tỉnh Tiền Giang và các Bộ: Công an, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính để quyết định phương án tối ưu, lựa chọn thời điểm thu phí trở lại phù hợp.

Do tính chất phức tạp của dự án, việc lựa chọn phương án cần cân nhắc cẩn trọng. Để có cơ sở quyết định phương án tối ưu theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 64/TB-VPCP, Bộ GTVT đã tổ chức họp với Lãnh đạo tỉnh Tiền Giang và họp với các Bộ Công an, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Thông tin và Truyền thông; UBND tỉnh Tiền Giang đã có ý kiến bằng văn bản về phương án thực hiện. Cùng với ý kiến của các Bộ tại cuộc họp ngày 02/8/2018, Bộ GTVT đang tổng hợp, tính toán, đánh giá tính khả thi để lựa chọn phương án tối ưu theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Quan điểm của Bộ GTVT là sẽ tổ chức thugiá dịch vụ sử dụng đường bộ trở lại một cáchsớm nhất để giảm lãi vay phát sinh, giảm thời gian thu phí dự án và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư theo hợp đồng đã ký.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, thời gian tới khi triển khai các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, Bộ GTVT sẽ đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích cho người dân hiểu rõ ý nghĩa, lợi ích của dự án để tranh thủ sự đồng thuận của người dân.Đối với dự án, Bộ GTVT sẽ phối hợp Bộ Thông tin và Truyền thông và UBND tỉnh Tiền Giang tổ chức tuyên truyền, phổ biến đến người dân, các chủ phương tiện trước khi thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ trở lại.

134. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Thực tế cho thấy, hầu hết các dự án BOT đều được rút ngắn thời gian thu phí sau khi được cơ quan Kiểm toán Nhà nước tiến hành kiểm toán. Do vậy, kiến nghị Bộ sớm ban hành các quy định thật chặt chẽ làm cơ sở để các cơ quan quản lý đảm bảo thực hiện tốt việc tính đúng, tính đủ giá trị đầu tư các công trình BOT cũng như thời điểm thu hồi vốn và thời gian thu phí hợp lý hơn, nhằm đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên: Nhà nước, Nhà đầu tư và người dân sử dụng công trình.

Trả lời: Tại công văn số 9481/BGTVT-ĐTCT ngày 24/8/2018

Việc kiểm soát chi phí đầu tư được Bộ GTVT tổ chức thực hiện theo quy trình 4 bước: [i] thẩm định, phê duyệt tổng mức đầu tư [TMĐT] trong bước lập báo cáo nghiên cứu khả thi; [ii] thẩm tra, kiểm soát dự toán xây dựng công trình trong bước thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công; [iii] cập nhật, khấu trừ theo ý kiến kết luận của thanh tra, kiểm toán; [iv] thoả thuận quyết toán chi phí vốn đầu tư. Thời gian hoàn vốn dự án ban đầu được sơ bộ xác định trên cơ sở TMĐT dự án, làm cơ sở để ký hợp đồng dự án và hợp đồng tín dụng. Do vậy, trong tất cả các hợp đồng BOT, Bộ GTVT và Nhóm công tác liên ngành đã thống nhất với Nhà đầu tư quy định:thời gian thu phí ban đầu chỉ là dự kiến thời gian thu phí chính thức phải được xác định lại theo giá trị quyết toán công trình phù hợp với các kết luận thanh tra, kiểm toán.

Bộ GTVTluôn kiểm soát và thực tế dự toán xây dựng công trìnhcơ bản đều giảm so với TMĐTbởi một số nguyên nhân chủ yếu: [i] Tiến độ dự án được rút ngắn nên giảm bù trượt giá vật liệu và giảm lãi vay trong thời gian xây dựng; [ii] Chỉ số giá xây dựng và lãi suất vốn vay trong giai đoạn 2012÷2015 đều giảm so với thời điểm phê duyệt dự án nên không sử dụng đến dự phòng trượt giá.Trong quá trình xem xét thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công và dự toán xây dựng công trình,Bộ GTVT đã kiểm soát chí phí đầu tư đều giảm so với TMĐT ban đầu.

