10 vị tướng hàng đầu thế giới năm 2022

Trải qua hàng vạn năm lịch sử của loài người ,có rất nhiều vị danh tướng tài giỏi lỗi lạc đã xuất hiện. Họ là những thiên tài trong lĩnh vực quân sự có thể làm thay đổi cả trật tự thế giới. Chiến tranh là một phần của lịch sử, nó đã gây ra sự chết chóc, mất mát lớn cho lịch sử loài người. Bên cạnh đó, chiến tranh cũng là cái nôi sản sinh ra rất nhiều vị anh hùng. Họ là ai, Hãy cùng tìm hiểu Top những vị tướng thiên tài quân sự giỏi nhất thế giới - Những người đã làm thay đổi cả trật tự thế giới nhé!

  • Đại tướng Võ Nguyên Giáp
  • Georgy Zhukov
  • Mikhaiin Cutudop
  • Napoleon Bonaparte
  • Oliver Cromwell
  • Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
  • Thành Cát Tư Hãn
  • Julius Cesar
  • Hanibal Barca
  • Alexander đại đế

Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho, con của ông Võ Quang Nghiêm [Võ Nguyên Thân], một nhà nho đức độ và mẹ là bà Nguyễn Thị Kiên. Gia đình cụ Nghiêm thuộc diện nghèo trong làng, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà giàu như nhà Khóa Uy, một Hoa kiều giàu có ở làng Tuy Lộc kề bên. Võ Nguyên Giáp đã có lần theo mẹ chèo thuyền chở thóc đi trả nợ. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những câu chuyện đêm đêm mẹ kể cho cậu nghe về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu và dân chúng đứng lên chống Pháp bảo vệ non sông, còn cha nói về phong trào đánh Pháp qua bài vè “Thất thủ kinh đô” đầy cảm động, đã gieo vào lòng cậu bé những ấn tượng không bao giờ phai mờ, góp phần nuôi dưỡng ý chí cho sự nghiệp cách mạng sau này. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, nhà chỉ huy và nhà lí luận quân sự xuất sắc của Việt Nam. Tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm: năm 1925 tham gia lãnh đạo phong trào học sinh Huế. Năm 1929 tham gia cải tổ Tân Việt Cách mạng Đảng thành Đông Duơng Cộng sản Liên đoàn. Năm 1930, bị Thực dân Pháp bắt giam. Từ năm 1936 đến 1939, tham gia Phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, tham gia sáng lập Báo “Lao động”, “Tiếng nói chúng ta”; biên tập Báo “Tin tức”, “Dân chúng”. Chủ tịch Uỷ ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương Đại hội.

Năm 1940, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau tháng 5/1941, xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức Việt Minh ở Cao Bằng; tham gia khởi nghĩa vũ trang ở Căn cứ địa Cao – Bắc – Lạng. Năm 1942, phụ trách Ban Xung phong Nam tiến, dùng hoạt động tuyên truyền vũ trang mở đường liên lạc giữa miền núi với đồng bằng Bắc Bộ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nhiều tác phẩm quân sự có giá trị nghiên cứu cao như: “Khu giải phóng” [1946], “Đội quân giải phóng” [1947], “Chiến tranh giải phóng và quân đội nhân dân, ba giai đoạn chiến lược” [1950], “Điện Biên Phủ” [1964], “Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng” [1970], “Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân” [1972], “Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc” [1979], “Tư tưởng Hồ Chí Minh và Con đường cách mạng Việt Nam” [2000]… Với những đóng góp cực kỳ to lớn cho cách mạng Việt Nam, Đại tướng đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Sao vàng, hai Huân chương Hồ Chí Minh, hai Huân chương Quân công hạng nhất, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng, và nhiều huân chương, phần thưởng cao quý khác…

Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Georgy Konstantinovich Zhukov là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, và là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Đảng Cộng sản [sau này là Bộ Chính trị]. Trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, Zhukov đã lãnh đạo một số chiến dịch quyết định của Hồng quân. Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở miền trung nước Nga, Zhukov gia nhập Quân đội Đế quốc Nga và tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông phục vụ cho Hồng quân trong cuộc Nội chiến Nga. Dần dần thăng tiến qua các cấp bậc, đến năm 1939, Zhukov được trao quyền chỉ huy một tập đoàn quân và đã giành chiến thắng trong trận chiến quyết định trước quân Nhật tại Khalkhin Gol, trận đánh đầu tiên trong số bốn giải thưởng Anh hùng Liên Xô. Tháng 2 năm 1941, Zhukov được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng Hồng quân.

Sau khi Đức xâm lược Liên Xô, Zhukov mất chức tổng tham mưu trưởng. Sau đó, ông tổ chức phòng thủ tại Leningrad, Moscow và Stalingrad. Ông đã tham gia lên kế hoạch cho một số cuộc tấn công lớn, bao gồm Trận Kursk và Chiến dịch Bagration. Năm 1945, Zhukov chỉ huy Phương diện quân Belorussia 1, tham gia vào Chiến dịch Wisla – Oder và Trận Berlin, dẫn đến sự thất bại của Đức Quốc xã và kết thúc chiến tranh ở châu Âu. Để ghi nhận công lao của Zhukov trong cuộc chiến, ông được chọn là người chấp nhận sự đầu hàng của Đức và kiểm tra Lễ duyệt binh Chiến thắng ở Moscow năm 1945. Sau chiến tranh, sự thành công và nổi tiếng của Zhukov khiến Joseph Stalin coi ông là một mối đe dọa tiềm tàng. Stalin tước bỏ các chức vụ của ông và giáng chức ông xuống các vị trí ít có ý nghĩa chiến lược. Sau cái chết của Stalin vào năm 1953, Zhukov đã ủng hộ việc Nikita Khrushchev giành được quyền lãnh đạo Liên Xô. Năm 1955, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng và làm Ủy viên Đoàn Chủ tịch. Năm 1957, Zhukov lại bị mất ưu ái và buộc phải nghỉ hưu. Ông không bao giờ trở lại chính trường và qua đời vào năm 1974.

Georgy Zhukov

Mikhail Illarionovich Golenishchev-Kutuzov [16 tháng 9 năm 1745 – 28 tháng 4 năm 1813] là một nhà quân sự, chính khách và nhà ngoại giao của nước Nga Sa Hoàng. Với tư chất thông minh hiếu học, nền tảng từ gia đình cùng đam mê đặc biệt với ngành công binh, Kutuzov nhanh chóng trở thành một học sinh nổi bật trong trường. Đồng thời, Mikhail cũng học thêm tiếng Pháp, tiếng La-tinh, tiếng Thổ, tiếng Anh, tiếng Thụy Điển và tiếng Ba Lan. Ông còn thể hiện niềm yêu thích trong các môn toán học, lịch sử, triết học và văn học; điều này giúp ông được tuyển vào lớp đặc biệt dành cho những học sinh ưu tú, nơi họ được học thêm các kiến thức như lịch sử quân sự, ngoại giao châu Âu. Đến tháng 12/1759, hiệu trưởng Pyotr Shuvalov đã bổ nhiệm Kutuzov làm trợ giảng môn số học và hình học, khi ông mới 14 tuổi. Kutuzov đảm nhiệm nhiều chức vụ về quân sự, đối ngoại dưới thời nữ hoàng Ekaterina II [1762 – 1797], các vua Pavel I [1797 – 1801] và Aleksandr I [1801 – 1825], nổi bật là việc chỉ huy quân đội Nga trong chiến tranh Pháp-Nga [1812].

