Chúng minh quần chúng nhân dân Pháp là lực lượng quyết định tiên trình cách mạng tư sản Pháp



1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người

Bằng hoạt động thực tiễn và tư duy lý luận, Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách cơ bản vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.

1.1. Về vấn đề dân tộc thuộc địa

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa đầu thế kỷ XX là xác định đúng con đường phát triển của dân tộc. Độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa. Quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Với tinh thần đó, Người khẳng định quyết tâm: “Dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” và “thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”.

1.2. Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong phong trào giải phóng dân tộc

Người khẳng định: vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết. Độc lập dân tộc mà chưa giành được thì vấn đề giai cấp cũng không giải quyết được. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp.

1.3. Về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người

Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc trước hết là phải giành lại nền độc lập cho Tổ quốc. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc là sức mạnh của toàn dân tộc. Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng bị áp bức, bao gồm lực lượng của cả dân tộc. Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân, lực lượng nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc và con người được khẳng định trước toàn thế giới qua Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người khởi thảo. Thừa nhận những “lời bất hủ” trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ [1776] và “những lẽ phải không thể chối cãi được” của “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp” [1789], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Nâng quyền tự nhiên của con người lên thành quyền dân tộc và gắn chặt quyền con người với quyền dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền tảng cho một trật tự và pháp lý quốc tế mới về quyền con người, quyền dân tộc và sự bình đẳng giữa các quốc gia - dân tộc.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, thể hiện một cách tập trung những luận điểm sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh, là sự phản ánh mục đích, lý tưởng, khát vọng và ham muốn tột bậc của danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh: nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.

Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách, nhưng không phải là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện:

- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công nhân lãnh đạo.

- Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống Nhân dân.

- Về văn hóa xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối quần chúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hóa, giáo dục đã được hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới, chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất so với con đường cứu nước những năm đầu thế kỷ XX ở nước ta và của nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.

Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân Việt Nam yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức. Những nhân tố này lại quy định tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng đó.

Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình cách mạng. Cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo, lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.



CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẦU TIÊN TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI

Đến đầu những năm 70 của thế kỷ XIX, sau khi được xác lập ở châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, chủ nghĩa tư bản đã chuyển dần sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Những mâu thuẫn mới của thời đại bộc lộ ngày càng phức tạp, gay gắt, nhất là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản và mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản các nước. Cuộc chiến tranh Pháp – Đức [1870] là điều kiện, tiền đề cơ bản làm cho nước Pháp trở thành nơi diễn ra sự kiện lịch sử chấn động châu Âu và thế giới – cuộc khởi nghĩa ngày 18-3 và sự ra đời Công xã Pari 1871.

Trong chiến tranh Pháp – Đức, quân Pháp liên tiếp thua trận. Cuộc đấu tranh tự vệ của quân Đức đã nhanh chóng biến thành cuộc chiến tranh xâm lược. Chính phủ tư sản Pháp đứng đầu là Chie không những không chống lại quân xâm lược Đức mà còn cắt cho Đức hai tỉnh Andátxơ và Lôren, chịu bồi thường 5.000 triệu phrăng, mở đường cho quân Đức tiến vào chiếm đóng Pari. Công nhân và nhân dân Pari yêu nước, dũng cảm đã tự vũ trang và tổ chức lực lượng bảo vệ thủ đô. Chính phủ Chie phản động đã ra lệnh tước vũ khí của công nhân, giải giáp các tuyến phòng thủ. Điều đó làm nhân dân căm phẫn vùng dậy tiến hành khởi nghĩa vũ trang vào ngày 18-3-1871. Với khí phách “xông lên chọc trời” của công nhân và nhân dân Pari, Chính phủ Chie hoảng sợ tháo chạy về Vecxai; công nhân và nhân dân nhanh chóng làm chủ tòa thị chính và các công sở Pari. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, bộ máy thống trị của giai cấp tư sản bị lật đổ, chính quyền ở Pari chuyển về tay Ủy ban Trung ương Vệ quốc do công nhân và thợ thủ công bầu ra. Ngay sau đó, với thành công của cuộc bầu cử dân chủ theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu được tổ chức vào ngày ngày 26-3-1871, Hội đồng Công xã được xác lập và hoạt động ở Pari [Công xã Pari].