Thời gian thu phí giảm theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước là số liệuso sánh giữa giá trị đầu tư thực tế thời điểm kiểm toán với giá trị TMĐT ban đầu, trong khi TMĐT ban đầu chỉ làđể xác định sơ bộ thời gian hoàn vốn theo quy định của pháp luật về xây dựng và kiểm soát chi phí các bước sau TMĐT đã được Bộ GTVT quy định trong hợp đồng dự án; việc rút ngắn thời gian thu phí so với ban đầu là tất yếu và đã được dự liệu trước phương án điều chỉnh trong hợp đồng BOT.Thực tế, một số dự án chưa được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán, Bộ GTVT căn cứ vào giá trị dự toán đã đàm phán ký hợp đồng điều chỉnh rút ngắn thời gian thu phí như: Dự án QL10 đoạn La Uyên - Tân Đệ được điều chỉnh rút ngắn thời gian thu phí tạm tính ban đầu 21,33 năm xuống còn 10 năm 3 tháng; Dự án cầu Rạch Miễu trên QL60, tỉnh Bến Tre được điều chỉnh rút ngắn thời gian thu phí tạm tính ban đầu 22 năm 10 tháng xuống còn 13 năm 5 tháng...

Bộ GTVT tiếp thu ý kiến cử tri và đang phối hợp các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan rà soát, sửa đổi các quy định pháp luậtđể kiểm soát chặt chẽ các khoản chi phí của dự án đầu tư theo hình thức PPP trên nguyên tắc đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên: Nhà nước, Nhà đầu tư và người sử dụng.

135. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Nhiều ý kiến cử tri đề nghị có báo cáo về thực trạng quản lý, cấp phép đối với hoạt động bến, bãi, cảng tại các tuyến sông trên phạm vi cả nước; vì cử tri cho rằng hiện nay có nhiều bến, bãi, cảng hoạt động không phép, quản lý nhà nước chưa chặt chẽ.

Trả lời: Tại công văn số 9338/BGTVT-KCHT ngày //2018

1. Công tác quản lý hoạt động cảng, bến thủy nội địa trên toàn quốc

1.1. Tổng hợp số liệu cảng, bến thủy nội địa

Tính đến tháng 6/2018, cả nước có:

- 284 cảng, trong đó: 209 cảng hàng hóa, 11 cảng hành khách, 2 cảng tổng hợp, 62 cảng chuyên dùng;

+ Trên tuyến ĐTNĐ quốc gia có: 255 cảng;

+ Trên tuyến ĐTNĐ địa phương có: 29 cảng.

- 8.352 bến thủy nội địa, trong đó bến đã được cấp phép hoạt động là 6.146 bến, bến không phép là 2.206 chiếm 26%

+ Trên tuyến ĐTNĐ quốc gia 3.111 bến có phép, 1.457 bến không phép;

+ Trên tuyến ĐTNĐ địa phương: 3.035 bến có phép, 749 bến không phép.

- 2.526 bến khách ngang sông, trong đó bến có phép là: 2.058 đạt 81,5%. 1.2. Công tác quản lý hoạt động cảng, bến thủy nội địa

Trong thời gian vừa qua, Bộ Giao thông vận tải và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã phối hợp triển khai nhiều biện pháp để tăng cường công tác quản lý hoạt động giao thông ĐTNĐ, trong đó có công tác quản lý về cảng, bến thủy nội địa. Qua đó, hoạt động vận tải thủy nội địa đã có những chuyển biến tích cực góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn tình trạng một số tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giao thông đường thủy nội địa chưa tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về giao thông đường thủy nội địa; trong đó, tình trạng bến thủy nội địa chưa được cấp phép theo quy định vẫn đang hoạt động, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông đường thủy nội địa, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trên tuyến đường thủy nội địa. Theo số liệu, thống kê của Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, trên toàn quốc còn khoảng trên 2.000 bến thủy nội địa chưa được cấp giấy phép hoạt động. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên do một số địa phương chưa có quy hoạch bến thủy nội địa; hồ sơ bến thực tế không đáp ứng được yêu cầu theo quy định; bến nằm trong hành lang bảo vệ các công trình và gây mất an toàn giao thông, nên không đủ điều kiện để cấp phép; vướng mắc liên quan đến quyền sử dụng đất.

Các phương tiện thủy nội địa vào, rời hoạt động xếp dỡ hàng hóa, đón trả hành khách tại các bến này chưa được quản lý thường xuyên, chặt chẽ, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông, an ninh trật tự, gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước tại các cảng, bến thủy nội địa.

