Ý nghĩa của quốc hiệu văn lang

A. PHẦN MỞ ĐẦUTheo như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”, chúng ta thế hệ trẻ thời nay cần phải hiểu biết lịch sử để có thể giúp ích cho xã hội, góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam hiện nay và sau này.1. Lí do chọn vấn đềXuyên suốt chiều dài lịch sử thì quốc hiệu- một biểu tượng quốc gia Việt Nam, gắn bó chặt chẽ với lịch sử. Quốc hiệu là một trong các biểu tượng của quốc gia các nước, là tên gọi của mỗi nước, biểu tượng quốc gia để chỉ các yêu tố cấu thành mang chất lượng tượng trưng cho một quốc gia. Chính vì là một trong bốn biểu tượng quốc gia Việt Nam: “Quốc huy, Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc hiệu, Quốc thiều” nên quốc hiệu cũng là yếu tố không thể thiếu, mang những đặc điểm của các quốc gia dân tộc, thể hiện chủ quyền và cấu thành nên quốc thể. 2. Mục tiêu nghiên cứuVới việc đi nghiên cứu quốc hiệu Việt Nam thì ta cần làm sáng tỏ rằng: Quốc hiệu Việt Nam là một biểu tượng quốc gia, là yếu tố để khẳng định vị thế cũng như chủ quyền của một nước, tìm hiểu theo chiều dài của lịch sử dựng nước và cứu nước. Tìm được ý nghĩa của quốc hiệu theo từng thời kỳ, phát huy truyền thống của cha ông.3. Đối tượng nghiên cứuNghiên cứu quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử và qua đó đánh giá nhận xét về ý nghĩa của quốc hiệu Việt Nam.Quốc hiệu Việt Nam thay đổi khá nhiều theo dòng lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nó còn biểu lộ sự tiến hóa của quốc gia dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.4. Lịch sử nghiên cứuTrải qua bốn nghìn năm lịch sử, đất nước Việt Nam phải bao nhiêu đời dựng nước và giữ nước: công cuộc dựng nước của các vua Hùng, công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước của các triều đại phong kiến Đinh-Lê-Trần-Nguyễn,… rồi đến sự nghiệp đánh tan giặc ngoại xâm, bọn đế quốc, thực dân của nhân dân và các anh hùng liệt sỹ. Tính theo thời gian lịch sử thì quốc hiệu Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ thời Văn Lang- Âu Lạc, mở đầu là nhà nước Văn Lang (690 TCN) cho đến công cuộc đánh đuổi đế quốc Mỹ giải phóng hoàn toàn miền nam Việt Nam, thống nhất đất nước năm 1976 và cho đến nay.5. Phương pháp nghiên cứuQuốc hiệu là một chủ đề rất rộng và có nhiều tài liệu khác nhau nói về chủ đề này nhưng chúng ta nên tìm hiểu, phân tích và chọn lọc nó theo các nguồn lịch sử trong sách, các tác phẩm nghiên cứu của các nhà sử học. Sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp lô gic, phương pháp tổng hợp. Từ đó phân tích, chứng minh và chỉ ra ý nghĩa của quốc hiệu theo từng thời kỳ khác nhau.6. Bố cục tiểu luậnĐể tìm hiểu về quốc hiệu chúng ta hãy đi theo bố cục từng phần như sau:Phần I. Định nghĩa quốc hiệuPhần II. Quốc hiệu Việt Nam theo thời kỳ lịch sửPhần III. Ý nghĩa của quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử• Mang ý nghĩa chủ quyền quốc gia và chủ quyền lãnh thổ của mình, đặc trưng cho nền văn hóa, gắn với thời kỳ từ năm 690TCN đến 208 TCN.• Thể hiện các yếu tố chính trị cho vùng đất hay cư dân chủ thể của quốc hiệu vào thời kỳ độc lập, sự ngang bằng với nước láng giềng Trung Hoa, sự áp đặt của các triều đại phong kiến, từ năm 502 TCN đến năm 1840.