Hội đồng Công xã là cơ quan quyền lực cao nhất, bao gồm những đại biểu của nhân dân lao động, trong đó công nhân giữ vai trò nòng cốt. Các ủy viên Công xã có thể bị bãi miễn nếu không còn uy tín hoặc không còn khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Hội đồng Công xã ban bố nhiều sắc luật mới và tổ chức ra các Ủy ban[1] để thi hành các sắc luật đó. Công xã Pari xóa bỏ quân đội thường trực, lấy nhân dân vũ trang thay thế. Công xã thủ tiêu bộ máy cảnh sát cũ. Việc giữ gìn an ninh trật tự trong thành phố do công nhân vũ trang đảm nhiệm. Công xã đề ra và thi hành nhiều biện pháp để bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để giai cấp công nhân và nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội như: xóa bỏ chế độ đặc quyền của các viên chức nhà nước; quy định quyền bầu cử, ứng cử; tách nhà thờ khỏi các hoạt động của nhà nước; thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc và miễn phí; giao công nhân quản lý các xí nghiệp và công xưởng mà giới chủ đã bỏ trốn; quy định giá bán bánh mì, tiền lương tối thiểu; vạch kế hoạch xây dựng nhà trẻ, vườn trẻ cho con em công nhân… Công xã đồng thời thực hiện các biện pháp chuyên chính đối với các thành phần bóc lột và chống đối cách mạng như: thành lập các tòa án đặc biệt để xử bọn phản cách mạng, đóng cửa báo chí phản động, cấm cúp lương, cấm làm đêm trong các xưởng bánh[2] …

Với những nguyên tắc và đặc điểm như vậy, Công xã Pari thể hiện sinh động là một nhà nước kiểu mới, một nền dân chủ kiểu mới – nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rốt cuộc đã được thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động sáng tạo ra. Khi tổng kết kinh nghiệm của Công xã Pari, C.Mác viết: “Về thực chất nó là một chính phủ của giai cấp công nhân, là kết quả của cuộc đấu tranh của giai cấp những người sản xuất chống lại giai cấp chiếm đoạt, là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được khiến cho có thể thực hiện được việc giải phóng lao động về mặt kinh tế”[3].

Công xã Pari thể hiện sinh động là một nhà nước kiểu mới, một nền dân chủ kiểu mới – nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rốt cuộc đã được thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động sáng tạo ra.

THỰC TIỄN SÁNG TẠO NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Vì nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, Công xã Pari đã không tránh khỏi bị dìm trong bể máu và thất bại hoàn toàn vào ngày 28-5-1871. Tuy nhiên, như Mác nói, cách mạng đã chết, cách mạng muôn năm! Mặc dù chỉ tồn tại trong 72 ngày đêm, Công xã Pari là một thực tiễn cách mạng sinh động để lại cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Trong những thời điểm, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, khi nghiên cứu, đánh giá về Công xã Pari, các nhà kinh điển Mác-Lênin, các lãnh tụ cách mạng và giới nghiên cứu lý luận mác xít trên thế giới và ở Việt Nam đã nói đến nhiều bài học kinh nghiệm khác nhau.

Thứ nhất, cuộc cách mạng 18-3 và Công xã Pari 1871 chứng tỏ, nền dân chủ vô sản [dân chủ xã hội chủ nghĩa] tất yếu ra đời thay thế dân chủ tư sản và lý luận soi đường tiến trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa Mác.