Ngày 14/12/2017, Bộ Giao thông vận tải có văn bản số 14130/BGTVT-KCHT gửi UBND các tỉnh/thành phố, các Sở Giao thông vận tải, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam để chỉ đạo các cơ quan chức năng của địa phương lập, trình UBND tỉnh/thành phố phê duyệt quy hoạch bến thủy nội địa theo quy định; thực hiện một số nội dung để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về cảng, bến thủy nội địa; tháo gỡ khó khăn, gỡ vướng mắc trong quá trình thực hiện. Thực hiện yêu cầu của Bộ Giao thông vận tải tại bản nêu trên, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam đã thành lập các đoàn công tác làm việc với các địa phương về công tác quản lý cảng, bến thủy nội địa đồng thời chỉ đạo các đơn vị chức năng của Cục thường xuyên phối hợp với Thanh tra Sở Giao thông vận tải cùng chính quyền địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn các chủ bến hoạt động không phép chấp hành các quy định pháp luật về giao thông đường thủy nội địa, đồng thời tăng cường kiểm tra, xử lý chủ bến và chủ phương tiện xếp dỡ hàng hóa tại cảng, bến hoạt động không phép.

2. Về công tác quản lý cảng, bến thủy nội địa trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Theo báo cáo của Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, hiện nay, trên các tuyến đường thủy nội địa quốc gia thuộc địa bàn tỉnh có tổng số 41 cảng, 225 bến thủy nội địa hàng hóa, trong đó có 41 bến giấy phép hết hạn, 101 bến hoạt động không phép, chiếm tỷ lệ 41,3%; phương tiện vào xếp dỡ hàng hóa tại các bến thủy nội địa không phép chưa được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ thường xuyên làm tiềm ẩn nguy mất an toàn giao thông đường thủy nội địa, an ninh trật tự tại khu vực.

Ngày 10/7/2018, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam đã tổ chức đoàn công tác kiểm tra thực tế luồng tuyến, cảng, bến thủy nội địa trên địa bàn tỉnh và làm việc với Sở Giao thông vận tải Hải Dương về công tác quản lý cảng, bến thủy nội địa trên địa bàn tỉnh. Để tăng cường công tác quản nhà nước đối với hoạt động bến thủy nội địa, đặc biệt giảm thiểu bến thủy nội địa hoạt động không phép, yêu cầu Cục Đường thủy nội địa Việt Nam tiếp tục phối hợp với Sở Giao thông vận tải Hải Dương triển khai, thực hiện những nội dung đã thống nhất.

3. Thực hiện Nghị quyết số 75/NQ-CP ngày 09/8/2017, phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7 năm 2017, Bộ Giao thông vận tải đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố xây dựng Dự thảo Nghị định quy định về quản lý hoạt động đường thủy nội địa, trong đó có xây dựng sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến quản lý, cảng bến thủy nội địa. Bộ Giao thông vận tải sẽ phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong quá trình hoàn thiện dự thảo Nghị định để nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong công tác quản lý nhà nước về cảng, bến thủy nội địa.

136. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Tuyến đường sắt đi qua khu vực xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận không có đèn đỏ báo hiệu và cũng không có rào chắn khi tàu chạy qua, đe dọa tính mạng và các phương tiện tham gia giao thông qua tuyến đường sắt này. Cử tri đề nghị Bộ GTVT quan tâm lắp đặt hệ thống đèn đỏ báo hiệu và có rào chắn đảm bảo an toàn giao thông khi tàu chạy qua khu vực xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.

Trả lời: Tại công văn số 9254/BGTVT-KCHT ngày 20/8/2018

1. Hiện trạng đường ngang trên địa bàn xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận:

- Trên địa bàn xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận có 06 đường ngang công cộng trong đó: 01 đường ngang cảnh báo tự động có cần chắn tự động [tại Km1469+879], 05 đường ngang phòng vệ bằng biển báo [tại Km1465+810, Km1466+468, Km1468+424, Km1471+160, Km1472+535].

- Ngày 27/01/2018, Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn số 1024/VPCP-CN, trong đó chấp thuận đầu tư nâng cấp 452 đường ngang biển báo trên mạng đường sắt quốc gia thành đường ngang cảnh báo tự động có lắp đặt cần chắn tự động; tiến độ thực hiện từ năm 2018 đến năm 2020. Bộ GTVT ghi nhận kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Thuận, sẽ cân đối, ưu tiên triển khai thực hiện nhằm đảm bảo ATGT đường bộ, đường sắt trong khu vực sau khi được bố trí kinh phí.

2. Về lối đi tự mở:

- Trên địa bàn xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận có 01 lối đi tự mở [tại Km1471+920], bề rộng mặt đường 2m, hiện tại đã cắm biển “Chú ý tàu hỏa”.