• Trong thời cận và hiện đại, quốc hiệu thường biểu lộ thể chế chính trị hay ước muốn chính trị của quốc gia, từ năm 1945 đến nay.Phần IV. Ý nghĩa quốc hiệu Việt Nam hiện nay• Về mặt chính trị• Về mặt bản chất• Về mặt pháp lý• Về ngoại giao• Về tính thẩm mỹB. NỘI DUNG QUỐC HIỆU VIỆT NAMViệt Nam qua các thời kỳ lịch sử đã dùng nhiều quốc hiệu (tên chính thức của quốc gia) khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những tên được dùng chính thức hoặc không chính thức để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quốc gia Việt Nam. Nó còn biểu lộ sự tiến hóa của quốc gia và dân tộc Việt qua các thời kỳ lịch sử.I. ĐỊNH NGHĨA QUỐC HIỆU Quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia. Quốc hiệu là một biểu tượng của một nước nên không thể thiếu được, thể hiện chủ quyền, mang những đặc điểm của quốc gia dân tộc đó. Quốc hiệu có nhiều ý nghĩa: -Nó biểu lộ chủ quyền của quốc gia trên vùng lãnh thổ của mình. Nó có thể khác với tên địa lý được gắn cho vùng đất hay vùng dân cư đó. Ví dụ: Chiêm Thành là tên Việt Nam gọi người Chàm, tên Giao Chỉ thường dùng để chỉ giống dân Cổ Việt trong vùng Bắc Việt Nam ngày xưa, nó khác với quốc hiệu Văn Lang thường được gán cho thời kỳ tiền sử . Đó là phương diện địa lý của quốc hiệu.-Quốc hiệu cũng thường biểu lộ các yếu tố chính trị cho vùng đất hay cư dân chủ thể của quốc hiệu. Nó là danh xưng chính thức được dùng trong ngoại giao và bang giao quốc tế. Ví dụ: cho đến trước năm 1804 Việt Nam luôn luôn có hai quốc hiệu : một quốc hiệu dùng trong nước như Đại Cồ Việt, Đại Việt nhưng mặt khác người Trung Hoa láng giềng phương Bắc lại gọi Việt Nam là An Nam.-Trong thời cận và hiện đại, quốc hiệu thường biểu lộ thể chế chính trị hay ước muốn chính trị của quốc gia. Ví dụ: Quốc hiệu có thể nhấn mạnh về chế độ chính trị như chế độ xã hội hay cộng sản như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, hay chế độ cộng hòa như Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Việt Nam, chúng ta có đầy đủ những quốc hiệu theo địa lý hay chính trị theo dòng lịch sử vẻ vang của dân Việt. II. QUỐC HIỆU VIỆT NAM THEO THỜI KỲ LỊCH SỬQuốc hiệu Việt nam qua các thời kỳ có tên gọi khác nhau. Dưới đây là danh sách các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo dòng lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế. Nhà nước Văn Lang (690-258 TCN): Vua Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang Âu Lạc (257 – 208 TCN): An Dương Vương chiếm Văn Lang, lập nước Âu Lạc đóng đô ở Cổ Loa. Vạn Xuân (544-602): Lý Bôn tự xưng Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên. Đại Cồ Việt (968-1054): Năm 938 Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán mở đầu thời kỳ độc lập của nước ta nhưng phảỉ đợi đến năm 968 Đinh Tiên Hoàng dẹp được 12 sứ quân, thống nhất đất nước, mới đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Năm 972, Trung Hoa chính thức công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập, nhưng vẫn phong cho Vua Đinh Tiên Hoàng làm Giao Chỉ Quận Vương.  Đại Việt (Nhà lý, 1054-1804): Tuy vậy Trung Hoa tiếp tục gọi Đai Cồ Việt là An Nam và coi như là một phiên thuộc.Năm 1054, Lý thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt. Quốc hiệu Đại Việt được dùng trong nhiều thời kỳ đến tận năm 1804. Đại Ngu (1400-1407): Nhà Hồ đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Việt Nam(1804-1884): Trung Hoa công nhận quốc hiệu Việt Nam. Đại Nam (1820-1840): Năm 1831, Vua Minh Mạng đổi thành Đại Nam. Trong triều đại Minh Mạng tên nước lại được đổi là Ðại Nam nhưng cái tên Việt Nam vẫn tồn tại rộng rãi khắp nơi trong văn chương, kinh tế và xã hội. Việt Nam dân chủ cộng hòa (2/9/1945- 2/7/1976): ngày 2/9/145, bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã khai sinh ra Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/7/1976 đến nay): sau khi giải phóng hoàn toàn miền nam, đất nước Việt Nam quy tụ lại và Thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đi theo con đường chủ nghĩa xã hội.Ngoài ra, Việt Nam còn có những Quốc hiệu khác như: Nam Việt (208- 111 TCN), An Nam (679-938), Việt Nam (9/3/1945-24/8/1945), Quốc gia Việt Nam (8/3/1949- 26/10/1955)Việt Nam cộng hòa (26/10/1955-30/4/1975). Như vậy, Quốc hiệu của Việt Nam rất phong phú qua từng thời kỳ và cũng chính từ đó làm nên những bản sắc văn hóa cũng như những ý nghĩa