Thực tiễn cách mạng Pháp lúc bấy giờ cho thấy, giai cấp tư sản Pháp [cả Nền Đế chế II do Napôlêông III làm hoàng đế và Chính phủ Vệ quốc do Chie đứng đầu] đã trở thành lực lượng phản động. Về đối nội, thực hiện áp bức, bóc lột nặng nề giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Về đối ngoại, tiếp sau cuộc chiến tranh xâm lược Crưm [1853-1856], xâm lược Mêhicô [1861-1867], xâm lược Việt Nam [1858], xâm lược Campuchia [1863],…năm 1870, Pháp tuyên chiến với Đức. Nó chủ động gây chiến tranh xâm lược Đức và các nước khác nhưng cũng sẵn sàng đầu hàng kẻ thù và bán rẻ Tổ quốc. Nó thù ghét tư sản Đức, cản trở sự thống nhất của nước Đức nhưng cũng sẵn sàng thỏa hiệp, cấu kết với địa chủ, tư sản Đức để chống lại nhân dân Pháp cách mạng và tiêu diệt Công xã Pari. Với bản chất phản động [phản dân chủ và phản quốc] như vậy, giai cấp tư sản Pháp không thể là người đại diện cho tương lai của nước Pháp.

Cuộc cách mạng 18-3 và Công xã Pari 1871 cho thấy, đúng như khẳng định của chủ nghĩa Mác: giai cấp công nhân đã thực sự bước lên vũ đài lịch sử để đảm nhận sứ mệnh vẻ vang đối với dân tộc và nhân loại. Việc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, xác lập dân chủ xã hội chủ nghĩa là con đường tất yếu của nước Pháp cũng như của các quốc gia dân tộc văn minh trên thế giới. Lý luận soi đường tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng, phát triển thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước và trên toàn thế giới là chủ nghĩa Mác. Cách mạng 18-3 và Công xã Pari 1871 không chỉ là bằng chứng khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác mà còn là thực tiễn sinh động để không ngừng bổ sung, phát triển và làm sâu sắc bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác nói chung và học thuyết Mác về dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng. Ngay ngày 23-5-1871, khi kẻ thù bao vây và điên cuồng tấn công Công xã Pari, C.Mác nhận định: “nếu như Công xã bị đánh tan thì cuộc đấu tranh sẽ chỉ bị trì hoãn mà thôi. Những nguyên tắc của Công xã là vĩnh cửu và không thể tiêu dịêt được; trước khi giai cấp công nhân giành được sự giải phóng, chúng sẽ liên tục biểu hiện”[4].

Thứ hai, kinh nghiệm Công xã Pari 1871 xác nhận rằng, cốt lõi của việc xác lập và vận hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thông qua bạo lực cách mạng thay thế chuyên chính tư sản bằng chuyên chính vô sản, trong đó thực hiện dân chủ với nhân dân gắn liền với thực hiện chuyên chính đối với bọn chống đối cách mạng và các thành phần bóc lột.

Cuộc cách mạng 18-3 và Công xã Pari 1871, một mặt, xác nhận luận điểm Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền là nhiệm vụ hàng đầu trong giai đoạn thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân; mặt khác, nó cũng xác nhận rằng, vấn đề chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản trong toàn bộ tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa chứ không chỉ trong giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đối diện với thế lực tư sản phản động, giai cấp công nhân tất yếu phải dùng bạo lực cách mạng đập tan chuyên chính tư sản, thay thế chuyên chính tư sản bằng chuyên chính vô sản. Công xã Pari là hình thức chuyên chính vô sản, kiểu tổ chức  dân chủ vô sản đầu tiên rốt cuộc đã được lịch sử tìm ra để thay thế chuyên chính tư sản và dân chủ tư sản.

Cuộc cách mạng 18-3 và Công xã Pari 1871 cho thấy, giành chính quyền, giành dân chủ là việc khó nhưng giữ vững chính quyền, giữ vững dân chủ lại là việc khó hơn. Công xã Pari thực hiện dân chủ với nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên chính đối với bọn chống đối cách mạng và các thành phần bóc lột. Tuy nhiên, công nhân Pari đã quá “rộng lượng” với kẻ thù, đã không nhanh chóng tịch thu nhà ngân hàng; chưa chú ý đúng mức việc tổ chức, huấn luyện về kỷ luật, kỹ thuật chiến đấu cho các lực lượng vũ trang nhân dân; trừng trị quá chậm và không đầy đủ đối với báo chí phản động và đã để Chính phủ Chie chạy về Vecxai có thì giờ, điều kiện tập hợp lực lượng phản công, tiêu diệt Công xã Pari. Bài học xương máu này có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn không chỉ đối với công nhân Pháp mà còn với cả giai cấp công nhân trên toàn thế giới.