- Thực hiện Luật Đường sắt năm 2017, Nghị định số 65/2018/NĐ-CP ngày 12/5/2018 và Quy chế phối hợp đã ký giữa Bộ GTVT với UBND tỉnh Bình Thuận, đề nghị UBND tỉnh Bình Thuận chỉ đạo các đơn vị liên quan, chủ động xây dựng, lắp đặt gồ giảm tốc, gờ giảm tốc tại 24 vị trí đường ngang, lối đi tự mở, bố trí kinh phí xây dựng hàng rào, đường gom, xóa bỏ lối đi tự mở; bố trí nhân lực chốt gác đảm bảo ATGT, giải tỏa vi phạm về hành lang an toàn giao thông đường sắt; bổ sung biển báo hiệu đường bộ, vạch dừng tại các đường ngang.

- Bộ GTVT sẽ chỉ đạo Cục ĐSVN và Tổng công ty ĐSVN tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương để quản lý, thực hiện xóa bỏ lối đi tự mở và các biện pháp đảm bảo ATGT đường sắt trong khu vực.

137. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Đề nghị Bộ Giao thông vận tải quan tâm, bố trí kinh phí sớm hoàn thành việc đầu tư nâng cấp Quốc lộ 7, dự án đã kéo dài hơn 10 năm gây ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Đồng thời, có lộ trình nâng cấp Quốc lộ 48, hiện nay đoạn đường qua huyện Quỳ Châu quá hẹp và xuống cấp, lưu lượng phương tiện giao thông qua lại thì nhiều nên tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra.

Quốc lộ 48E là tuyến giao thông huyết mạch nối từ trung tâm huyện Nghi Lộc đến các xã nằm ở khu vực phía Tây của huyện và đi qua một số xã của huyện Yên Thành. Sau nhiều năm khai thác, sử dụng, tuyến đường này đang ngày càng xuống cấp nghiêm trọng gây mất an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông. Cử tri Nghệ An đề nghị Chính phủ quan tâm bố trí kinh phí để nâng cấp, sửa chữa tuyến đường này.

Trả lời: Tại công văn số 9185/BGTVT-KHĐT ngày 20/8/2018

1. Về việc hoàn thành đầu tư cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 7

Quốc lộ 7 từ Diễn Châu đến Nậm Cắn, tỉnh Nghệ An, dài 227 km đã được Bộ GTVT hoàn thành đầu tư các dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 7 đoạn Tây cầu Đô Lương - Khe Thơi [Km36-Km120]; đoạn Khe Thơi - Nậm Cắn [Km120 -Km225] và đưa vào sử dụng từ năm 2013; riêng Dự án nâng cấp, mở rộng QL7 đoạn Km0 - Km36 đã được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 3919/QĐ-BGTVT ngày 29/12/2008, Chủ đầu tư là Tổng cục Đường bộ Việt Nam, tổng mức đầu tư 1.113 tỷ đồng, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 và Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Chính phủ. dự án thuộc danh mục các dự án tạm, dừng giãn tiến độ sau năm 2015. Trên cơ sở kế hoạch vốn được giao, Bộ GTVT đã chỉ đạo Chủ đầu tư hoàn thành đến điểm dừng kỹ thuật của một số đoạn tuyến, các đoạn còn lại thực hiện công tác đảm bảo giao thông. Do nguồn vốn ngân sách được giao cho Bộ GTVT trong giai đoạn 2016-2020 không đủ để cân đối tiếp tục đầu tư dự án nên Bộ GTVT giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường duy tu để đảm bảo khai thác an toàn.

2. Về kế hoạch đầu tư nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 48

Quốc lộ 48 từ Yên Lý đến Quế Phong dài 168km đã được đầu tư cơ bản đáp ứng yêu cầu vận tải, hiện còn đoạn tuyến từ Km20-Km33, Km64 - Km112 là có quy mô Bnền = 6,5-7,5m, Bmặt = 3,5-5,5m được đầu tư và đưa vào sử dụng từ năm 2003 đến nay đã xuống cấp hư hỏng. Để đảm bảo khai thác an toàn và hạn chế sự xuống cấp của tuyến QL48E, Bộ GTVT đã chỉ đạo Tổng cục Đường bộ Việt Nam tăng cường duy tu, sửa chữa, cụ thể đã bố trí từ nguồn vốn của Quỹ bảo trì đường bộ các năm 2016-2018 là 140,705 tỷ đồng và kế hoạch vốn năm 2019 dự kiến bố trí là 192,520 tỷ đồng cho công tác bảo trì sửa chữa định kỳ.

Chủ Đề