riêng tượng trưng.III. Ý NGHĨA CỦA QUÔC HIỆU VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬTheo phần định nghĩa về quôc hiệu và căn cứ vào quốc hiệu qua các thời kỳ mà chúng ta có thể chia quốc hiệu mang ba ý nghĩa đặc trưng và chia làm ba thời kỳ1. Mang ý nghĩa chủ quyền quốc gia và chủ quyền lãnh thổ của mình, đặc trưng cho nền văn hóa, gắn với thời kỳ từ năm 690TCN đến 208 TCNLịch sử của nhiều quốc gia dân tộc như Trung Quốc, Nhật, Việt, thường bắt đầu bằng những huyền thọai. Chính trong những truyện truyền kỳ thần thọai, tuy có thể do người đời sau sáng tác ra, nhưng đã lưu truyền trong nhiều ngàn năm nên có thể ẩn chứa những dấu vết văn hóa lịch sử.Giống như vậy, quốc hiệu Việt Nam trong thời huyền sử cũng ẩn chứa những dấu vết của nền văn hóa Cổ Việt thời xa xưa và khẳng định chủ quền của mình.a. Quốc hiệu Văn Lang (690- 258 TCN)-Theo những thư tịch cổ sử thì vào đời các vua Hùng, chưa có văn tự rõ ràng. Văn Lang có nghĩa là quốc gia của những người có văn học, chứng tỏ không thua kém dân phương bắc.-Văn Lang (chữ Hán: 文郎) được coi là quốc hiệu đầu tiên cho Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ gồm khu vực Đồng bằng Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Quốc gia này tồn tại cho đến năm 258 TCN.-Ðầu thời kỳ đồ đồng, những bô lạc người Việt sống ở miền Bắc và phía Bắc trung tâm Việt Nam. Tính ra có khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng cao nguyên mièn Bắc và miền châu thổ sông Hồng Hà, hơn 12 nhóm Âu Việt sống nơi miền Ðông Bắc. Ðể tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù Họ có khuynh hướng gom tụ lại thành một nhóm to lớn hơn. Trong số những bộ lạc Lạc Việt, Văn Lang là mạnh nhất . Những bộ lạc Lạc Việt được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người cầm đầu tự xưng là Hùng Vương (các vua Hùng). -Cách thứ nhất cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và cả sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm. Vì tổ tiên ta có tục xăm mình nên khi lập quốc mới nhân đó mà đặt quốc hiệu là Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích này nằm ngay trong tính phổ biến của tục xăm mình từng tồn tại trước và cả sau thời Hùng Vương hàng ngàn năm. Sách của Trung Quốc gọi nước ta thời Hùng Vương là cũng không ngoài ý nghĩa này.-Cách thứ hai cho rằng: Vì tổ tiên ta có tục nhuộm răng và ăn trầu nên mới có tên nước là Văn lang. Những người chủ trương theo cách này giải thích: hai chữ "tân lang" (nghĩa là cây cau) nói trại ra thành Văn Lang. Cơ sở thực tiễn của cách giải thích thứ hai này chính là tính phổ biến và sự trường tồn của tục nhuộm răng và ăn trầu. Tuy nhiên, "tân lang" là từ gốc Hán mà từ gốc Hán chỉ mới xuất hiện ở nước ta bắt đầu từ thời Bắc thuộc, tức là sau sự khai sinh của Văn Lang rất nhiều thế kỉ. -Cách thứ ba cho rằng: Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu của ngành Ngữ âm học lịch sử. Theo đó thì:Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Chỗ dựa chủ yếu của những người chủ trương giải thích theo cách này là kết quả nghiên cứu của ngành. Theo đó thì: Văn là người, nhóm người, tộc người, cộng đồng người,… Lang là sông, đồng nghĩa với giang, với xuyên (trong âm Hán - Việt), với khoảng (trong tiếng Lào) và với kông (trong tiếng Khmer).Ghép lại, Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông. Lập luận của những người chủ trương giải thích theo cách thứ ba được củng cố thêm bởi kết quả của hàng loạt những cuộc khai quật khảo cổ dọc theo lưu vực sông Hồng và sông Mã.Cảnh giã gạo thủ công thời quốc hiệu Văn Langb. Quốc hiệu Âu Lạc (257 - 208 TCN) : - Ðời nhà Thục An Dương Vương Âu Việt đã đuổi được Trung hoa và lấy tên Âu Lạc (năm 208 trước CN). - Năm 257 TCN, nước Âu Lạc (chữ Hán: 郎郎) được dựng lên, từ liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán - An Dương Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một phần đông nam Quảng Tây (Trung Quốc).