Mikhail Kutuzov sinh ra trong một gia đình quý tộc quân sự có truyền thống lâu đời; thời trẻ, ông từng tham gia các cuộc chiến với Ba Lan [1768], Thổ Nhĩ Kỳ [1768-1774; 1787-1792], lập chiến công nhưng mắt phải của ông bị thương nhiều lần dẫn đến mù vĩnh viễn. Sau đó, Kutuzov thực hiện các nhiệm vụ ngoại giao ở Ottoman, Phổ, và Thụy Điển. Năm 1805, ông làm tổng chỉ huy liên quân Nga-Áo chống lại quân đội Pháp của hoàng đế Napoléon I trong trận Austerlitz. Từ năm 1806-1812, Kutuzov chỉ huy quân Nga trong chiến tranh với Ottoman tại lưu vực sông Danube. Trong cuộc chiến tranh Pháp-Nga năm 1812, Kutuzov được Nga hoàng Aleksandr I chọn làm tổng chỉ huy quân đội thay Barclay de Tolly. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân dân Nga đã đẩy lui quân đội Pháp ra khỏi lãnh thổ, tạo nên bước ngoặt của chiến tranh Napoléon trên toàn cõi châu Âu. Sau đó, Kutuzov được phong làm công tước xứ Smolensk như để vinh danh công lao của ông; nhưng ít lâu sau [1813], ông qua đời. Năm 1973, chính quyền Liên Bang Xô-viết [cũ] đã xây dựng bia tưởng niệm Kutuzov tại Moskva. Tên ông còn được đặt cho một huân chương chiến đấu của Hồng quân Liên Xô trong cuộc chiến tranh Xô-Đức [1941-1945].

Mikhaiin Cutudop

Napoléon Bonaparte tên khai sinh Napoleone [15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821] là một chính khách và nhà lãnh đạo quân sự người Pháp, người lãnh đạo nhiều chiến dịch thành công trong cuộc Cách mạng Pháp và Chiến tranh Cách mạng Pháp. Ông là Hoàng đế Pháp với đế hiệu là Napoleon I từ năm 1804 đến năm 1814 và trở lại ngôi vua vào năm 1815 trong gần 100 ngày trị vị. Napoleon đã thống trị gần như toàn bộ châu Âu hơn một thập kỉ khi dẫn dắt nước Pháp chống lại một loạt liên minh trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon. Ông đã giành chiến thắng tại hầu hết những trận chiến, tạo ra một đế chế rộng lớn thống trị hầu như cả lục địa châu Âu trước khi sụp đổ vào năm 1815. Ông được xem là một trong những nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới, những cuộc chiến của ông đã được những trường quân sự khắp thế giới nghiên cứu. Đồng thời, Napoleon cũng được nhiều học giả đánh giá là một trong những nhân vật gây tranh cãi nhất trong lịch sử loài người.
Napoleon sinh ra ở đảo Corsica trong một gia đình Ý có dòng dõi quý tộc. Ông phục vụ như một lính pháo binh trong quân đội Pháp khi Cách mạng Pháp nổ ra năm 1789. Ông nhanh chóng thăng tiến qua các cấp bậc của quân đội, nắm bắt những cơ hội do Cách mạng Pháp tạo ra và trở thành một vị tướng lĩnh cấp cao ở tuổi 24. Hội đồng đốc chính Pháp cuối cùng đã cho phép Napoleon lãnh đạo một đội quân Pháp tấn công Ý sau khi ông đã dẹp tan quân đội nổi dậy phe Bảo hoàng trong trận 13 Vendémiaire chống lại Chính phủ. Ở tuổi 26, ông bắt đầu các chiến dịch quân sự đầu tiên chống lại Áo và quốc vương Ý ủng hộ nhà Habsburg và chiến thắng gần như tất cả trận chiến, chinh phục bán đảo Ý chỉ trong một năm và thành lập Những nền cộng hòa chị em cùng với sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương, ông trở thành anh hùng chiến tranh của nước Pháp. Năm 1798, ông dẫn dắt một đội quân viễn chinh tới Ai Cập và điều này trở thành một điểm nhấn lớn cho quyền lực chính trị sau này của ông. Napoleon đã lãnh đạo một cuộc đảo chính trong tháng 11 năm 1799 và trở thành Tổng tài thứ nhất của Nền cộng hòa Pháp.

Napoleon Bonaparte

Oliver Cromwell [25 tháng 4 năm 1599 – 3 tháng 9 năm 1658] là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền cộng hòa ở Anh và sau đó là Huân tước bảo hộ của Anh, Scotland và Ireland. Ông là một trong những chỉ huy của lực lượng quân đội mới đánh bại những người bảo hoàng trong cuộc nội chiến Anh. Sau khi vua Charles I của Anh bị xử tử năm 1649, Cromwell chinh phục Ireland và Scotland rồi cai trị với tư cách bảo hộ công từ năm 1653 cho tới khi ông qua đời năm 1658. Cromwell sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ và cuộc đời ông hoàn toàn mờ nhạt cho tới đầu những năm 40 tuổi. Có lúc ông sống như một điền chủ nhỏ, rồi sau đó khấm khá hơn nhờ khoản thừa kế từ một người bác. Cũng vào những năm 40 tuổi, Cromwell cải đạo sang Thanh giáo. Ông được bầu vào hội đồng dân biểu ở Cambridge rồi tham gia cuộc nội chiến Anh bên phe những người nghị viên.
Là một chiến binh can đảm [biệt danh “Sắt thép”], ông bắt đầu được biết tới sau khi chỉ huy một đội kỵ binh chống lại toàn bộ quân đội hoàng gia. Cromwell là người thứ ba ký vào lệnh xử tử hình Charles I vào năm 1649 và là thành viên của nghị viện Rump từ 1649 đến 1653. Ông được giao chỉ huy chiến dịch đánh Scotland trong các năm 1650-1651. Ngày 20 tháng 4 năm 1653, Cromwell giải tán nghị viện Rump bằng vũ lực rồi thành lập nghị viện Barebone trước khi trở thành Huân tước bảo hộ của Anh, Scotland và Ireland vào ngày 16 tháng 12 năm 1653 cho tới khi ông qua đời. Khi những người bảo hoàng trở lại nắm quyền vào năm 1660, xác ông bị đào lên, bị treo và bị chặt đầu. Cromwell là một nhân vật gây rất nhiều tranh cãi trong lịch sử nước Anh. Với những sử gia như David Hume hay Christopher Hill, ông là tên độc tài phạm tội giết vua, nhưng với những người khác như Thomas Carlyle hay Samuel Rawson Gardiner, ông là người anh hùng của tự do và dân chủ. Ở Anh, Cromwell được chọn vào danh sách 10 người vĩ đại nhất nước Anh mọi thời đại trong một cuộc bình chọn của BBC năm 2002.

