Anh chị em ruột của bác hồ là ai

1. Các nhà xã hội học kêu gào đến khản giọng về việc đạo đức xuống cấp nghiêm trọng, “ sự tử tế trở thành cụm từ sáo rỗng và xa xỉ!”[1]. Các vụ cướp giếp hếp ngày càng tàn bạo, cái sự đối xử của con người với con người ngày một lạnh lùng. Triều đình lo quá, vội vàng phát động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đã dăm năm hơn, phong trào “sâu rộng đến mọi tầng lớp xã hội”, vậy mà xem chừng cái bức tranh đạo đức vẫn không sáng lên được chút nào.

Khi việc học không có kết quả mong đợi, cần xem xét lại ba nhân tố quan trọng: nội dung học, phương pháp dạy của thầy và thái độ học của trò. Trong trường hợp này, ba yếu tố đó là: Tấm gương đã thực sự sáng không? Truyền thông có chiến lược tốt chưa? Tinh thần học tập của dân chúng ra sao? Yếu tố thứ nhất thì khỏi bàn, chủ tịch Hồ Chí Minh là vầng thái dương soi sáng đến muôn đời. Hai yếu tố sau là chuyện quốc gia đại sự, một thảo dân như mình không dám bàn.

Mình xưa nay luôn có ý thức tu dưỡng theo gương cụ Hồ, khỏi cần triều đình phát động. Bao nhiêu sách viết về cụ mình đều mua về, thắp nến ngồi đọc rất mực thành kính. Và thấy cái đạo đức của riêng cá nhân mình được cải thiện đáng kể. Mình thường quan tâm chuyện nhỏ trước, ví như tình chị em giữa cụ Hồ và người chị ruột là bà Nguyễn Thị Thanh.

2. Bà Thanh, tên thật là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh năm 1884. Cụ Nguyễn Sinh Sắc lấy hình ảnh bông sen trắng để đặt tên cho đứa con gái đầu lòng, chắc gửi gắm vào đó những ước mơ đẹp. Vậy nhưng bông sen trắng ấy ngay từ thuở nhỏ đã trải qua một cuộc đời nhiều đắng cay, bất hạnh.

9 tuổi [năm 1893] , cô chịu tang ông ngoại. [Ông Hoàng Đường nhận Nguyễn Sinh Sắc làm con nuôi, sau gả con gái cho. Cả gia đình Nguyễn Sinh Sắc sống cùng ông bà Hoàng Đường].

10 tuổi [năm 1894], “cha đỗ cử nhân rồi đi Huế cùng mẹ và hai em”[2] cô ở lại nhà giúp đỡ bà ngoại.

16 tuổi [năm 1901], mẹ là bà Hoàng Thị Loan mất ở Huế. Chưa đầy một năm sau, người em út Nguyễn Sinh Xin mất. Sau này, bà Thanh kể cho Sơn Tùng nghe: “Mẹ o mất sớm, o phải về quê thay cha, thay mẹ chăm sóc bà ngoại”[3].

20 tuổi [năm 1904], chịu tang bà ngoại. Từ đó về sau, mọi việc trong gia đình họ tộc đều trông vào cô Thanh. Theo Nguyễn Sinh Mại[4], người gọi Nguyễn Sinh Sắc là chú ruột, “cô Thanh là phụ nữ đảm đang, dũng cảm, kiên nghị”. Cô Thanh dám gặp Tổng đốc và Công sứ Nghệ An đòi thả một người bạn trai ra khỏi tù về chịu tang cha, “nếu không thì cô sẽ ngồi tù thay”.

22 tuổi [khoảng năm 1906], “Thanh vào Huế với cha lần đầu tiên cùng người đầy tớ gái. Nhưng cô không chịu nổi sự tàn bạo của người cha nghiện rượu, thường đánh đập cô. Năm sau cô trở về Kim Liên”.

26 tuổi [năm 1910] cha cô bị xử phạt 50 trượng, sau đổi thành án giáng 4 cấp và bị triệu hồi.

Cũng trong năm này, trong một chuyến đi liên lạc với nghĩa quân chống Pháp, cô Thanh bị bắt, bị đánh đập dã man. Cô bị giam một thời gian. Ra tù, lại tiếp tục liên lạc với líh khố xanh, khố đỏ, mua súng giúp nghĩa quân.

Ngày 23 tháng 1 năm 1920, trong thông tri mật của chánh mật thám Trung kỳ viết: “Chị Thanh không có chồng, 32 tuổi, bị buộc tội đồng lõa với những kẻ phản nghịch ở Nghệ Tĩnh… bị tòa án tỉnh Nghệ An kết án 9 năm khổ sai và hiện chịu hành phạt ở Quảng Ngãi”[5].

