Bài học rút ra tự kết cục của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai là gì

HỒNG ÁNH [Biên dịch]

Chiến tranh bùng nổ

Ngày 1-9-1939, cách đây tròn 80 năm, quân đội Đức Quốc xã tiến công Ba Lan, chính thức châm ngòi cho Chiến tranh thế giới thứ hai và kéo dài trong sáu năm [từ 1939 đến 1945]. Theo hai phe là Đồng minh và phát-xít, hơn 60 quốc gia trên thế giới bị kéo vào cuộc chiến này, với các hoạt động quân sự diễn ra khắp châu Âu, châu Á và châu Phi, cả trên đất liền lẫn trên không, trên biển.

Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra là kết quả của sự gia tăng mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn về tư tưởng, lợi ích giữa các quốc gia tại các khu vực địa lý khác nhau, và là hệ quả của việc ưu tiên quân sự hóa tất cả các lĩnh vực tại nhiều nước. Đó là thời điểm mâu thuẫn chính trị và kinh tế giữa hai nhóm cường quốc tư bản [gồm cả các nước chiến thắng và cả thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất] đã đạt đến độ “cực đoan”. Tại châu Âu, Chiến tranh thế giới thứ hai là sự tiếp nối của Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi phát-xít Đức muốn lấy lại vị thế cường quốc và phân chia lại lãnh thổ, cũng như ảnh hưởng chính trị tại châu Âu. Vẽ lại bản đồ địa chính trị châu Âu và châu Phi, phân chia lại thuộc địa và thị trường cũng là tham vọng của các nước theo chủ nghĩa phát-xít ở thời điểm đó.

Rạng sáng 1-9-1939, không hề có bất cứ cảnh báo trước nào, phát-xít Đức tiến hành oanh tạc thị trấn Wielun nhỏ bé ở miền trung Ba Lan, nằm cách biên giới với Đức khoảng 21 km, và là nơi sinh sống của hơn 16.000 người. Các máy bay quân đội Đức đã thả 380 quả bom với tổng trọng lượng khoảng 46 tấn xuống thị trấn đang chìm trong giấc ngủ, làm cho hơn 1.200 người chết. Các nhà sử học Ba Lan gọi vụ đánh bom này là một hành động khủng bố nhằm vào dân thường, khi cho rằng tại thời điểm bị không kích, ở Wielun không có đơn vị nào của quân đội Ba Lan hay các hệ thống phòng không hoạt động. Một lúc sau, cuộc chiến thật sự diễn ra ác liệt tại bán đảo Westerplatte bên bờ biển Baltic của Ba Lan, nơi chỉ có khoảng vài trăm binh sĩ và sĩ quan Ba Lan đang bảo vệ các kho quân sự của quân đội nước này.

Bị Đức Quốc xã tiến công bất ngờ, quân đội Ba Lan chỉ cầm cự được bảy ngày, phải đầu hàng khi hết đạn và nước uống. Cùng với cuộc tiến công từ biển, các đơn vị xe tăng của Wehrmacht [quân đội phát-xít Đức] đã vượt biên giới đất liền vào Ba Lan, trong khi các thành phố, sân bay, đường sắt, cầu cảng và các cơ sở công nghiệp của Ba Lan bị không kích.

Hai ngày sau khi phát-xít Đức tiến công Ba Lan, ngày 3-9, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức vì những ràng buộc về nghĩa vụ đồng minh với Ba Lan. Thực tế, những trợ giúp mà liên minh Anh - Pháp dành cho Ba Lan là không đáng kể. Trong khi đó, tinh thần chiến đấu anh dũng của nhân dân và quân đội Ba Lan không đủ để chống chọi lại sức mạnh áp đảo của kẻ địch, và lãnh thổ Ba Lan bị phát-xít Đức chiếm đóng.