Oliver Cromwell

Trần Hưng Đạo [1228 – 1300] tên thật là Trần Quốc Tuấn, tước hiệu Hưng Đạo đại vương, là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288. Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi vắn tắt là “Trần Hưng Đạo” thay cho cách gọi đầy đủ là “Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn”, vốn bao gồm tước hiệu được sắc phong cho ông. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Là con của thân vương An Sinh vương Trần Liễu và là cháu nội của Trần Thái Tổ, Trần Hưng Đạo có mối quan hệ mật thiết với hoàng tộc họ Trần và vua Trần Nhân Tông gọi ông bằng bác. Năm 1257, ông được vua Trần Thái Tông phong làm đại tướng chỉ huy các lực lượng ở biên giới đánh quân Mông Cổ xâm lược. Sau đó, ông lui về thái ấp ở Vạn Kiếp. Đến tháng 10 âm lịch năm 1283, nhà Nguyên [sau khi Mông Cổ thống nhất Trung Hoa] đe dọa đánh Đại Việt lần hai, Hưng Đạo vương được Thượng hoàng Trần Thánh Tông, và vua Trần Nhân Tông [lần lượt là em họ và cháu họ ông] phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội cả nước. Trên cương vị này, năm 1285, ông lãnh đạo quân sĩ chặn đứng đội quân xâm lược do hoàng tử thứ chín Thoát Hoan.

Sau những thất bại ban đầu, quân dân Việt dưới sự lãnh đạo của hai vua Trần, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải và Hưng Đạo vương phản công mạnh mẽ, phá tan quân Nguyên trong các trận Hàm Tử, Chương Dương, Trường Yên, Vạn Kiếp… đánh đuổi hoàn toàn quân Nguyên khỏi biên giới. Năm 1288, quân Nguyên trở lại xâm lược Đại Việt lần thứ ba. Khi tiếp tục được phong Quốc công tiết chế; Hưng Đạo vương khẳng định với vua Trần Nhân Tông “Năm nay đánh giặc nhàn”. Ông đã áp dụng thành công chiến thuật của Ngô Quyền, đánh bại hoàn toàn thủy quân nhà Nguyên do các tướng Phàn Tiếp và Ô Mã Nhi chỉ huy trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, buộc quân Nguyên lại phải rút về nước và vĩnh viễn từ bỏ tham vọng thôn tính phương Nam của họ. Tháng 4 âm lịch năm 1289, Trần Nhân Tông chính thức gia phong ông làm “Đại vương” dù chức quyền đứng đầu triều đình khi đó vẫn thuộc về Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải. Sau đó, ông lui về Vạn Kiếp đến khi mất năm 1300. Trước lúc qua đời, ông khuyên Trần Anh Tông: “Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Ngoài ra, ông còn để lại các tác phẩm kinh điển như Hịch tướng sĩ, Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư đặt nền móng cho nghệ thuật quân sự Việt Nam kể từ thời Trần đến ngày nay.

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

Thành Cát Tư Hãn [1162 – 1227] là một Khả Hãn Mông Cổ và là người sáng lập ra đế quốc Mông Cổ sau khi hợp nhất các bộ lạc độc lập ở vùng Đông Bắc Á năm 1206. Ông là một trong những nhà quân sự lỗi lạc và có ảnh hưởng nhất lịch sử thế giới, được người Mông Cổ kính trọng, như là vị lãnh đạo mang lại sự thống nhất cho Mông Cổ. Cháu nội của ông và là người kế tục sau này, Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên của Trung Quốc. Tháng 10 năm Chí Nguyên thứ 3 [1266], Hốt Tất Liệt truy tôn Thành Cát Tư Hãn miếu hiệu là Thái Tổ, nên ông còn được gọi là Nguyên Thái Tổ. Thụy hiệu khi đó truy tôn là Thánh Vũ Hoàng đế. Tới năm Chí Đại thứ 2 [1309], Nguyên Vũ Tông gia thụy thành Pháp Thiên Khải Vận. Từ đó thụy hiệu của ông là Pháp Thiên Khải Vận Thánh Vũ Hoàng đế.
Các cuộc chinh phạt của Thành Cát Tư Hãn trên khắp khu vực Á – Âu để bành trướng lãnh thổ đã đem lại sự thống nhất và phát triển giao lưu buôn bán, đồng thời ông cũng thi hành chính sách tự do tôn giáo. Tuy nhiên, Thành Cát Tư Hãn cũng nổi tiếng bởi sự tàn bạo với những người chống đối. Thành Cát Tư Hãn bị nhiều dân tộc coi là hiện thân của sự tàn bạo, nhất là từ Trung Á, Đông Âu và Trung Đông [là những nơi đã từng bị quân đội Mông Cổ thảm sát hàng loạt]. Theo ước tính, đội quân của Thành Cát Tư Hãn đã giết hơn 40 triệu người tại các lãnh thổ mà họ xâm chiếm. Có rất nhiều nhân vật nổi tiếng được cho là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn, như Timur Lenk, kẻ chinh phục dân Thổ Nhĩ Kỳ; Babur, người sáng lập ra đế quốc Mông Cổ trong lịch sử Ấn Độ. Những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn còn tiếp tục cai trị Mông Cổ đến thế kỷ XVII cho đến khi bị đế quốc Đại Thanh của người Mãn Châu thống trị lại.