Ra khỏi tù ở Quảng Ngãi [lúc này đã ngoài 35 tuổi], cô về quê tiếp tục hoạt động cách mạng. Bà Thanh kể cho Sơn Tùng: “Bọn Pháp theo dõi, đã mấy lần bắt o, chúng nó tra tấn o kinh khủng lắm, bắt o đeo gông rồi đày đi suốt 9 tỉnh miền Trung, đi vào đến Quảng Ngãi cháu ạ. Có lần Pháp tra tấn o dã man đến mức chúng nướng chiếc mâm đồng cho đỏ rồi bắt o ngồi lên đó. Chúng nó tra tấn kiểu như vậy làm cho những người phụ nữ như o bị “điếc” luôn, không còn khả năng sinh nở nữa”.

38 tuổi [khoảng năm 1922], bà vào Huế đưa hài cốt mẹ về chôn sau vườn nhà.

Năm bà 43 tuổi [tháng 8 năm 1927], cha bà ốm nặng tại chùa Linh Sơn, Sài Gòn. Dù đang bị thực dân Pháp an trí ở Huế, bà vào Sài Gòn thăm cha. “THấy cha quá ốm yếu, cô xin rước về Huế để nuôi dưỡng. Cụ Sắc nói: Thân con bị quản thúc, con lo còn chưa xong, làm sao lo cho cha được”. Cô khóc lóc năn nỉ mãi, sau đành một mình trở lại Huế”[6].

Năm bà 45 tuổi [năm 1929], cha bà mất ở Cao Lãnh Đồng Tháp. Bà vào chịu tang cha.

Năm bà khoảng 60 tuổi, theo lời của Nguyễn Sinh Định, gọi cụ Hồ là chú thúc bá: “vào một đêm trời tối như bưng, chú cả Khiêm cầm bó đuốc đi trước, bố tôi khiêng một đầu, tôi khiêng một đầu cái tiểu sành đựng hài cốt bà Loan đưa từ vườn nhà lên núi Đại Huệ chôn cất”. Lúc chôn cất mẹ xong, “chú cả Khiêm lẩm nhẩm khấn thành tiếng: “Mẹ ơi,,, em Côông, con của mẹ nhất định sẽ về…”.

Năm 1945, đất nước độc lập, bà Thanh 61 tuổi, “mặc quần áo nâu, đầu chít khăn nhung, miệng nhai trầu, tay xách hai con vịt và hai chục quả trứng gà đón xe Nam Đàn – Vinh, rồi lên tàu lửa ra Hà Nội”. Hai chị em gặp nhau, “chuyện trò được nửa giờ” thì cụ Hồ phải lo việc nước, bà Thanh về nhà người quen ở phố Hàng Nón nghỉ. Mấy hôm sau, cô về, “bác Hồ bận quá, phải nhờ người đến biếu cô mấy mét vải lĩnh…”.

3. Mình xem Tivi, thỉnh thoảng gặp chương trình biểu diễn của các võ sư phi phàm, với các tiết mục như nuốt than đỏ, đam kiếm sắc vào bụng, đặt một chồng gạch lên đầu rồi lấy búa đập gạch vỡ tan… Những người làm chương trình luôn cho chạy dòng chữ: “Người xem tuyệt đối không bắt chước, nguy hiểm đến tính mạng”.

Sau 40 năm xa cách, với biết bao nhiêu biến cố đau thương của gia đình, hai chị em chỉ gặp nhau được 30 phút, vĩnh viễn không gặp lại nữa. Các nhà “Hồ Chí Minh học” luôn đưa ra hai bảo bối, nằm trong mấy chữ “bận trăm công ngàn việc” và “hy sinh cao cả” để biện minh.

Cụ Hồ hai lần về thăm quê cũ, dân chúng cảm động rơi nước mắt, hàng chục năm sau vẫn còn nhắc đến những hình ảnh, cử chỉ, lời nói của cụ. Mình không thấy ai kể chuyện cụ lên núi Đại Huệ viếng mộ mẹ, không ai nhắc chuyện cụ thắp hương cho anh, cho chị, cho tổ tiên dòng họ??? Mong sao cái sự đọc của mình chưa đến nơi đến chốn.

Mình nghĩ, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như một vị võ sư siêu phàm, người trần mắt thịt chúng ta khi “học tập” cần cẩn thận.

[2] TS Bùi Thị Thu Hà, Kể chuyện cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, NXB Bách khoa, 2009, trang 219.