Cuộc chiến chống phát-xít

Ngày 17-9-1939, lo ngại nhà nước Ba Lan sụp đổ, với mục đích bảo vệ người dân, đồng thời ngăn chặn sự tiến công của quân đội Đức về phía đông, Hồng quân Liên Xô vượt biên giới Ba Lan tiến vào lãnh thổ phía tây Belarus và Ukraine. Quân đội Đức Quốc xã lúc đó đã có mặt trong khoảng từ 200 - 350 km gần biên giới và có kế hoạch tiến hành một cuộc tiến công vào Liên Xô. Tháng 4, tháng 5-1940, quân đội phát-xít Đức đã chiếm đóng Đan Mạch và Na Uy, rồi sau đó đến Bỉ, Hà Lan và Luxembourg, trước khi xâm chiếm Pháp. Tháng 8-1940, không quân Đức bắt đầu tiến công dồn dập vào các thành phố của Anh, trong khi hải quân Đức ở Đại Tây Dương cũng tăng cường hoạt động.

Cũng trong tháng 8 năm đó, quân đội của phát-xít Italia, đồng minh của phát-xít Đức, đã chiếm Somalia, một phần Kenya và Sudan, sau đó tiến vào Ai Cập từ phía Libya. Song, từ tháng 1 đến tháng 5-1941, quân đội Anh đã đánh đuổi phát-xít Italia khỏi Somalia, Kenya, Sudan, Ethiopia, Somalia và Eritrea. Đầu năm 1941, quân đội Đức Quốc xã bắt đầu đến Bắc Phi, hình thành cái gọi là “Quân đoàn châu Phi”. Vào nửa cuối tháng 4, liên quân Đức - Italia cũng đã đến biên giới Libya - Ai Cập. Trong khi đó, quân đội phát-xít Nhật Bản bắt đầu chiếm đóng miền nam Trung Quốc và phần phía bắc Đông Dương.

Ngày 22-6-1941, phát-xít Đức xâm chiếm lãnh thổ Liên Xô. Và cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô bắt đầu. Ngày 12-7-1941, một thỏa thuận được ký kết giữa Liên Xô và Anh về các hành động chung chống lại phát-xít Đức. Sau đó, ngày 2-8, Liên Xô và Mỹ cũng đạt được thỏa thuận về hợp tác kinh tế - quân sự. Để ngăn chặn nguy cơ tạo ra các thành trì phát-xít ở Trung Đông, khoảng tháng 8, tháng 9-1941 quân đội Anh và Liên Xô đã vào Iran. Một ngày sau khi phát-xít Nhật tiến công Trân Châu Cảng, ngày 8-12, Mỹ, Anh và các nước trong liên minh chống phát-xít tuyên chiến với Nhật Bản.

Trên mặt trận chống Đức, dù hứng chịu nhiều tổn thất to lớn song Hồng quân Liên Xô đã khiến kẻ thù kiệt quệ, qua đó ngăn chặn bước tiến của phát-xít Đức trên tất cả các hướng quan trọng. Thất bại lớn đầu tiên của Wehrmacht trong Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra trong trận chiến bảo vệ Thủ đô Moscow giai đoạn 1941-1942 của Hồng quân Liên Xô, khiến kế hoạch của Hitler về chiến dịch “chớp nhoáng” hoàn toàn đổ bể. Năm 1942, quân đội Đức Quốc xã xâm nhập vùng Kavkaz và hướng đến Volga, nhưng chiến thắng của Hồng quân Liên Xô trong trận Stalingrad [1942-1943] và trận Kursk [1943] khiến quân đội Đức Quốc xã thất bại thảm hại. Năm 1944, Hồng quân Liên Xô giải phóng gần như toàn bộ lãnh thổ Liên Xô. Tháng 6-1944, liên quân Anh - Mỹ đổ bộ Pháp, mở mặt trận thứ hai ở châu Âu và tổ chức tiến công ở Đức. Sau đó ba tháng, liên quân này dọn sạch gần như toàn bộ lãnh thổ Pháp khỏi sự chiếm đóng của Đức Quốc xã. Từ giữa năm 1944, quân đội Liên Xô bắt đầu giải phóng các quốc gia miền trung và đông nam châu Âu [Ba Lan, Romania, Bulgaria, Hungary…] và hoàn thành chiến dịch này vào mùa xuân năm 1945.