-Khoảng cuối thế kỷ thứ 3 TCN, đầu thế kỷ thứ 2 TCN (năm 208 TCN), Triệu Đà (quận úy Nam Hải-nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ.-Tên nước Âu Lạc bao gồm hai thành tố Tây Âu và Âu Lạc, phản ánh ự liwwn kết giữa hai nhóm người Tây Âu và Lạc Việt, lãnh thổ Âu Lac cũng được xá nhập bởi hai vùng lãnh thổ Văn Lang và Âu Lạc.Thành Cổ Loa nằm trên bờ bắc sông HoàngThành Cổ Loa ở Đông Anh( Hà Nội) hiện nayVới quốc hiệu Văn Lang đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam, đây là một đất nước chưa bị các ách đô hộ xâm chiếm, có tên trong lịch sử. Thời kỳ của các vị vua Hùng, thời kỳ đầu xây dựng đất nước với khí thế hào hùng của đất Việt sự sinh sôi nảy nở của 100 cái trứng nở thành 100 người con mang sức mạnh tinh thần cũng như thể lực để rồi khai hoang tạo ra các miền trù phú tươi tốt. Với quốc hiệu Âu Lạc cũng cho ta liên tưởng nhiều ý nghĩa khác nhau nhưng nếu dịch theo tên quốc hiệu thì “ Lạc “ là tên một loài chim hoặc cũng có thể hiểu rằng là một loại lúa và “ Âu Lạc” là chỉ nền nông nghiệp cũng như Văn Lang, nền nông nghiệp là chính và là cơ sở hình thành đất nước.=>Như vậy ở hai Quốc hiệu của hai nhà nước Văn Lang và Âu Lạc thể hiện đặc trưng cho nền văn hóa lúa nước,là cái nôi của nền văn minh lúa nước, theo tiếng Hán là nông nghiệp. Đây được coi là nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam thời sơ khai dựng nước.2. Thể hiện các yếu tố chính trị cho vùng đất hay cư dân chủ thể của quốc hiệu vào thời kỳ độc lập, sự ngang bằng với nước láng giềng Trung Hoa, sự áp đặt của các triều đại phong kiến, từ năm 502 TCN đến năm 1840.Sau thời kỳ dựng nước của các Vua Hùng với quốc hiệu “ Văn Lang” và “Âu Lạc” khi đã có tên trên lãnh thổ lần lượt các thế lực đô hộ phương Bắc bắt đầu xâu chiếm nước ta và dần có những Quốc hiệu mới được hình thành do các vị tướng đánh giặc và lập nên và cũng đồng thời gắn liền với chế độ chính trị khác nhau nhưng cũng khẳng định được chủ quyền của đất nước tuy vẫn còn sự phụ thuộc chế độ đô hộ, phong kiến,a. Quốc hiệu Vạn Xuân (544-602)-Vạn Xuân (chữ Hán: 萬春) là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi khỏi chính quyền trung ương Trung Hoa của nhà Tiền Lý dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.-Bàn về quốc hiệu " Vạn Xuân", Đại Việt Sử kí đã cho rằng " với quốc hiệu mới, người đứng đầu nhà nước Vạn Xuân có ý mong xã tắc được bền vững muôn đời". Lí Bí là người Việt Nam đầu tiên xưng làm hoàng đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi Bắc, lấy Việt đối sách với Hoa đã khẳng định ý thức dân tộc, lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển đất nước độc lập và tự chủ. Đó là sự ngang nhiên phủ định quyền làm " làm bá chủ toàn thiên hạ" của hoàng đế phương Bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực và là sự khẳng định dứt khoát rằng " nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh của mình".b. Quốc hiệu Đại Cồ Việt (968-1053)-Nếu Vạn Xuân có thể là quốc hiệu đầu tiên của dân Việt thì Đạị Cồ Việt là quốc hiệu chính thức đầu tiên trong thời kỳ nước ta đã dành được độc lập. Sau khi dẹp xong 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua năm 968, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. - Ý nghĩa quốc hiệu Đại Cồ Việt:+"Đại" theo nghĩa chữ Hán là lớn, "Cồ" trong tiếng Việt cổ cũng là lớn.