Thành Cát Tư Hãn

Gaius Julius Caesar [12 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN] là một vị tướng và chính khách La Mã, người đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện dẫn đến sự sụp đổ của Cộng hòa La Mã và sự trỗi dậy của Đế chế La Mã. Sinh ra trong nhà Julia, một trong những dòng dõi quý tộc lớn ở Rome, Caesar được tiếp xúc và bắt đầu tham gia đời sống chính trị từ rất sớm. Năm 60 TCN, ông cùng với Crassus và Pompeirus [Pompey] thành lập Tam chế thứ nhất, một liên minh chính trị mang tính thống lĩnh Roma trong suốt nhiều năm. Phương cách xây dựng quyền lực của Caesar dựa trên các phương thức dân túy đã đụng chạm và dẫn tới sự chống đối của giai cấp quý tộc lãnh đạo ở Roma, mà đứng đầu là Cato Trẻ với sự ủng hộ thường xuyên của Cicero. Những cuộc chinh chiến thành công tại xứ Gallia của Caesar mở cho La Mã con đường tiếp cận Đại Tây Dương. Julius Caesar được ghi nhận là vị tướng La Mã đầu tiên xây dựng thành công cầu sông Rhein năm 55 TCN và trở thành tướng La Mã đầu tiên vượt qua eo biển Manche và tiến hành cuộc xâm lăng vào xứ Britannia.Các thành công quân sự lớn lao của Caesar đã mang lại cho ông quyền lực quân sự tối thượng; đe dọa đến chỗ đứng của Pompey, người đã ngả về phe của Viện Nguyên lão sau khi Crassus mất trong trận Carrhae năm 53 TCN. Sau khi chiến cuộc xứ Gaule đến hồi kết, Caesar được lệnh phải từ bỏ quyền chỉ huy quân sự và trở về Roma. Caesar bất tuân lệnh này và thay vào đó ông rời khỏi khu vực tài phán của mình, vượt sông Rubicon tiến vào Roma với một binh đoàn La Mã vào năm 49 TCN. Kết quả là nội chiến nổ ra ở La Mã, với chiến thắng sau cùng thuộc về Caesar. Sau khi lên nắm quyền ở Roma, Caesar bắt đầu tiến hành một loạt chương trình cải cách xã hội lẫn chính quyền, bao gồm cả việc tạo ra và áp dụng lịch Julius. Bên cạnh đó, ông có tiến hành tập trung quyền lực cho chính quyền cộng hòa và trở thành một Dictator perpetuo [Độc tài trọn đời] với nhiều quyền lực chưa từng có. Tuy nhiên những mâu thuẫn chính trị vẫn chưa được giải quyết, và vào ngày Idus Martiae [15 tháng 3] năm 44 TCN, một nhóm Nguyên lão nổi loạn do Marcus Junius Brutus lãnh đạo đã mưu sát thành công Caesar. Việc này khiến cho một loạt cuộc nội chiến nổi ra liên tiếp sau đó ở La Mã, kết thúc với việc chính quyền theo thể chế Cộng hòa không bao giờ được khôi phục và Gaius Octavius Octavianus, cháu trai và cũng là người thừa kế được chỉ định của Caesar, lên nắm quyền lực tuyệt đối với danh hiệu Augustus sau khi đánh bại tất cả các đối thủ khác. Việc Augustus củng cố quyền lực đã đánh dấu sự bắt đầu của Đế chế La Mã.

Julius Cesar

Hannibal là con trai của Hamilcar Barca sinh năm 247 trước Công nguyên – mất 183 trước Công nguyên], là một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Chữ “Hannibal” nghĩa là “niềm vui của thần Baal” [vị thần chủ của người Carthage], còn dòng họ “Barca” của ông có nghĩa là “tia chớp”. Chữ Barca có thể được viết là “Barak” hay “Barcas”. Cha ông là Hamilcar Barca chỉ huy quân Carthage trong chiến tranh Punic lần I và 2 em trai của ông là Mago và Hasdrubal và anh rể của ông cũng có tên là Hasdrubal. Hannibal sống trong suốt thời kì rối loạn tại Địa Trung Hải, khi nền Cộng hòa La Mã thiết lập quyền lực tối cao với các nước lớn như Carthage, Vương quốc Macedonia, Syracuse và Vương quốc Seleukos. Hannibal là tướng lĩnh nổi tiếng nhất người Carthage. Thành tựu nổi bật nhất của ông là khi nổ ra chiến tranh Punic lần hai, Hannibal đã dẫn một đội quân, gồm voi chiến, từ Iberia qua 2 dãy núi Pyrenees và Alps vào phía Bắc Ý. Trong suốt cuộc xâm chiếm Ý của mình, Hannibal đã đánh tan tác quân La Mã trong hàng loạt cuộc chiến, trong đó bao gồm những trận chiến tại Trebia, Trasimene và Cannae. Sau trận Cannae, rất nhiều đồng minh của nước Cộng hòa La Mã đã gia nhập với Hannibal khi ông hứa sẽ cho họ độc lập và một chính quyền tự trị.

Theo một số nhà sử học, Hannibal thiếu các khí tài vây hãm cần thiết để có thể tấn công thành trì kiên cố La Mã, nhưng theo J. F. Lazenby chỉ ra thì đó không phải là sự thiếu các loại vũ khí công thành cần thiết mà là do sự thiếu hụt nguồn tiếp tế và ý định chính trị [political agenda]. Ông duy trì một đạo quân tại Ý trong hơn một thập kỉ sau đó và không bao giờ thua một trận đánh lớn nhưng cũng không thể ép người La Mã chấp nhận các điều khoản cho hòa bình. Một cuộc xâm lược phản công vào Tây Ban Nha và sau đó là Châu Phi của quân La Mã buộc Hannibal phải trở lại Carthage, nơi mà ông đã bị đánh bại trong trận chiến Zama. Sau cuộc chiến, ông đã trở thành một quan chấp chính thành công ở Carthage. Ông đã cho ban hành những cải tổ về chính trị và kinh tế để phục hồi Carthage sau khi trả các bồi thường chiến tranh cho Cộng hòa La Mã. Những cải cách của ông bị tầng lớp thượng lưu Carthage chống đối. Bị những thành viên của Viện Nguyên Lão La Mã vốn sợ hãi tài năng quân sự của Hannibal nghi ngờ, ông đã bị La Mã ép đi đày. Trong thời gian bị đi đày, ông sống tại cung điện của Vương quốc Seleukos, nơi mà ông đã trở thành cố vấn quân sự cho vua Antiokhos III trong cuộc chiến chống lại La Mã. Sau khi Antiokhos III thất bại và bị ép chấp nhận các điều khoản của người La Mã, Hannibal tới dừng chân ở Armenia, nơi ông làm việc như một nhà quy hoạch cho việc lập thủ đô mới.

Hanibal Barca

Alexandros III của Macedonia được biết đến rộng rãi với cái tên Alexander Đại đế hay [20 tháng 7, 356 TCN – 11 tháng 6, 323 TCN] là basileus [quốc vương] thứ 14 thuộc nhà Argead của Vương quốc Macedonia cổ đại. Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình, Alexandros đã chinh phạt gần như toàn bộ thế giới mà người châu Âu thời đó biết đến trước khi qua đời và vì thế thường được xem là một trong những vị tướng thành công nhất, cũng như một trong những chiến lược gia quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Sau khi các thành bang Hy Lạp cổ đại được thống nhất dưới sự cai trị của vua cha Philipos II, Alexandros chinh phục Đế chế Ba Tư, bao gồm cả Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến tận Punjab thuộc Ấn Độ ngày nay. Chiến thắng của ông trước quân Ba Tư trong trận Gaugamela – chiến thắng quyết định thứ ba của ông trước vua Ba Tư Darius III – được xem là một trong những chiến công hiển hách nhất trong thời kỳ cổ đại; không những thế ông còn đánh tan tác người Scythia – một dân tộc bách chiến bách thắng thời bấy giờ.