Tháng 4-1945, sau khi đập tan lực lượng phát-xít Italia, quân đội Đồng minh đã tiến hành các hoạt động đánh bại hạm đội Nhật Bản ở Thái Bình Dương, giải phóng một số đảo bị Nhật Bản chiếm đóng. Vào khoảng thời gian đó, quân đội Liên Xô cũng đánh bại nhóm cuối cùng của quân đội Đức Quốc xã tại Berlin và Prague [thủ đô của CH Czech ngày nay]. Chiến tranh ở châu Âu kết thúc. Lúc nửa đêm ngày 8-5, ở ngoại ô Berlin, đại diện Bộ Tư lệnh Đức chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Ngày 2-9-1945, Nhật Bản đầu hàng và chiến tranh kết thúc.

Kéo dài sáu năm, Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc đụng độ quân sự lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Hơn 110 triệu người tham chiến, hơn 55 triệu người chết, trong đó 27 triệu người Liên Xô. Trong các hoạt động quân sự, các bên đã sử dụng một lượng xe tăng khổng lồ cùng các phương tiện quân sự và kỹ thuật tiên tiến. Lần đầu radar và các thiết bị điện tử vô tuyến khác, cùng pháo tên lửa, máy bay phản lực, máy bay, tên lửa đạn đạo, và đặc biệt là vũ khí hạt nhân cũng được sử dụng.

Vai trò của quân dân Liên Xô trong cuộc chiến chống phát-xít là không thể bàn cãi, vì đó là những đóng góp lớn trong sứ mệnh chung cứu nhân loại thoát khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát-xít. Sau chiến công này, Liên Xô trở thành thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội, ủng hộ các dân tộc bị áp bức trên thế giới, nhất là tại châu Á, châu Phi, Mỹ latin đứng lên giành độc lập, tự do, dẫn đến sự sụp đổ từng bước của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.

Ngày 1-9 vừa qua, Tổng thống Ba Lan Andrzej Duda và người đồng cấp Đức Frank-Walter Steinmeier cùng có mặt tại Lễ kỷ niệm ngày phát-xít Đức ném bom thị trấn Wielun. Phát biểu ý kiến tại buổi lễ, Tổng thống Đức cho hay, nước Đức mong được tha thứ cho thảm kịch mà phát-xít Đức gây ra cho Ba Lan. Cùng ngày, Lễ kỷ niệm 80 năm ngày nổ ra Chiến tranh thế giới thứ hai đã chính thức diễn ra ở Thủ đô Warsaw của Ba Lan, với sự tham dự của hàng chục nhà lãnh đạo và quan chức cấp cao của nhiều nước.

80 năm đã đi qua, nhưng chiến thắng của quân Đồng minh và các lực lượng yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên toàn thế giới trước chủ nghĩa phát-xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay vẫn là một trong những bản anh hùng ca chói lọi nhất trong lịch sử nhân loại thế kỷ 20. Những tổn thất, thương vong lớn vẫn còn đó, và luôn là bài học để nhắc nhớ thế giới cần phải trân trọng và gìn giữ nền hòa bình lâu dài.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai - bài học về gìn giữ hòa bình hiện nay

Cập nhật lúc 08:10, Thứ Sáu, 08/05/2015 [GMT+7]

Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai liên quan đến 72 nước với 1,7 tỷ người tham gia, 110 triệu quân tham chiến. Diễn biến của cuộc Chiến trải qua bốn giai đoạn, diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu; mặt trận Xô - Đức; mặt trận Bắc Phi; mặt trận châu Á - Thái Bình Dương và mặt trận trong lòng địch của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng, trong đó mặt trận chủ yếu, quyết định toàn bộ cuộc Chiến là mặt trận Xô - Đức. Ngày 1/9/1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan mở đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đến tháng 6/1941, sau khi chiếm đóng 16 nước châu Âu, phát xít Đức tiến công xâm lược Liên Xô nhằm tiêu diệt quốc gia xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới; nhân dân và Hồng quân Liên Xô đã tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trở thành lực lượng nòng cốt đánh bại chủ nghĩa phát xít cứu loài người khỏi thảm họa diệt vong. Phong trào kháng chiến chống phát xít ở các nước bị chiếm đóng phát triển mạnh, tháng 1-1942, Đồng minh chống phát xít chính thức được thành lập, nòng cốt là Liên Xô, Mỹ và Anh. Từ năm 1943, Liên Xô chuyển sang phản công và đến giữa năm 1944 mở một loạt chiến dịch tiến công quy mô lớn giải phóng toàn bộ lãnh thổ khỏi ách thống trị của phát xít Đức, đánh chiếm Béclin, sào huyệt cuối cùng của Hít-le. Ngày 9/5/1945, phát xít Đức phải ký đầu hàng, lò lửa chiến tranh ở châu Âu bị dập tắt. Đến ngày 9/8/1945, quân đội Liên Xô tiến công đập tan đạo quân Quan Đông của Nhật, góp phần quyết định buộc Nhật đầu hàng không điều kiện. Ngày 15/8/1945, Nhật hoàng công bố đầu hàng Liên Xô và các nước đồng minh, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. 

Đây là cuộc chiến tranh khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, đã làm gần 55 triệu người chết, hơn 20 triệu người tàn phế, thiệt hại vật chất tới 316 tỷ USD [Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr236]. Sự sụp đổ của phe phát xít là thắng lợi vĩ đại của nhân loại tiến bộ, dẫn đến những biến đổi căn bản của tình hình cách mạng thế giới. Các dân tộc của khối liên minh chống phát xít, đặc biệt là Liên Xô, đã phải trả giá đắt cho chiến thắng. Nhưng việc đánh tan chủ nghĩa phát xít đã góp phần làm thay đổi thế giới, bắt đầu sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các dân tộc đứng lên giành độc lập, tự do.

Chiến thắng vĩ đại của nhân dân Liên Xô và nhân dân các nước đồng minh chống chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai có ý nghĩa lịch sử và thời đại vô cùng sâu sắc, đó là: [1] Từ thảm họa của Chiến tranh thế giới lần thứ hai, loài người nhất là những người yêu chuộng hòa bình càng có trách nhiệm to lớn đối với việc gìn giữ nền hòa bình thế giới; việc phản đối chiến tranh, cùng nhau chia sẻ trách nhiệm bảo vệ hòa bình càng trở nên cấp bách đối với tất cả các quốc gia, dân tộc. [2] Nền dân chủ, nhân quyền thế giới được bảo vệ và phát huy, đồng thời thúc đẩy thế giới chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. [3] Làm thay đổi căn bản mối quan hệ quốc tế, không còn sự thống trị của châu Âu, Liên Xô và Mỹ đã phát triển nhanh chóng, trở thành hai cường quốc trên thế giới. [4] Sự ra đời của một loạt nước XHCN, hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới, mở ra con đường đấu tranh giành độc lập của các dân tộc bị áp bức; hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc bị lung lay, từng bước sụp đổ. [5] Liên Xô không những đã cứu loài người thoát khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít mà còn phát triển nhanh chóng, trở thành thành trì vững chắc của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa; tạo thành một mặt trận chống chiến tranh, gìn giữ hòa bình to lớn trên thế giới.

