Các phương pháp mô hình hóa hệ thống co khi năm 2024
Show Chương 5: Hệ thống cơ khí xoay chiều Ở chương 2, chúng ta đã được học về các lệnh điều chỉnh các hệ thống tịnh tiến và giới thiệu việc sử dụng sơ đồ vật thể tự do để hỗ trợ viết phương trình mô tả chuyển động. Trong chương 3 chúng ta đã học cách sắp xếp lại các phương trình và phát triển các mô hình biến trạng thái và đầu vào - đầu ra. Việc mở rộng các quy trình này cho các hệ thống quay đòi hỏi rất ít theo cách của các khái niệm mới. Đầu tiên chúng ta được giới thiệu ba yếu tố quay là các chất tương tự của khối lượng, ma sát, và độ cứng trong hệ tịnh tiến. Hai yếu tố khác, đòn bẩy và bánh răng, được đặc trưng theo một cách hơi khác. Việc sử dụng luật kết nối và cơ thể tự do sơ đồ cho các hệ thống quay rất giống với việc sử dụng chúng cho các hệ thống tịnh tiến. Ở chương này, ta sẽ được học về hệ thống xoay chiều trong cơ khí
Đối với hệ thống cơ học quay, các ký hiệu được sử dụng cho các biến là: : Dịch chuyển góc (rad)Ɵ ω: v n tốốc góc ậ(rad/s) a: gia tốc góc (rad/s2) τ : moment xoắốn (N/m) Tất cả các biến này đều là phục vụ cho tính toán về thời gian, Các dịch chuyển góc được đo liên quan đến một số góc tham chiếu xác định, thường là hướng cân bằng của cơ chế hoặc điểm trong câu hỏi. Chúng ta sẽ phải chọn các mũi tên tham chiếu cho sự dịch chuyển góc, vận tốc và gia tốc của một vật có cùng phương để các mối quan hệ dưới đây được tổ chức ω\= Ɵ a= \=ω ӫ Các quy ước được sử dụng được minh họa trong Hình 5 .1, trong đó τ biểu thị mômen xoắn bên ngoài được áp dụng cho cơ thể quay bằng một số cơ cấu không xác định, chẳng hạn như bánh rang trên trục đỡ. Do quy ước rằng các hướng tích cực giả định cho ω, Ɵ và a giống nhau không nhất thiết phải hiển thị rõ ràng cả ba mũi tên tham chiếu. Công suất cung cấp cho thân quay trong hình 5 .1 là p = τ w Why is this page out of focus?This is a Premium document. Become Premium to read the whole document. Why is this page out of focus?This is a Premium document. Become Premium to read the whole document. Why is this page out of focus?This is a Premium document. Become Premium to read the whole document. Đây là một chủ đề trong Phân tích thiết kế hệ thống. Hiện tại mình đang nghiên cứu về phần này nên cũng chia sẻ với mọi người luôn. Đối với các bạn làm gia công phần mềm, có lẽ công việc này gần như chẳng bao giờ phải động đến, cái specs mà các bạn được đưa cho thực chất chính là kết quả của quá trình này, mà ở đó khách hàng là người thực hiện. Hiếm có khi nào khách hàng lại để ta triển khai phần này. Tuy nhiên khi các bạn làm product, thì việc phân tích và thiết kế hệ thống là việc mà các bạn cần phải nắm chắc. Việc phân tích và thiết kế hệ thống, tuy có khác nhau về nhiệm vụ, mục tiêu hay mức độ trừu tượng hoá, nhưng chúng có chung những đặc điểm:
Mô hình hoá là gì?Mô hình là một dạng trừu tượng hóa của một hệ thống thực. Hay nói một cách khác, mô hình là một hình ảnh hay một biểu diễn của một hệ thống thực, qua đó diễn tả hệ thống:
Việc dùng các mô hình để làm sao nhận thức và diễn tả nên được hệ thống thì người ta gọi đó là mô hình hóa. Do vậy mà quá trình phân tích và thiết kế hệ thống cũng thường được gọi chung là quá trình mô hình hóa hệ thống. Mô hình hóa có tác dụng gì?Việc mô hình hóa thì có ba mục đích:
Do đó, một mô hình tốt phải đạt các yêu cầu:
Phương pháp mô hình hóaNgày nay, tồn tại rất nhiều phương pháp mô hình hóa (hay gọi là phương pháp phân tích và thiết kế) các hệ thống thông tin. Tuy nhiên, tất các phương pháp mô hình hóa đều là sự kết hợp của ba thành phần:
Hai xu hướng chính của mô hình hóaCó rất nhiều phương pháp mô hình hóa khác nhau, tuy nhiêu ta có thể phân loại chúng theo hai xu hướng:
Hai xu hướng mô hình hóa trên cũng phản ánh tương ứng với hai programming paradigm khác biệt: lập trình hướng thủ tục và lập trình hướng đối tượng. Về cơ bản, sau này mình cũng chỉ viết về mô hình hóa hướng đối tượng, kèm theo đó là cách sử dụng các biểu đồ của UML. Hy vọng sau bài viết này các bạn sẽ bổ sung được những kiến thức hữu ích. Phần kiến thức trong bài được tham khảo từ cuốn sách "Phát triển hệ thống hướng đối tượng với UML 2.0 và C++" của Nguyễn Văn Ba |