Di sản của Alexandros bao gồm sự phổ biến văn hóa và sự nguyên hợp hình thành nên từ những tác động do các cuộc chinh phạt của ông đã gây ra, mà điển hình là Phật giáo Hy Lạp. Ông đã cho thành lập khoảng bảy mươi thành phố mang tên mình, nổi bật nhất trong số đó là Alexandria ở Ai Cập. Những thành phố mới được di dân Hy Lạp sinh sống, cùng với sự truyền bá rộng rãi của văn hóa Hy Lạp ở phía đông đã tạo nên một văn minh Hy Lạp mới, mà những khía cạnh vẫn còn thể hiện rõ trong những phong tục tập quán của Đế quốc Đông La Mã còn tồn tại đến gần 2000 năm sau. Bản thân ông cũng sống trong lịch sử và trong các truyền thuyết của các nền văn hóa Hy Lạp và không Hy Lạp. Ngay khi ông còn sống, và đặc biệt sau khi ông qua đời, những cuộc chinh phạt của ông đã là nguồn cảm hứng của một truyền thống văn học mà trong đó ông xuất hiện như là một anh hùng huyền thoại theo truyền thống của Achilles [Asin] năm xưa. Ông bất bại trên chiến trường và trở thành thước đo của các vị chỉ huy quân sự. Cho tới ngày nay, các học viện quân sự trên khắp thế giới vẫn giảng dạy chiến thuật của ông. Alexandros Đại Đế thường được xếp hạng là một trong số những người có ảnh hưởng nhất mọi thời đại.

Alexander đại đế

Trên đây là Top những vị tướng được toàn thế giới công nhận là những vị tướng giỏi nhất trong lịch sử thế giới. Các bạn hãy cùng tham khảo để hiểu hơn về cuộc đời và những chiến thắng lẫy lừng của những danh tướng này nhé!

Đăng bởi: Thảo Tô

Từ khoá: 10 vị tướng giỏi nhất thế giới

Bao gồm hình ảnh mô tả những người quan trọng, địa điểm và sự kiện trong cuộc sống của mỗi người. Bao gồm một giới thiệu ban đầu cho mỗi vị tướng. Thảo luận về những sự thật thú vị, ít được biết đến hơn về từng chung và trả lời những huyền thoại và quan niệm sai lầm chung về chúng. Alexander có được tham chiếu trong Qur'an không? Những lời cuối cùng của Caesar là gì? Napoleon có thực sự ngắn không? Bao gồm thư mục để đọc thêm. Trong hơn 2.000 năm qua, những người đàn ông đầy tham vọng đã mơ ước chinh phục các đế chế rộng lớn và đạt được vinh quang vĩnh cửu trong trận chiến, nhưng trong tất cả những người đàn ông đã bước tới những giấc mơ như vậy, ít người thành công như Alexander Đại đế, Hannibal, Julius Caesar, Genghis Khan, và Napoleon Bonaparte. Trong 200 năm qua, các tướng như Robert E. Lee và George Patton hy vọng sẽ ghi được những chiến thắng quyết định như Napoleon, trong khi Napoleon nhằm mô phỏng những thành tựu của Julius Caesar, người có chiến dịch ở Gaul và chống lại Pompey quyết định số phận của Rome. Nhưng chính Caesar đã tìm thấy cảm hứng ở Alexander Đại đế, Vua Macedonia, người đã tìm cách kéo dài một đế chế từ Hy Lạp đến dãy Hy Mã Lạp Sơn ở châu Á khi mới 30 tuổi. Mất chưa đầy 15 năm để Alexander chinh phục phần lớn thế giới đã biết. Hannibal có sự khác biệt là người duy nhất gần như khiến Rome phải quỳ xuống trước khi giảm gần 700 năm sau. Rome không bao giờ phải chịu một thất bại kinh hoàng hơn trong lịch sử của nó hơn là tại Cannae, và thực sự, Hannibal gần như viết lại quá trình của lịch sử phương Tây trong Chiến tranh Punic thứ hai. Trong một thế giới bị mê hoặc bởi những người đàn ông như Alexander Đại đế và Julius Caesar, Genghis Khan là một trong những người chinh phục vĩ đại nhất và nổi tiếng nhất. Không có người đàn ông nào, trước đó hay kể từ đó, đã từng bắt đầu với rất ít và tiếp tục đạt được rất nhiều. Từ một gia đình cao quý nhưng lớn lên trong tình trạng nghèo đói đã đưa anh ta đến bờ vực chết đói, Genghis Khan đã tăng để kiểm soát Đế chế lớn thứ hai mà thế giới từng biết [lớn nhất, được cho là Đế quốc Anh trong thế kỷ 18 và 19], và dễ dàng là đế chế lớn nhất được chinh phục bởi một người đàn ông duy nhất.
Includes an original introduction for each general.
Discusses interesting, lesser known facts about each general and answers common myths and misconceptions about them. Was Alexander referenced in the Qur'an? What were Caesar's last words? Was Napoleon really short?
Includes bibliographies for further reading.
Over the last 2,000 years, ambitious men have dreamed of conquering vast empires and attaining eternal glory in battle, but of all the men who took steps toward such dreams, few were as successful as Alexander the Great, Hannibal, Julius Caesar, Genghis Khan, and Napoleon Bonaparte.
Over the last 200 years, generals like Robert E. Lee and George Patton hoped to score decisive victories like Napoleon, while Napoleon aimed to emulate the accomplishments of Julius Caesar, whose campaigns in Gaul and against Pompey decided the fate of Rome. But Caesar himself found inspiration in Alexander the Great, the Macedonian King who managed to stretch an empire from Greece to the Himalayas in Asia at just 30 years old. It took less than 15 years for Alexander to conquer much of the known world.
Hannibal has the distinction of being the only man who nearly brought Rome to its knees before its decline almost 700 years later. Rome never suffered a more horrifying defeat in its history than at Cannae, and indeed, Hannibal nearly rewrote the course of Western history during the Second Punic War.
In a world fascinated by men like Alexander the Great and Julius Caesar, Genghis Khan is one of history’s greatest and most famous conquerors. No man, before or since, has ever started with so little and gone on to achieve so much. From a noble family but raised in poverty that drove him to the brink of starvation, Genghis Khan rose to control the second-largest empire the world has ever known [the largest being, arguably, the British Empire of the 18th and 19th centuries], and easily the largest empire conquered by a single man.

Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra trên khắp các khu vực lớn và các nguồn lực liên quan đến quy mô vượt xa mọi cuộc chiến đã từng xảy ra trước đó. Hơn 100 triệu binh sĩ đã được triển khai và hơn 50 quốc gia đã tham gia một trong những chương đẫm máu nhất trong lịch sử loài người. Trong sáu năm dài, những người đàn ông đã đấu tranh để trang bị, tồn tại lâu hơn và đánh lừa nhau trong một trò chơi tồn tại bạo lực. Các cuộc chiến sản xuất những người đàn ông vĩ đại [và phụ nữ], và trong số đó có các nhà lãnh đạo và chỉ huy vĩ đại. Một số là cựu chiến binh từ các cuộc chiến trước, đẩy vào đám cháy của các cuộc chiến hiện tại, và một số được sinh ra từ ngọn lửa đó, để chiến đấu trong cuộc chiến hiện tại và tiếp tục tiếp theo. Dưới đây là bảy trong số những nhà lãnh đạo đó, những vị tướng vĩ đại nhất và tài năng nhất đã lên sân khấu của Thế chiến II, định hình khóa học của nó thông qua chiến thắng và thất bại.