Đối với Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng, nắm vững thời cơ, khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật bị đánh bại, kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, giành chính quyền từ tay quân phiệt Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Việt Nam; đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do, đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ngày nay cho dù phương Tây và các thế lực thù địch vẫn cố tình xuyên tạc, hạ thấp vai trò, thậm chí còn ra sức đổ lỗi cho Liên Xô về sự bùng nổ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hòng tìm mọi cách che giấu và làm sai lệch nhận thức của nhân dân về Liên Xô trước đây và nước Nga hiện nay. Nhưng họ vẫn không thể phủ nhận được sự thật lịch sử là trong lúc Liên xô đang tìm mọi cách ngăn chặn để không xảy ra cuộc chiến tranh thì chính phương Tây mà trước hết là Anh, Pháp và Ba Lan lại khuyến khích Hitler gây chiến chống Liên Xô nhằm tiêu diệt chế độ cộng sản. Không ngờ chính họ đã tự biến mình thành nạn nhân của quân xâm lược phát xít. Đó chính là lý do đầu tiên dẫn đến Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đến khi Liên Xô bị phát xít Đức xâm lược năm 1941, trực tiếp là nạn nhân, đã buộc phải tham gia vào cuộc chiến tranh, bởi không còn cách nào khác. Việc Liên Xô tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, khối đồng minh được thành lập đã làm cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai chuyển thành chiến tranh chống phát xít, giải phóng các dân tộc trước họa diệt chủng. Vai trò của Liên Xô và Hồng quân Xô Viết và sức mạnh đoàn kết của các lực lượng tiến bộ là yếu tố quyết định đánh bại chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Thắng lợi vĩ đại của Liên Xô là thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa, của tinh thần quốc tế vô sản cao cả và ý chí chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của nhân dân, quân đội Xô viết. 

Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã lùi xa 70 năm, nhưng nhân loại rút ra được nhiều bài học quí báu; trong đó, bài học đầu tiên là muốn tránh chiến tranh trước hết bản thân mình phải có tư tưởng hòa bình; biết nhân nhượng, tôn trọng lợi ích của nhau, không xúi giục gây chiến với bất kỳ ai, tránh để xảy ra tình trạng “gậy ông lại đập lưng ông”, hoặc kẻ “gieo gió thì gặt bão”. 

Bài học tiếp theo là lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng các thế lực xâm lược bao giờ cũng đưa những điều tốt đẹp, cao quí, hô hào khẩu hiệu bảo vệ quyền tự do, dân chủ, nhân quyền…để biện minh, che đậy cho mưu đồ xấu xa, hành động đen tối của chúng. Vì vậy, các nước, các dân tộc trên thế giới cần tỉnh táo, bình tĩnh, sáng suốt, cảnh giác trước các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc để không mắc mưu kẻ thù. Đồng thời cũng chỉ ra những thế lực hiếu chiến, liều lĩnh phát động chiến tranh xâm lược chống lại loài người thì nhất định sẽ chuốc lấy thất bại thảm hại. 

Và bài học về đoàn kết các lực lượng tiến bộ của loài người trong mặt trận đấu tranh chống các thế lực hiếu chiến, ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hòa bình trên thế giới vẫn còn nguyên giá trị. 

Ngày nay, mặc dù hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển là xu thế của thời đại, nhưng thế giới vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố bất ổn định như: trật tự chính trị, kinh tế thế giới không công bằng; khoảng cách giàu nghèo giữa các nước phát triển và chậm phát triển ngày càng lớn; xung đột cục bộ do nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn liên tiếp xảy ra; các thế lực ly khai và khủng bố quốc tế ngày càng tăng… nguy cơ đe dọa hòa bình, an ninh vẫn còn rất lớn. Do đó, việc tăng cường đoàn kết, hợp tác, hình thành mặt trận rộng lớn đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; ngăn chặn, chống lại sự áp đặt, can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc phải được coi là vấn đề quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển của các quốc gia dân tộc. Những bài học của Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhất là bài học về sự nhân nhượng, tôn trọng lợi ích của nhau để bảo vệ hòa bình, ổn định, đảm bảo sự phát triển toàn diện và yên ổn cho mỗi quốc gia, dân tộc càng có ý nghĩa thời sự cấp thiết hơn bao giờ hết.                                              

VĂN NHÂN

,

Video liên quan

Chủ Đề