Thứ ba, kinh nghiệm Công xã Pari 1871 chỉ ra rằng, để xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải coi trọng liên minh giai cấp, đoàn kết dân tộc và thực hành chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giải quyết hài hòa quan hệ giai cấp, dân tộc và quốc tế.

Cuộc cách mạng 18-3 và Công xã Pari 1871 trước hết là kết quả đấu tranh của quần chúng công nhân và nhân dân Pari vì lợi ích sống còn của mình và vì danh dự, vận mệnh của nước Pháp. Ngay cả trong hoàn cảnh bị bao vây, Công xã vẫn cố gắng thiết lập liên minh giữa lao động thành thị và lao động nông thôn khi dùng khinh khí cầu để chuyển tới nông dân lời kêu gọi: “Thắng lợi của chúng tôi là hy vọng duy nhất của các bạn”. Mặt khác, cách mạng 18-3 và Công xã Pari 1871 còn có sự tham gia đóng góp đáng kể của các hội viên Hội liên hiệp công nhân quốc tế [Quốc tế I], trong đó có những ngoại kiều lỗi lạc đến từ Ba Lan, Nga, Hungari, Bỉ, Ý [5]. Ngay từ đầu, Công xã lấy cờ đỏ tượng trưng cho cách mạng [lá cờ của nền cộng hòa thế giới] làm cờ của mình và thi hành các biện pháp tỏ rõ đường lối hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc. Những điều đó nói lên rằng, cách mạng 18-3 và Công xã Pari 1871 bước đầu thể hiện sự gắn bó, thống nhất giữa tính nhân dân, tính giai cấp, tính dân tộc và tính quốc tế của giai cấp công nhân.

Cố nhiên, ra đời và hoạt động ở thủ đô Pari[6] trong sự bao vây, phản kháng, chống phá điên cuồng của giai cấp tư sản Pháp và liên minh tư sản phản động Pháp – Đức, Công xã Pari đã không tránh khỏi bị dìm trong bể máu. Thất bại của Công xã Pari 1871 càng cho thấy rằng để xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải đặc biệt coi trọng liên minh giai cấp, đoàn kết dân tộc và thực hành chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giải quyết hài hòa quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và quốc tế.

Thứ tư, cách mạng 18-3 và Công xã Pari 1871 cho thấy, nhất thiết phải xây dựng chính đảng vô sản cách mạng ở mỗi nước để lãnh đạo tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Công xã Pari 1871 là kết quả của những hành động anh hùng cách mạng rất đáng khâm phục của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tuy nhiên, phần đông công nhân và quần chúng lao động chưa được chuẩn bị, thiếu rèn luyện; họ chưa có ý niệm thật rõ rệt về nhiệm vụ của mình và về những phương sách để thực hiện những nhiệm vụ đó[7]. Cách mạng 18-3 và Công xã Pari 1871 ra đời, hoạt động trong điều kiện như vậy thì thất bại là khó tránh khỏi. Yêu cầu đặt ra là phải có một đảng cách mạng chặt chẽ, thống nhất, khoa học lãnh đạo. Thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng, phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình cách mạng toàn diện, triệt để, lâu dài, phức tạp đòi hỏi tính tổ chức, tính khoa học, tính tự giác, sáng tạo rất cao. Để giành thắng lợi trong tiến trình cách mạng vĩ đại đó cần nhiều yếu tố, điều kiện khách quan và chủ quan. Trong đó, yếu tố tiên quyết chính là phải xây dựng chính đảng vô sản cách mạng ở mỗi nước. Chỉ có chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tiên phong về lý luận và thực tiễn, nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác mới có thể đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp; trên cơ sở đó, giáo dục, giác ngộ, tổ chức, huấn luyện, lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước và trên toàn thế giới.

