Vì sao Việt Nam phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ

+ Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, nói tới ®éc lËp tù chđ vỊ kinh tÕ kh«ng ai hiĨu ®ã lµ nỊn kinh tÕ khÐp kÝn, tù cung tù cấp, mà đặt trong mối liênhệ biện chứng với mở cưa, héi nhËp, chđ ®éng tham gia sù giao lu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh quốcgia, từng bớc xây dựng một cơ cấu sản xuấtđáp ứng đợc cơ bản nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân và có khả năng trang bị lại ở mức cần thiết chonhu cầu phát triển kinh tÕ , cđng cè qc phßng – an ninh.

2. Vì sao chúng ta phải xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ vững mạnh:

Theo nh trên ta ®· thÊy mét nỊn kinh tÕ ®éc lËp tù chđ là nh thế nào. Vậy tại sao trong khi hội nhập kinh tế thế giới chúng ta phải xây dựng mét nỊn kinhtÕ ®éc lËp nh vËy? Cã ý kiÕn cho rằng, trong điều kiện Toàn cầu hoá nền kinhtế, mở cửa hội nhập mà lại đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là thiếu nhạy bén, không thức thời, thạm chí là bảo thủ, t duy kiểu cũ. Thế giới bâygiờ là một thị trờng thống nhất, cần thứ gì thì mua, thiếu tiền htì đi vay, sao lại chủ trơng xây dựng nền kinh tÕ ®éc lËp tù chđ? Nãi nh vËy khi nghe có vẻ có lí,nhng nếu đi sâu vào thực tế thì thấy hoàn toàn thiếu cơ sở, vì nó quá đơn giản và phiến diện. Thực tiễn cho thấy nếu không có một nền kinh tế độc lập tự chủsẽ không những không thể có sự độc lập về chính trị, không thể bảo đảm đợc lợi ích cơ bản của dân tộc cũng nh chủ quyền quốc gia mà bản thân việc mở cửa,hội nhập kinh tế quốc tế cũng không đạt đợc kết quả nh mong muốn. Sự cần thiết phải xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ cùng với việc đẩy mạnh quátrình chủ động hội nhập kinh tế xuất phát từ một số luận điểm sau đây: + Tất cả các nớc tham gia hội nhập kinh tế đều xuất phát từ mục tiêu bêntrong, phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ trong nớc. Toàn cầu hoá, tự do hoá làm cho các nền kinh tế phụ thuộc, đan xen vào nhau. Tuy nhiên sự ràng buộc về lợiích đó không có sự ràng buộc thuần tuý, vô điều kiện mà chính là vì phải chia sẻ lợi ích một cách hợp lí, nhằm mục đích cuối cùng là thu đợc nhiều hơn lợi ích12cho đất nớc mình, dân tộc mình, giữ đợc tính độc lập của nền kinh tế qua mèi quan hƯ rµng bc, phơ thc lÉn nhau, mét sự ràng buộc đa phơng về lợi ích.Tất cả các nớc tham gia vào quá trình tự do hoá thơng mại đều trớc hết vì lợi ích của mình, tuyệt nhiên không vì lợi ích của nớc khác. Thế nhng, những lợi ích ấycó đợc hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cơ bản nhất là nội lực của nền kinh tế nớc đó. Nớc nào mạnh thì thu đợc nhiều lợi hơn. Toàn cầuhóa, thơng mại hoá, vừa tạo ra sự hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau, đồng thời cũng tạo nên sự cạnh tranh rất khốc liệt và rất không cân sức giữa các nền kinh tế. Sựcạnh tranh ấy khốc liệt đến nỗi có thể tạo nguy cơ gây mất ổn định về kinh tế và chính trị. Thậm chí còn có thể xảy ra xung đột giữa các nớc với nhau. Chính vìlẽ đó, các nớc không thể đứng nhìn toàn cầu hoá tác động tới mình, mà họ phải chủ ®éng tham gia, ®a ra c¸c quyÕt s¸ch nh»m héi nhập xu hớng của thế giới,đồng thời làm sao thu lợi nhiều nhất mà vừa bảo vệ đợc nền kinh tế của mình. Trên thực tế đã có rất nhiều nớc tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính, thơng mại thế giới từ lâu nhng vẫn trong tình trạng trì trệ, thậm chí mức độ bị phụ thuộc, mất tự do lại còn tănghơn. Nh vậy đủ thấy là mỗi nớc sẽ không thể thực hiện đợc những mục đích đã định ra nếu không có ọt nền kinh tế của chính mình và đủ mạnh.+ Chúng ta cần một nền kinh tế độc lập vững mạnh vì sự phát triển vững chắc và đảm bảo tính an toàn. Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay Èn chøa rÊtnhiỊu nh÷ng u tè bÊt ỉn, bÊt lêng, bất công mà mức độ cũng nh khả năng phòng tránh, khắc phục nó lại tuỳ thuộc rất nhiều ở trình độ phát triển của cácnền kinh tế. Ai cũng rõ, toàn cầu hoá làm lây lan nhanh chóng những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, tiền tệ...làm trầm trọng thêm những vấn đề mangtính toàn cầu mà thế giới cha tìm đợc lối thoát. Điều đó cũng có nghĩa là các nền kinh tế trở nên dễ biến động, bất ổn định hơn trớc. Ví dụ: Trong những năm1997 1998, Châu á gặp phải một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trầm trọng. Tuy nhiên, các nớc này nhanh chóng phục hồi là nhờ lúc đó nền kinh tế13Mỹ đang tăng trởng khá. Hiện nay, tõ sau ngµy 11 – 9, nỊn kinh tÕ Mỹ đang ngập trong khó khăn thì ngời ta dự đoán rằng nền kinh tế ở một số nớc Châu ákhó bề vơn dậy đợc. Lý do, họ dựa quá nhiều và xuất khẩu mà không tranh thủ thời cơ để tiến hành cải cách cần thiết trong nớc. Rồi đến Châu Phi đang phảigánh chịu một bài học đắt giá về việc chỉ biết sống dựa vào bên ngoài, phụ thuộc hẳn vào bên ngoài thì nền kinh tế trong nớc sẽ không bao giờ cất mình lênnổi. +Hiện nay tiêu chí sản phẩm hàng hoá cùng với các thiết chế, luật kinhtế đang trở thành luật chơi trong sân chơi toàn cầu. Muốn tham gia vào sân chơi này thì mỗi nớc phải tự khẳng định mình, tìm cho mình một vị trí đứng. Muốnvậy điều quan trong bậc nhất là tạo ra thật nhiều sản phẩm mà ai cũng thấy cần và đợc chấp nhận. Nh vậy, nớc nào muốn thu đợc nhiều lợi nhuận thì phải nắmcông cụ quan trọng là khoa học công nghệ hiện đại. Để thực hiện việc chuyển giao công nghệ, mỗi nớc phải đạt tới một trình độ nhất định mới tiếp thu đợccông nghệ hiện đại. Thế nhng một vấn đề quan trọng hơn, là phải phá vỡ bức rào cản do các công ty xuyên quốc gia đặt ra về tình trạng độc quyền các công nghệhiện đại. Trong nhiều trờng hợp, dựa vào u thế công nghệ hiện đại, họ tự cho mình quyền chi phối các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế, quyền đa lợi ích kinhtế đi kèm với các điều kiện chính trị, áp đặt t tởng. Thậm chí, một số nớc phát triển còn đa ra quyền trừng phạt các nớc dới nhiều hình thức. Vì vậy, để khắcphục đến mức thấp nhất tình trạng bị rơi vào thế lệ thuộc, tất cả các nền kinh tế bằng mọi cách phải nâng cao nguồn nội lực của mình, nâng sức mạnh kinh tếtring nớc, chống sự can thiệp quá sâu từ bên ngoài. Trong bối cảnh quốc tế phức tạp và đầy mâu thuẫn nh đã phân tích, đốivới đất nớc ta, việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ càng cần thiết hơn bởi nó là điều kiện quyết định giữ vững đợc định hớng phát triển mà chúng ta đãlựa chọn. Nói một cách khác, có xây dựng đợc một nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo đợc cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất kĩ thuật của chế độ chính trị ®éc14lËp tù chđ. §éc lËp tù chđ vỊ kinh tÕ đợc đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về các mặt khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợpcủa một quốc gia. Tóm lại, chỉ có xây dựng đợc nỊn kinh tÕ ®éc lËp tù chđ, chóng ta míi có cơ sở và điều kiện để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đẩymạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Phát biểu tại sự kiện này, Giáo sư Thomas J. Vallely, Giám đốc Chương trình Việt Nam, Trường Harvard Kennedy, cho biết trong số 12 thành viên đoàn đại biểu Việt Nam tham gia chuyến công tác lần này, có tới 6 Bộ trưởng từng theo học tại Harvard.  