Đinh Tiên Hoàng muốn ghép 2 chữ cả Hán và Việt để khẳng định nước Việt là nước lớn, dù đọc theo ngôn ngữ nào - Ý nghĩa này còn được thể hiện ở hai câu đối (vẫn còn trong đền vua Đinh Tiên Hoàng ở Hoa Lư): “Cồ Việt quốc đương Tống Khai BảoHoa Lư đô thị Hán Trường An.”Nghĩa là:“Nước Cồ Việt ngang hàng với nhà Tống đời Khai Bảo;Kinh đô Hoa Lư như Tràng An của nhà Hán.”Di tích Cố đô Hoa Lưc. Quốc hiệu Đại Việt (1054-1804)-Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý liền cho đổi tên nước là Ðại Việt và quốc hiệu Ðại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần… -Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt (lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế).-Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1802).Chữ “Đại”được sử dụng trong các quốc hiệu-Ý nghĩa của quốc hiệu Đại Việt không có gì khác với Quốc hiệu Đại Cồ Việt. Tên Đại Việt được viết trong “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi có viết: “Vua đầu tiên là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Nam làm tổ Bách Việt”, nhưng trong Bình Ngô đại cáo ông lại viết: “Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu”, ở thế kỷ XV. d. Quốc hiệu Đại Ngu (1400-1407)-Đại Ngu là quốc hiệu Việt Nam đời nhà Hồ. Sau khi đảo chánh nhà Trần, Lê Quý Ly lên làm vua.-Năm 1407, nhà Minh, dù đã sắc phong cho Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc Vương năm 1403, vẫn đem quân xâm lăng Đại Ngu, bắt gia đình Hồ Quý Ly, xóa quốc hiệu Đại Ngu, thi hành chính sách đồng hóa triệt để.Thành nhà Hồ tại Thanh Hóa-Quốc hiệu “Đại Ngu” bắt nguồn từ truyền thuyết cho rằng họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn- một vị vua của Trung Hoa cổ đại, nổi tiếng vì đã đem lại sự bình yên và thịnh vượng cho dân chúng. Chữ “Ngu”có nghĩa là “sự yên vui, hòa bình”. “Đại Ngu thể hiện ước vọng của nhà Hồ về một giang sơn bình yên và rộng lớn. Trong lịch sử đã ghi nhận những đóng góp to lớn của nhà Hồ nhằm thực hiện mong muốn này. Ngay từ cuối thời Trần, Hồ Quý Ly đã thực hiện những cải cách sâu sắc, nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng của xã hội. Sau khi ông lên ngôi, đã đẩy mạnh các cuộc cải cách này và đem lại nhiều đổi thay cho đất nước về các mặt kinh tế, văn hóa và xã hội. Dưới quốc hiệu Đại Ngu, người Việt cũng được chứng kiến những thành tựu về khoa học- kỹ thuật: phát minh súng thân cơ, thuyền chiến hai tầng, hệ thống thủy lợi quy củ, công trình kiến trúc hoành tráng… Tuy nhiên, sự bình yên thịnh vượng mà quốc hiệu Đại Ngu hướng tới chỉ tồn tại trong 7 năm ngắn ngủi. Trước cuộc xâm lược của nhà Minh, nhà Hồ đã bị sụp đổ vào 4- 1407, đồng thời, chấm dứt sự tồn tại của quốc hiệu Đại Ngu.e. Quốc hiệu Việt Nam (1804-1884)-Ngay từ khi mới lên ngôi, vua Gia Long đã cử sứ thần sang Trung Hoa xin nhà Thanh phong vương và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt, với lý lẽ rằng “Nam” là “An Nam”, “Việt” là “Việt Thường”. Nhà Thanh từ chối vì cho rằng Nam Việt là tên nước của Triệu Đà ngày trước, bao gồm cả vùng Lưỡng Quảng Trung Quốc. Thanh triều cho đổi chữ Việt ra trước thành tên Việt Nam .-Tháng giêng năm 1804, nhà Thanh sai sứ thần sang Thăng Long tuyên phong Gia Long làm Việt Nam Quốc Vương. Vua Gia Long chính thức đặt quốc hiệu là Việt Nam.-Ý nghĩa của quốc hiệu Việt Nam thể hiện ý chí độc lập, tự do của dân tộc.Đất nước Việt Nam phát triển sau các cuộc Nam tiến trong 700 năm-Tuy nhiên, tên gọi "Việt Nam" có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề “Việt Nam thế chí” (nay không còn) hay ở trong Cuốn “Dư địa chí” viết đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam"… -Về ý nghĩa từ Việt Nam, nhiều giả thuyết cho rằng từ Việt Nam kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam ). f. Quốc hiệu Đại Nam hay (1820-1840):-Vua Gia Long thăng hà vào năm 1820. Vua Minh Mạng nối ngối (1820-1840) Với chính sách trung ương tập quyền, Vua Minh Mạng đã đưa Việt Nam thành một quốc gia lớn rộng và tương đối hùng mạnh trong vùng Đông Nam Á. -Năm 1938,Vua Minh Mạng quyết định đổi quốc hiệu từ Việt Nam sang Đại Nam.