1. Nguyên soái Bernard Montgomery

Nguyên soái Bernard Montgomery, Via Britannica

Sinh năm 1887, Bernard Law Montgomery là một vị tướng người Anh từng phục vụ trong Thế chiến thứ nhất và Chiến tranh Độc lập Ailen trước khi nổi bật để trở thành một trong những tướng tài năng nhất trong Thế chiến II.

Ông Monty Monty, người hay là vị tướng Spartan, ông được biết đến, là một nhà lãnh đạo thận trọng, chủ yếu bị thúc đẩy bởi sự quan tâm đến cuộc sống của người đàn ông của ông. Trong đó, ông là người hoàn toàn trái ngược với Tướng George Patton của Mỹ. Cách tiếp cận chậm chạp và có phương pháp của Montgomery đối với chiến tranh xuất phát từ những trải nghiệm của anh ta trong Thế chiến thứ nhất, nơi anh ta đã thấy rất nhiều binh sĩ Cuộc sống bị lãng phí bởi các quyết định lập kế hoạch và phát ban kém. Phong cách của anh ấy đã kiên định, và thái độ của anh ấy bướng bỉnh. Ngay cả Churchill cũng không thể thuyết phục Montgomery tấn công nếu anh ta không muốn.

Sự cạnh tranh của anh với Patton, người có sự ưu ái của Eisenhower, là nguyên nhân của lần duy nhất Montgomery từ bỏ phong cách đặc trưng của anh. Đến cuối cuộc chiến, các chỉ huy đồng minh ngày càng bị ấn tượng bởi các tướng không ngừng tiến bộ và các cuộc tấn công của họ. Montgomery quyết định bỏ tư thế phòng thủ thông thường của mình và cố gắng chấp nhận nhiều rủi ro hơn. Chiến dịch Market Garden là một cuộc tấn công phủ đầu vào các vị trí của Đức ở Hà Lan vào tháng 9 năm 1944 và là một thất bại hoàn toàn.

Bạn có thích bài viết này không?

Đăng ký nhận bản tin hàng tuần miễn phí của chúng tôi

Tuy nhiên, Montgomery đã giành được danh tiếng của mình với tư cách là người dẫn đầu quân đội thứ 8 và vượt qua Erwin Rommel, chấm dứt tham vọng của Đức ở Bắc Phi. Mặc dù được nhớ đến như một người đàn ông khó tính, người đã không phải chịu đựng những kẻ ngốc, Montgomery rất được yêu thích và tôn trọng bởi những người dưới sự chỉ huy của anh ta.

Mặc dù có những nhà sử học tranh luận về các kỹ năng của Montgomery, với tư cách là một chỉ huy, nhưng rõ ràng là nơi cần tiếp cận chậm và có phương pháp, thì Thống chế Field Montgomery là một vị tướng tài năng.

2. Tướng George S. Patton

Tướng George Patton, Via Bettmann/Getty Images, thông qua tiểu sử.com

Không còn nghi ngờ gì nữa, George Patton là một trong những nhân vật gây tranh cãi nhất trong Thế chiến thứ hai. Trong chiến dịch Sicilia, anh ta đã tát hai cấp dưới đang bị PTSD và ra lệnh cho cả hai trở lại tiền tuyến.

Những lời chỉ trích từ nhà thật khắc nghiệt, và Patton đã được miễn nhiệm vụ trong 11 tháng trước khi Eisenhower quyết định rằng việc lái xe và thái độ của Patton sẽ cần thiết trong chiến dịch ở châu Âu. Mặc dù có tranh cãi, anh ta nổi tiếng với người đàn ông của mình. Anh ta được coi là một người lính lính, và được những người dưới sự chỉ huy của anh ta tôn trọng. Kết quả là, anh ta đã có thể đạt được những tiến bộ nhanh chóng thông qua các chiến thuật tích cực. Ông cũng là một vị tướng tài năng, người có thể nghĩ ra ngoài hộp. Trong cuộc xâm lược của đồng minh Sicily, sự tiến bộ của Patton, rất nhanh chóng do thực tế là người Mỹ có mối liên hệ với Mafia Sicilia, người đã đánh bại những người cố gắng chống lại sự tiến bộ của Mỹ.

Tướng Patton đã chiến đấu qua chiến dịch đột phá Normandy về phía biên giới Pháp với Đức. Sau đó, trong chiến dịch Lorraine, cuộc cạnh tranh của anh với nguyên soái Bernard Montgomery đã đến đầu khi cả hai tướng lĩnh và quân đội của họ hết nhiên liệu. Cả hai đã thỉnh cầu Eisenhower, người quyết định chia dự trữ, nhưng ưu tiên Montgomery, người đã đệ trình kế hoạch cho Chiến dịch Market Garden.

Xe tăng từ Quân đội thứ 3 Patton khởi động ổ đĩa của họ đến Bastogne, thông qua Worldwarphotos.info

Cuộc tấn công phản công của Đức được gọi là Trận chiến Bulge đã gây ra một vấn đề nghiêm trọng cho sự tiến bộ của quân Đồng minh. Patton, người đóng quân dọc theo sông Saar, được giao nhiệm vụ giải phóng thành phố Bastogne. Với sự bố trí của đội quân Patton, đó là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, nhưng anh ta đã xoay sở để chuyển hướng 133.000 xe và sáu sư đoàn từ chiến đấu tiền tuyến trong mùa đông và đưa họ về phía bắc để đạt được mục tiêu của họ trong thời gian ngắn. Chiến công hậu cần này chắc chắn là một trong những thành tựu đáng kinh ngạc nhất của sự nghiệp Đồng minh.

Sau khi Đức, thất bại trong cuộc phản công, các đồng minh đã tấn công một lần nữa và tiến vào Đức. Với sự tiến bộ mạnh mẽ và nhanh chóng của mình, ngay cả khi đối mặt với sự kháng cự bướng bỉnh, Patton đã được hoan nghênh và biệt danh xứng đáng là máu cũ và ruột.

Patton là người hung hăng và có năng lực duy nhất, dễ dàng biến anh ta thành một trong những tướng lĩnh có giá trị và tài năng nhất trong Thế chiến II.

3. Thống chế lĩnh vực Erwin Rommel: Fox sa mạc

Nguyên soái Field Erwin Rommel, thông qua hình ảnh Circus/Getty thông qua HistoryNet.com

Không có vị tướng Đức nổi tiếng trong số các đồng minh như Erwin Rommel. Anh ta rất được tôn trọng đến nỗi Thống chế Field Montgomery phải nhắc nhở quân đội của mình để ngừng nói về Rommel bằng những điều khoản thuận lợi như vậy.