[4] Chuyện với người cháu gần nhất của bác Hồ, NXB Thanh niên, 2007.

[5] Kể chuyện cụ phó bảng… trang 210.

[6] Trần Minh Siêu, Những người thân trong gia đình Bác Hồ, trang 50.

Ông Nguyễn Sinh Khiêm sinh năm 1888, mất năm 1950, có tên hiệu là Tất Đạt vốn là người có tư chất thông minh, sáng dạ, hiểu biết, vừa giỏi chữ Hán lại vừa biết chữ quốc ngữ và cả chữ Pháp.

Từ khi sinh, tức năm 1888 đến năm 1895 ông Khiêm được sống quây quần bên gia đình là ông bà, cha mẹ và chị, em ở làng Hoàng Trù. Đến năm 1895 cậu cùng em trai là Nguyễn Sinh Cung được cha mẹ chuyển đến Huế ở.

Ông Nguyễn Sinh Khiêm – anh trai Bác Hồ

Năm 1900 ông lại cùng cha mình ra Thanh Hóa để giúp cha tổ chức kỳ thi Hương Canh Tý. Sau khi kết thúc kỳ thi ông được cha đưa về quê ở Hoàng Trù sống với bà ngoại và chị gái.

Năm 1901 sau khi cha ông đậu Phó bảng, ông theo gia đình về sống tại làng Kim Liên.

Năm 1903 ông theo cha lên Võ Liệt, Thanh Chương, rồi từ đó sang Đức Thọ, ra Diễn Châu, Yên Thành vừa học tập vừa được tiếp xúc với các nhà nho yêu nước trong vùng, trau dồi kiến thức và tinh thần yêu nước thương dân.

Đến tháng 5 năm 1906, ông cùng em trai theo cha vào Huế lần thứ 2, ông học tại trường tiểu học Pháp – Việt Đông Ba. Sau đó lại chuyển sang trường Quốc học Huế. Đến khi cha ông là Nguyễn Sinh Sắc vào Bình Định nhận chức tri huyện Bình Khê thì ông trở lại quê nhà Kim Liên sống cùng chị gái. Thời gian này ông bắt đầu cùng chị tham gia phong trào yêu nước của Phan Bội Châu.

Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về cuộc đời của bà Nguyễn Thị Thanh – chị gái Bác Hồ, bạn có thể xem thông tin Tại đây.

Cuộc đời cách mạng của ông Nguyễn Sinh Khiêm

Sau khi về Kim Liên được một thời gian ngắn, nhờ sự động viên của ông Lê Sách [Tú San] ông Khiêm đã mở lớp dạy chữ quốc ngữ đầu tiên trong vùng Bố Ân, Bố Đức, Kim Liên, Hoàng Trù. Tuy không có giáo án, không sách giáo khoa nhưng ông có phương pháp giảng dạy cực kỳ dễ hiểu, được học trò yêu mến, học hành mau chóng tiến bộ. Vài tháng sau ông tiếp tục mở thêm lớp dạy võ với thầy dạy là ông Đội Phấn.

Năm 1910 tên công sứ Nghệ An thời đó là Augé rất mê ca dao tục ngữ Việt, biết ông Khiêm là người có kiến thức cao rộng, hắn đã mời ông Khiêm về để biên tập chuyên đề về ca dao tục ngữ. Ông Khiêm nhận lời, nhưng khi làm ông cố tình bỏ qua những câu ca ngợi công công lao của bọn thống trị. Tên Augé biết quở ông là bỏ sót tài liệu và giơ chân định đá, ông Khiêm nắm được chân, dúi cho tên này ngã nhào rồi bỏ về Kim Liên, không làm nữa.

Năm 1913 khi ông 25 tuổi được bầu làm hương hào, phụ trách công tác hương bản. Bên ngoài là hương hào, nhưng bên trong ông tìm mọi cách có lợi cho dân, bằng cách giảm nhẹ sưu thuế, cải cách chế độ cúng tế, đám đình. Thậm chí ông còn bí mật tham gia hoạt động chống Pháp trong tổ chức Đội Quyên, Đội Phấn, chính ông là người vận động tài chính để tiếp tế cho nghĩa quân đóng ở căn cứ Bố Lư [Thanh Chương] và Đông Hồ [Tân Kỳ] hoạt động.

Năm 1914 thực dân Pháp còn tìm cách mua chuộc ông bằng cách mời ông xuống Vinh vừa dọa nạt vừa nịnh, chúng đưa cho ông một số tiền lớn và hứa nếu bắt được Quyên, Phấn thì sẽ thưởng lớn cho ông. Ông vui vẻ nhận số tiền rồi ra về. Nhưng thay vì chỉ điểm, ông còn lấy số tiền mà địch đưa để tiếp tế cho nghĩa quân hoạt động.