-Đại Nam là một nước lớn. Mộc bản nói về Dụ của vua Minh Mạng cho đổi quốc hiệu từ Việt Nam thành Đại Nam.3. Trong thời cận và hiện đại, quốc hiệu thường biểu lộ thể chế chính trị hay ước muốn chính trị của quốc gia, từ năm 1945 đến nay.Từ năm 1945, khi phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển mạnh mẽ thì phong trào giả phóng đất nước của Việt Nam cũng dâng trào lên mạnh mẽ với những cuộc đấu tranh giành độc lập, tự chủ hay nhu cầu áp dụng những chủ nghĩa mới, những hình thức chính trị mới. Cho nên từ đấy mỗi khi nắm được chính quyền và đất nước, các nhà cầm quyền tìm cách thay đổi quốc hiệu bằng cách thêm vào quốc hiệu Việt Nam những từ để nêu rõ đường hướng chinh trị của mình. a. Quốc hiệu Việt Nam dân chủ cộng hòa: -Đến cuối năm 1944 đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai đã gần bước vào giai đoạn kết thúc, bọn phát xít Đức bị hồng quân Liên Xô tiêu diệt, phát xít Nhật thì hoang mang cực độ cả trên mặt trận Thái Bình Dương cũng như trong đất nước Việt Nam.-Ngày 14-8-1945, Nhật Bản đầu hàng. Ngay sau đó , Hồ chí Minh và Mặt Trận Việt Minh phát động lệnh Tổng khởi nghĩa dành chính quyền trong cả nước. -Ngày 19-8-1945, ta cướp chính quyền tại Hà Nội, giải phóng thủ đô. -Ngày 30-8-1945, Bảo Đại tuyên bố thoái vị.-Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình- Hà Nội, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội-Đây là tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945 đến 1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngày quốc khánh của Việt Nam ngày nay). Với quốc hiệu này đã khẳng định rằng nước Việt Nam là nước độc lập, tự do, tự chủ.Quốc hiệu Việt Nam dân chủ cộng hòa trên tem thưSau năm 1945, sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thì tiền Việt Nam cũng được phát hành và ghi tên quốc hiệu trên đó.Quốc hiệu Việt Nam dân chủ cộng hòa trên tiền-Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ 1954-1975, chính thể này lại phải đối đầu với Việt Nam Cộng Hoà được thành lập tại miền Nam Việt Nam.-Sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp-Nhật, từ một nước thuộc địa chúng ta giành độc lập tự do, giành chính quyền cách mạng. Mở ra kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam: kỉ nguyên độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đông thời cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa trên thế giới.ở ra kỉ nguyên mới cho nước ta là kỉ nguyên độc lập dân tộc thông nhất đất nước, nhân dân được quyền làm chủ vận mệnh dân tộc của mình. -Việt Nam dân chủ cộng hòa là tên nước mà chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn Đảng mong muốn rằng nhân dân ta có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, xây dựng nước Việt Nam dân chủ, tiến bộ, công bằng tiến lên chủ nghĩa xã hội.-Quốc hiệu này chỉ rõ rằng Đảng Cộng sản tuy nắm chính quyền nhưng vẫn nhờ vào sự đoàn kết dân tộc để lôi kéo các thành phần khác trong xã hội và lãnh đạo cách mạng đi đên thắng lợi dành độc lập cho dân tộc Việt Nam.b. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976 đến nay) -Đó là lý do mà sau 30-4-1975. Việt Nam dân chủ cộng hòa nắm thực quyền trong cả nước Việt Nam nhưng vẩn duy trì chính phủ bù nhìn Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam và cả hai chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa miền nam Việt Nam cùng xin gia nhập Liên Hiệp Quốc nhưng bị khước từ. -Năm 1976, Hà Nội tiến hành gỉải tán chính phủ lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam, thực hiện cuộc “hiệp thương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước” .