Tướng tài năng này đã nổi lên trong chiến dịch chống lại Pháp. Trong trận chiến của chiếc xe, anh ta dẫn đầu từ phía trước, cho phép anh ta có cảm giác tốt hơn cho tình huống chiến đấu. Anh ta có một khả năng bẩm sinh để cảm nhận các cơ hội, và với các kỹ năng tự nhiên trong chiến tranh, anh ta sẽ tận dụng những cơ hội này. Khi anh ta chấp nhận rủi ro, anh ta rất hiếm khi sai.

Rommel đứng đầu Afrika Korps, được hình thành để giảm bớt áp lực đối với người Ý ở Bắc Phi. Rommel phát triển thành hành động với những phong trào táo bạo và nhanh nhẹn như vậy trên chiến trường đến nỗi lực lượng của ông thậm chí có thể chiếm được vị trí chỉ huy tối cao của Anh, Tướng O hèConnor. Với nền tảng là một chỉ huy xe tăng, sa mạc Bắc Phi là nơi hoàn hảo cho các chiến thuật của Rommel.

Cuộc chiến cho Bắc Phi đã qua lại, với Rommel vượt qua các lực lượng đồng minh và gây thương vong cao vô cùng, nhưng cuối cùng, thủy triều đã chống lại người Đức. Nguồn cung cấp khô ráo khi Hitler tập trung tất cả sự chú ý của mình vào Liên Xô và rời khỏi Afrika Korps để tự bảo vệ mình, bị quân đội Đồng minh đông hơn và vượt trội. Rommel sau đó đã tham gia vào âm mưu giết Hitler, và khi phát hiện này, Rommel đã tự kết liễu đời mình bằng chất độc.

4. Thống chế Georgy Zhukov

Georgy Zhukov ở Quảng trường Đỏ, 1966, thông qua Britannica

Trong Thế chiến thứ hai, Georgy Zhukov là chỉ huy người Nga nổi tiếng và quan trọng nhất. Sinh ra từ một nông dân và một thợ đóng giày vào năm 1896, ở tuổi 19, ông được đưa vào quân đội, phục vụ trong Thế chiến I và chiến đấu cho người Bolshevik trong cuộc nội chiến Nga. Từ năm 1937 đến 1939, Zhukov đã chiến đấu chống lại người Nhật dọc biên giới Mông Cổ-Manchurian. Anh ta đã đạt được những chiến thắng tuyệt đẹp và trở thành anh hùng của Liên Xô. Năm 1941, ngay trước khi Đức xâm chiếm Liên Xô, Zhukov đã được thăng chức lên Đại tướng và Tổng tham mưu trưởng của Hồng quân.

Zhukov bảo vệ thành công Moscow trước khi tổ chức một cuộc phản công đã đẩy người Đức từ 60 đến 150 dặm từ thành phố. Sau đó, ông đã giúp đưa ra các kế hoạch cho Chiến dịch Uranus - việc bao quanh Quân đoàn 6 Đức tại Stalingrad. Kế hoạch là một thành công hoàn toàn và biến Tide of the War. Zhukov sau đó đã giúp giành chiến thắng trong trận chiến Kursk và dỡ bỏ cuộc bao vây Leningrad.

Georgy Zhukov đã dẫn đầu cuộc tấn công của Liên Xô về phía tây, đánh bại người Đức tại Seelow Heights và sau đó bao vây và đánh bại người Đức ở Berlin để chấm dứt chiến tranh. Không thể phủ nhận rằng Zhukov là một vị tướng tài năng với trí tưởng tượng và kỹ năng hậu cần trong việc cứu Liên Xô và đánh bại Đức Quốc xã.

5. Tướng Heinz Guderian

Tướng Heinz Guderian, qua albumwar2.com

Tài năng của Heinz Wilhelm Guderian nằm trong cách tiếp cận năng động của mình với chiến tranh. Anh ta tiên phong trong các chiến thuật của Blitzkrieg, việc sử dụng các cánh tay kết hợp được hẹn giờ để bổ sung cho nhau trong một cuộc tấn công để áp đảo kẻ thù bằng hỏa lực. Ông cũng nảy ra ý tưởng sử dụng xe tăng, nơi trước đây họ đã xen kẽ với các bộ phận bộ binh để cung cấp hỗ trợ.

Một trong những thành tựu lớn nhất của ông là trong cuộc chiến với Pháp. Rừng Ardennes ở rìa phía tây của đường Maginot được cho là không thể xuyên thủng và do đó được bảo vệ rất nhẹ. Guderian đã chứng minh sự sai lầm của Pháp và cho thấy sự tổng hợp tài năng bằng cách thúc đẩy bảy bộ phận bao gồm 1.112 xe tăng thông qua Ardennes, đập phá phòng thủ của Pháp và dẫn đầu quân đội Đức đã quyết định đánh bại người Pháp trong trận chiến.

Trong cuộc xâm lược của Liên Xô, thành công của Guderian, tiếp tục, và Quân đội Panzer thứ 2 của ông đã hoàn thành việc bao vây túi Minsk, dẫn đến việc chiếm 300.000 quân Liên Xô. Quân đội Panzer thứ 2 sau đó đã tham gia cuộc tấn công vào Kyiv và hỗ trợ trong cuộc bao vây lớn nhất trong lịch sử, bắt giữ 600.000 quân Liên Xô.

Khi các chiến dịch chống lại Liên Xô trở nên chua chát, Guderian đã được định vị lại các vấn đề chính trị hơn, thực hiện các mệnh lệnh của Hitler cũng như tư vấn về thiết kế xe tăng. Ông cho rằng người Đức xây dựng một bản sao trực tiếp của T-34 của Liên Xô. Vào ngày 28 tháng 3 năm 1945, Heinz Guderian đã thể hiện sự dũng cảm cực độ khi là vị tướng duy nhất có sự dũng cảm tham gia vào một trận đấu hét lên với Hitler. Hai người phải được tách ra, và Guderian đã được miễn lệnh.

Tướng Guderian và nhân viên của ông đã đầu hàng vào ngày 10 tháng 5 năm 1945. Ông hợp tác đầy đủ với các đồng minh, và mặc dù bị giam giữ cho đến năm 1948, ông được thả ra mà không bị xét xử. Ông qua đời năm 1954 ở tuổi 65.

6. Tướng Douglas MacArthur

Tướng Douglas MacArthur, thông qua lịch sử.com

Lớn lên trong một gia đình quân nhân ở miền Tây cũ của Mỹ và tốt nghiệp với tư cách là thủ khoa tại Học viện quân sự Tây Texas, Douglas MacArthur đóng một vai trò cực kỳ quan trọng với tư cách là một vị tướng trong cuộc chiến chống lại Nhật Bản. Ông là một nhà lãnh đạo năng động, người đã thực hiện các hoạt động chiến thuật đột phá, chứng kiến ​​sự tập trung của các hoạt động quân sự nhấn mạnh tốc độ và tính di động của các lực lượng đổ bộ và không quân hoạt động trên khoảng cách rộng lớn.