Sự việc bại lộ, ngày 1/4/1914 ông bị bắt giam ở nhà lao Vinh. Sau thời gian tra tấn, tra khảo chúng đã mở phiên tòa xét xử ông vào ngày 25/9/1914 kết án 3 năm tù khổ sai. Ông đã tìm cách vượt ngục nhưng không thành, bị bắt lại kết thêm tội gây phiến loạn tăng án lên 9 năm khổ sai.

Ngày 31/7/1915 ông bị đày đi khổ sai ở Khánh Hòa bằng việc đắp đường huyện Ba Ngòi, Khánh Hòa. Lao động khổ sai trong vòng 5 năm, đến tháng 3/1920 ông được chuyển về giam lỏng ở Huế, hàng tháng ông phải ra trình diện bọn thống trị. Tuy đăng ký ở  lại Trạch Phổ nhưng ông vẫn hay đi lại ở vùng Phổ Chi.

Ông có cách lách luật trình diện hàng tháng bằng cách sau này ông đợi đến cuối tháng đi từ Trạch Phổ hay Phú Lễ đến Huế trình diện, xong ở lại đến hôm sau đầu tháng, ông lại vào trình diện tiếp cho tiện. Như vậy thay vì trước đây cứ mỗi tháng đến Huế trình diện 1 lần, thì giờ mỗi lần đến Huế ông trình diện cho cả 2 tháng. Biết vậy nhưng bọn quan lại vẫn nể ông, không dám tỏ thái độ gì, chúng còn ra sức mua chuộc, mỗi lần ra Huế trình diện, chúng lại biếu ông vài lít rượu, với mục đích khuyến khích ông uống rượu, dẫn đến nghiện ngập, suy nhược tinh thần, không còn ham hố hoạt động cách mạng nữa.

Suốt gần 20 năm ở Huế và các vùng lân cân Huế, với sự quản lý nghiêm ngặt, o ép tinh thần của thực dân và phong kiến Nam triều, tinh thần cách mạng của ông đã tạm thời lắng xuống đến mức chúng tưởng là đã mất hẳn, nhưng khi trở về quê hương thì tinh thần đó lại trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Năm 1922 khi chị gái ông là Nguyễn Thị Thanh được chuyển từ nhà lao Quảng Ngãi ra Huế, ông đã bắt liên lạc và 2 chị em lại bí mật tham gia hoạt động cho tổ chức yêu nước ở Huế.

Năm 1926 hai chị em lên hoạt động ở Sơn Quả, Cổ Bi, có lần ông bị bọn mật thám vây bắt nhưng chạy thoát được.

Đến năm 1929 ông chuyển về Phú Lề, về đây ông vẫn tiếp tục sống cuộc đời bình dị. Đến năm 1940 sau thời gian hoạt động ông bị thực dân Pháp bắt và mở phiên tòa ngày 27 tháng 08 năm 1940 xét xử hai tháng ngồi tù và phạt 20 đồng bạc. Nhưng mãi đến ngày 16 tháng 8 năm 1941 ông mới được ra khỏi nhà tù Vinh. Sau khi ra khỏi tù ông đã đi khắp các vùng từ Thanh Chương, Du Đồng đến  miền Trạch Phổ, Ưu Điền của Huế để gặp gỡ một số tù chính trị đang an trí ở đây, trong đó có cả ông Hải Triều tức Nguyễn Khoa Văn.

Đến ngày 23 tháng 8 năm 1945 cuộc cách mạng tháng 8 thành công ở Huế, ông Cả Khiêm cùng với dân chúng hân hoan đón mừng tin vui, ông ra sức động viên thanh niên tham gia cách mạng. Khi được biết chủ tịch Hồ Chí Minh người lãnh đạo cuộc cách mạng thành công chính là Nguyễn Ái Quốc – em trai mình, ông vô cùng sung sướng.

Gia đình riêng của ông Nguyễn Sinh Khiêm

Quãng thời gian năm 1920 sau khi ra tù, ông không ở nội thành Huế, mà chuyển về Trạch Phổ ở trong nhà ông Nguyễn Văn Đề, là người ông quen khi lao động khổ sai. Về đây ông làm nghề bốc thuốc và mở lớp học chữ Hán. Đây cũng là nơi ông quen người vợ hiền thảo của mình – bà Nguyễn Thị Giáng. Lúc đó chồng bà Giáng mới qua đời, để lại cho bà một đứa con trai đang còn chập chững đi. Từ ngày chồng mất, bà Giáng đau ốm liên miên, may sao bà được ông Cả Khiêm chữa cho lành bệnh.