Cách mạng 18-3 và Công xã Pari 1871 cho thấy, nhất thiết phải xây dựng chính đảng vô sản cách mạng ở mỗi nước để lãnh đạo tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Kinh nghiệm thành công và thất bại của các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới đều rất có giá trị, ý nghĩa đối với tiến trình cách mạng và quá trình xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhiều khi, từ những sai lầm, thất bại của cách mạng trong ngày hôm qua, những người cách mạng học được nhiều kinh nghiệm để tránh sai lầm cho hôm nay và mai sau. Ngay trong tác phẩm Đường cách mệnh [1927], khi nói về vận dụng kinh nghiệm cách mạng thế giới, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mệnh Pháp [bao hàm cả Công xã Pari] làm gương cho chúng ta về nhiều phương diện. Ví dụ: “Dân chúng công nông là gốc cách mệnh, tư bản là hoạt đầu, khi nó không lợi dụng được dân chúng nữa, thì nó phản cách mệnh”; “Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền mới thành công”; và “Cách mệnh Pháp hy sinh rất nhiều người mà không sợ; ta muốn làm cách mệnh thì cũng không nên sợ phải hy sinh”[8] …

Hơn 90 năm qua, trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo, vận dụng kinh nghiệm cách mạng thế giới, trong đó có kinh nghiệm Công xã Pari 1871, Đảng ta đã lãnh đạo đưa cách mạng cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi vĩ đại. Với những thắng lợi đã giành được, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng và không ngừng hoàn thiện; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới[9] … Nhìn lại 35 năm đổi mới, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[10].

Một chướng ngại vật do lực lượng cách mạng dựng lên trên đường phố Pari [ngày 18/3/1871]. Ảnh: Tư liệu

Trong những năm tới, với sự đan xen cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức, sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn so với trước. Để nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, vận dụng kinh nghiệm Công xã Pari nhằm tiếp tục đổi mới, xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa [giai đoạn 2021-2030], cần nhấn mạnh một số định hướng, giải pháp cơ bản đã nêu trong nghị quyết Đại hội XIII của Đảng:

Một là, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ra sức thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội.

Hai là, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.

Ba là, tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn, trong đó có quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Bốn là, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng. Đảng nêu gương thực hành dân chủ và bảo đảm kỷ luật, kỷ cương./.

TS. Nguyễn Anh Tuấn
ThS. Nguyễn Tiến Mạnh

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Chú thích:

[1] Ủy ban quân sự, Ủy ban thương nghiệp, Ủy ban tài chính, Ủy ban giáo dục, Ủy ban công tác xã hội, Ủy ban lương thực, Ủy ban tư pháp, Ủy ban đối ngoại, Ủy ban an ninh xã hội.

[2] Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr 254-255.

[3] [4] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1994, t.17,tr. 454, tr. 828.

[5] [7] Vũ Dương Ninh – Nguyễn Vưn Hồng: Lịch sử thế giới cận đại [Tái bản lần thứ 10], Nxb. Giáo dục, H, 2006, tr.210, tr. 214, tr 216-217..

[6] Trong những ngày cuối tháng 3-1871, do ảnh hưởng của Công xã Pari, ở nhiều trung tâm công nghiệp của Pháp, nhân dân lao động đã khởi nghĩa, giành chính quyền và xác lập công xã địa phương. Tuy nhiên, những công xã này chỉ tồn tại được gần 10 ngày và không trở thành lực lượng hỗ trợ cho Pari cách mạng.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.2, tr 296-297.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011].

[10]  Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tại trang: //danvan.vn/Home/Huong-toi-Dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-XIII-cua-Dang/13447/Nghi-quyet-Dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-XIII-cua-Dang.

Video liên quan

Chủ Đề