-Ngày 2-7-1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quyết định đổi tên nước là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thủ đô là Hà nội. Và quốc hiệu này được sử dụng đến tận bây giờ.Quốc hiệu Việt Nam trên tiền (từ năm 1976 đến nay)Đây là Quốc hiệu mang ý nghĩa trọn vẹn vừa độc lâp, tự do, thống nhất nước nhà và toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo hạnh phúc của nhân dân căn cứ vào lợi ích và quyền hạn của công dân, đi theo hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.Quốc hiệu còn có ý nghĩa thể hiện nước Việt Nam là một nước dộc lập có chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, là nước đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa, là một nước dân chủ, là nhà nước của dân, do dân và tất cả thuộc về nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân dựa trên nền tảng của giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp tria thức, xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa.Quốc hiệu Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn khẳng định Nhà nước Việt Nam có hình thức thể chế là cộng hòa xã hội chủ nghĩa, có chế độ chính trị dân chủ, thông nhất toàn vẹn lãnh thổ.Trên đây là toàn bộ quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cũng như các Quốc hiệu của từng thời kỳ lịch sử của ông cha ta ngày xưa. IV. Ý NGHĨA CỦA QUỐC HIỆU VIỆT NAM HIỆN NAYQuốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia, không chỉ có ý nghĩa biểu thị chủ quyền lãnh thổ mà còn là danh xưng chính thức được dùng trong ngoại giao; biểu thị thể chế và mục tiêu chính trị của một nước. Dù thể hiện dưới dạng tiếng nói hay chữ viết, đối với mỗi công dân, quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân tộc.Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, ở mỗi giai đoạn, nước ta từng có những quốc hiệu như Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Ngu, Việt Nam, Đại Nam, Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, non sông quy về một mối. Từ ngày 2.7.1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa VI nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định đổi thành quốc hiệu “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cho đến ngày nay. Hiến pháp năm 1980 và hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa nó trở thành chính thức cả về pháp lý và trên thực tế.Tên quốc hiệu “ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” có ý nghĩa rất quan trọng về cả mặt chính trị, ngoại giao, pháp lý và bản chất của nhà nước Việt Nam hiện nay. Bên canh đó tên Quốc hiệu còn có ý nghĩa về mặt thẩm mỹ đối với các văn bản quy pham pháp luật hay văn bản hành chính của cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan tư pháp, cơ quan lập pháp, cơ quan có thẩm quyền ban hành.1. Về mặt chính trị-Quốc hiệu hiện nay khẳng định Nhà nước Việt Nam có hình thức chính thể là cộng hòa xã hội chủ nghĩa, có chế độ chính trị dân chủ và là nhà nước đơn nhất,quyền lực thuộc về tay nhân dân dưới sự quản lý của nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng duy nhất, Đảng cộng sản Việt Nam, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.-Theo điều 4 Hiến pháp 1992, Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.-Hiện nay chế độ chính trị của Việt Nam theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thông qua Quốc hội Việt Nam. Đảm bảo tính dân chủ trong đất nước dưới sự giám sát của Quốc hội, của Hội đồng nhân dâ, của Đảng, Tổ chức chính trị,… nhằm quyền dân chủ thuộc về tay nhân dân.Ví dụ: trong việc sửa đổi Hiến Pháp vừa qua tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, Đảng và Nhà nước đã thực hiện trưng cầu ý kiến của người dân, xem xét để đưa ra quyết định sửa dổi phù hợp.Hay trong hoạt động chất vấn trực tiếp của đại biểu Quốc hội với Cơ quan quyền lực nhà nước đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của người dân thể hiện tính dân chủ rõ rệt.2. Về mặt bản chấtQuốc hiệu “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” được thể hiện qua: -Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước pháp quyền thể hiện trực tiếp sưc mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đây là nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân, một nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ, vì công lý. Theo điều 2 Hiến pháp 1992, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do -nhân dân, vì nhân dân. ”-Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền đảm bảo quyền lực nhà nước thống nhất từ trung ương tới địa phương, đảm bảo tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo điều 2 Hiến pháp 1992, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp."-Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về tay nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân và nông dân làm và đội ngũ trí thức làm nền tảng.-Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa là nhà nước thống nhất của các dân tộc. Quốc gia Việt Nam bao gồm 54 dân tộc anh em sinh sống trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, đa số là dân tộc kinh bên cạnh còn nhiều dân tộc khác như Mông, Dao, Khơ-me, Tày, Nùng, Thái,… Tuy có sự khác nhau về địa lý, về điều kiện phát triển kinh tế -xã hội nhưng ở mỗi dân tộc lại có phong tục tập quán , lễ hội, trang phục đã tạo đặc trưng và bản sắc dân tộc Việt Nam đa dạng phong phú nhưng thống nhất. Theo điều 5 Hiến pháp 1992, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là “Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.”-Đảm bảo quyền lực giữa nhân dân và nhà nước, thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì giữa hai bên có quyền và nghĩa vụ với nhau được nghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước luôn quan tâm đến quyền của nhân dân. Theo điều 6 Hiến pháp 1992, “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.” Nhà nước quản lý công dân bằng pháp luật và đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, bên canh đó nhân dân là chủ thể của Nhà nước thực hiện nghĩa vụ của mình.-Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân về mọi mặt. Theo điều 3 Hiến Pháp 1992,” Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân."3. Về pháp lý- Quốc hiệu nước ta đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992. Cụ thể hóa Hiến pháp, tại Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP và Thông tư số 01/2011/TT-BNV về hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản cũng đã quy định quốc hiệu trở thành một trong các thành phần của văn bản. Vì vậy, việc ghi quốc hiệu còn có ý nghĩa pháp lý quan trọng, là sự tôn trọng Hiến pháp và pháp luật.-Quốc hiệu còn thể hiện chủ quyền của đất nước Việt Nam, theo thể chế chính trị độc lập, dân chủ, khẳng định với các nước trên thế giới nền chính trị và thể chế của Việt Nam theo chủ nghĩa xã hội.-Nước cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập tự chủ, có chủ quyền thông nhất toàn vẹn lãnh thổ.4. Về ngoại giao-Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo cho việc hòa bình hợp tác cùng phát triển với các nước bạn. Theo điề 14 Hiến pháp “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.” -Với mục đích là dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì chúng ta cần sự giúp đỡ của anh em bạn bè thế giới.5. Về tính thẩm mỹBắt buộc trong các văn bản cần phải cần phải có Quốc hiệu thiếu quốc hiệu, văn bản không chỉ thiếu tính trang trọng mà đối với những văn bản quản lý nhà nước còn trở thành bất hợp pháp.Quốc hiệu trên văn bản hành chính nhà nướcHiện nay có nhiều ý kiến cho rằng nên đổi lại quốc hiệu Việt Nam thành Việt Nam dân chủ cộng hòa cho phù hợp với Việt Nam nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng giữa nguyên tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại Đại hội XIII của Đảng năm 2013 đã đề cập đến vấn đề này.