MacArthur phục vụ trong Thế chiến thứ nhất, trong đó ông trở nên được trang trí cao và được thăng cấp từ Thiếu tá đến Đại tá đến Chuẩn tướng trong một khoảng thời gian ngắn. Ông được đề cử cho Huân chương Danh dự hai lần, đã được trao tặng Thánh giá Dịch vụ xuất sắc một lần và nhận Silver Star bảy lần trong thời gian phục vụ ở Mặt trận phía Tây.

Mặc dù những thất bại đau khổ trong giai đoạn đầu của sự đóng góp của anh ta cho Thế chiến II, bị choáng ngợp bởi người Nhật, MacArthur và các lực lượng của anh ta đã trốn thoát và tuyên bố sẽ trở lại để giải phóng Philippines sau khi thực hiện thành công một chiến dịch nhảy trên đảo. Chiến lược của ông là bỏ qua các thành trì chính của Nhật Bản và tấn công các hòn đảo yếu hơn để có được vị trí gần hơn với các hòn đảo nhà của Nhật Bản.

Sau chiến tranh, vị tướng tài năng này cho thấy ông không chỉ là một vị tướng. Ông giám sát sự chiếm đóng của Nhật Bản và là công cụ tháo dỡ quân đội và khôi phục nền kinh tế của nó.

7. Nguyên soái Erich von Manstein

Nguyên soái Erich von Manstein, qua IMDB.com

Fritz Erich Georg Eduard von Manstein được sinh ra trong một gia đình Phổ quý tộc vào năm 1887. Kinh nghiệm quân sự của ông bắt đầu từ khi còn trẻ khi ông phục vụ ở cả phía tây và phía đông trong Thế chiến thứ nhất.

Tài năng của anh ấy như một vị tướng đã tỏa sáng trong Thế chiến thứ hai trong chiến dịch chinh phục Pháp. Manstein đã đưa ra kế hoạch đi xung quanh các hàng phòng thủ của Pháp trên đường Maginot. Chiến dịch Cut Sickle đã chứng kiến ​​người Đức đạt được thành công tuyệt vời bằng cách tấn công Pháp qua các nước thấp và lái lực đẩy bọc thép chính của mình qua rừng Ardennes.

Sau thành công ở mặt trận phía tây, Tướng Von Manstein đã được triển khai lại về phía đông vì cuộc xâm lược Liên Xô. Ông chỉ huy các lực lượng Đức trong cuộc bao vây Sevastopol, thành công trong việc phá vỡ sự bảo vệ của Căn cứ Hải quân, một trong những công sự mạnh nhất trên thế giới. Ngay sau khi Sevastopol sụp đổ, Von Manstein đã chỉ huy lực lượng trục bảo vệ chống lại cuộc tấn công chống lại Liên Xô trên Bán đảo Kerch. Quân đội Liên Xô đã hoàn toàn bị nghiền nát, và von Manstein đã giành được một chiến thắng quyết định khác.

Khi vận may của Đức thay đổi, von Manstein thấy mình chiến đấu chống lại tỷ lệ cược không thể. Anh ta đã thất bại trong việc giải phóng người Đức bị bắt trong túi Stalingrad, nhưng nhiều người sẽ lập luận rằng nhiệm vụ này là không thể ngay từ đầu. Von Manstein sau đó đã đạt được thành công trong khi các dòng Đức đang sụp đổ xung quanh anh ta. Trong trận chiến Kharkov thứ ba, anh đã lấy lại được nhiều lãnh thổ cho Đức, đánh bại ba đội quân Liên Xô và buộc ba người khác phải rút lui, nhưng đã quá muộn.

Một Marine ở Mỹ trong Trận chiến Okinawa, tháng 5 năm 1945, thông qua History.com

Có lẽ Manstein có thể đã thay đổi vận may của Đức ở phương Đông, nhưng những bất đồng của anh ta với hành vi chiến tranh của Hitler đã thấy anh ta bị đuổi khỏi văn phòng vào tháng 3 năm 1944. Vào thời điểm quan trọng đối với Đức Quốc xã, có lẽ đó là một trong những sai lầm lớn nhất mà mà Hitler từng mắc phải. Von Manstein là một vị tướng cực kỳ tài năng, người có thể thay đổi kết quả của cuộc chiến nếu lãnh đạo Đức Quốc xã lắng nghe ông.

Chiến tranh thế giới thứ hai đã chiến đấu trên các khu vực khổng lồ trên thế giới, với vô số hàng triệu người tham gia và đến lượt nó, một số lượng lớn các tướng có khả năng và tài năng cũng có liên quan. Không thể liệt kê tất cả. Chắc chắn có nhiều chỉ huy xứng đáng có trong danh sách này, nhưng làm tất cả công lý sẽ đòi hỏi nhiều hơn một bài viết ngắn. Tuy nhiên, những người được đề cập ở trên có tác động không thể phủ nhận đối với cuộc chiến. Họ là những người xác định kết quả của nó, cho tốt hoặc xấu.

Ai là vị tướng vĩ đại nhất thế giới?

Kết quả. Trong số tất cả các tướng lĩnh, Napoleon có cuộc chiến cao nhất [16.679] với một biên độ lớn. Trên thực tế, người biểu diễn cao nhất tiếp theo, Julius Caesar [chiến tranh 7.445], có ít hơn một nửa cuộc chiến được Napoleon tích lũy qua các trận chiến của anh ta. Napoleon được hưởng lợi từ số lượng lớn các trận chiến mà anh ta lãnh đạo lực lượng.Julius Caesar [7.445 WAR], had less than half the WAR accumulated by Napoleon across his battles. Napoleon benefited from the large number of battles in which he led forces.

Ai là vị tướng bất bại?

Khalid Ibn al- Walid [RA]: Chiến binh Hồi giáo bất bại.Được coi là một trong những nhà lãnh đạo quân sự Hồi giáo hậu quả nhất mọi thời đại, Khalid Ibn al-Walid là một chỉ huy Hồi giáo Ả Rập để phục vụ nhà tiên tri Muhammad [PBUH] và Caliphs Abu Bakr [RA] [r.và Umar [RA] [r. 634 Từ644]. [RA]: The Undefeated Islamic Warrior. WIDELY regarded as one of the most consequential Muslim military leaders of all time, Khalid ibn al-Walid was an Arab Muslim commander in the service of the prophet Muhammad [PBUH] and the caliphs Abu Bakr [RA] [r. 632–634] and Umar [RA] [r. 634–644].

Ai là một vị tướng nổi tiếng?

John J. Pers Breath: Là chỉ huy lực lượng viễn chinh của Mỹ [1917- 19], Pers Breath nhấn mạnh rằng cuộc chiến quân đội 3 triệu người của ông dưới sự chỉ huy của Hoa Kỳ.Ông [và George Washington] vươn lên cấp bậc quân sự cao nhất của Mỹ, Đại tướng quân đội.

Ai là nhà lãnh đạo quân sự giỏi nhất bao giờ hết?

Alexander vĩ đại..
Julius Caesar..
Thành Cát Tư Hãn..

Chủ Đề