Đến năm 1930 khi bà Giáng mãn tang chồng, ông Cả Khiêm đã chuyển về sống cùng, cậu con riêng của bà là Hà Hữu Thừa được ông Cả Khiêm hết mực thương yêu, đùm bọc, dạy dỗ như con đẻ.

Cuối năm 1933 bà Giáng có với ông một người con gái, đặt tên là Nguyễn Thị Cao. Khi bé Cao lên 3 tuổi thì mất vì mắc bệnh.

Đến năm 1937 bà Giáng sinh tiếp người con gái thứ 2 tên Nguyễn Thị Ba. Khi Ba chào đời, bà Thanh – là chị ruột của ông Cả đã đến Phú Lễ thăm và ở lại đây cả tuần để chăm sóc cháu.

Đầu năm 1940, bé Ba mắc bệnh và qua đời. Ông Cả gần như suy sụp hẳn vì không vượt qua được cú sốc quá lớn, ông làm nghề bốc thuốc mà không cứu được con. Quá suy sụp, đến tháng 2 năm 1942 ông tạm biệt bà Giáng về lại Nghệ An.

Thời gian này về quê, ông đã tìm nơi cải táng mới cho mẹ mình là bà Hoàng Thị Loan trên núi Đại Huệ. Đồng thời ông cũng tổ chức diễn tuồng Trưng Nữ Vương do cụ Phan Bội Châu soạn, mở lại lớp dạy võ, sau đó ông quay lại Huế.

Năm 1943, bà Giáng lại sinh cho ông một cậu con trai đặt tên là Nguyễn Tất Thông, tiếc thay Thông cũng chỉ sống được 6 tháng. Đau khổ vì mất con đến 3 lần, ông Cả Khiêm lại bỏ nhà ra đi.

Hà Hữu Thừa – con riêng của bà Giáng được ông Cả Khiêm nuôi nấng trưởng thành, sau này cậu phục vụ trong quân đội, năm 1992 về hưu với quân hàm đại tá.

Còn bà Nguyễn Thị Giáng có được 16 năm [1930-1946] làm vợ ông Cả Khiêm, có với ông 3 người con, tiếc là không nuôi được một người nào. Người con riêng của bà thì theo kháng chiến mất liên lạc, ông Cả Khiêm thì về quê. Bà một mình ở lại Phú Lễ vò võ chờ chồng, trông con đến năm 1960 thì bà qua đời.

Cuộc gặp gỡ giữa hai anh em chủ tịch Hồ Chí Minh

Cuối năm 1946 sau khi chị gái là bà Nguyễn Thị Thanh ra Hà Nội thăm em về, ông Cả Khiêm lặn lội ra Hà Nội thăm chủ tịch nước Hồ Chí Minh. Đi cùng ông có Hà Hữu Thừa là con trai của vợ ông và Nguyễn Hữu Tạo là cháu ông Ấm Hoàng.

Gần 40 năm xa cách, nay hai anh em ruột Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung mới lại được gặp mặt.

Vừa thấy anh trai, Bác Hồ chạy đến ôm lấy anh khẽ kêu lên: “Anh Cả!”. Tiếng gọi tên anh Cả đầu tiên sau 37 năm trời xa cách biền biệt. Ông Nguyễn Sinh Khiêm cũng ôm lấy Bác Hồ rồi nghẹn ngào thốt lên: “Chú râu đã dài thế này à?”. Rồi hai anh em ôm nhau khóc.

Sau chuyến thăm viếng Bác Hồ ở Hà Nội, ông Cả Khiêm cho hai thanh niên trở lại Huế ăn tết Bính Tuất và tham gia cách mạng, còn ông thì trở lại quê nhà.

Ông Nguyễn Sinh Khiêm, người anh trai của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người thông minh, có cuộc sống giản dị, phóng khoáng, giàu lòng thương yêu người nghèo khổ. Ông từ trần ngày 15/10/1950 [tức 23/8 Canh Dần] tại làng Kim Liên, hưởng thọ 62 tuổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận được tin anh Cả qua đời trong lúc đang bận công tác xa, không thể về được nên đã điện cho Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu IV bức điện số 1229 nhờ chuyển cho họ Nguyễn Sinh làng Kim Liên, nội dung như sau:

“Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.

Tôi xin chịu tội bất đễ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước.

                   9/11/1950″

Tìm hiểu thêm về những người thân trong gia đình Bác Hồ Tại đây.

Video liên quan

Chủ Đề