Trường Đại học Harvard đã thực hiện đối thoại chính sách với phía Việt Nam trong 3 thập kỷ vừa qua, chú trọng vào việc góp phần giải quyết những thách thức lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt trong từng giai đoạn. Nhấn mạnh những thách thức mới mà Việt Nam phải đối mặt trong giai đoạn phát triển mới, Giáo sư cho biết các cử tọa rất muốn lắng nghe các quan điểm của Thủ tướng Phạm Minh Chính.

Hiệu trưởng Trường chính sách công Kennedy, Đại học Harvard, ông Douglas Elmendorf cũng bày tỏ mong muốn lắng nghe các phát biểu của Thủ tướng về triết lý, tầm nhìn và chiến lược phát triển của Việt Nam. Đồng thời ông cũng nhắc lại những kinh nghiệm rất thành công của Thủ tướng trong điều hành tỉnh Quảng Ninh trước khi trở thành lãnh đạo ở Trung ương.

Trong bài phát biểu quan trọng tại đây, Thủ tướng Phạm Minh Chính dành nhiều thời gian phân tích về chủ đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả tại Việt Nam.

Thủ tướng đánh giá cao Đại học Harvard với bề dày lịch sử, truyền thống lâu đời, có tầm ảnh hưởng và danh tiếng vào loại bậc nhất Hoa Kỳ và thế giới. Trong khi đó, bang Massachusetts là một trong những điểm đến trong hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã nhắc lại tư tưởng rất quan trọng trong Bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. “Việc tôi có mặt ở đây cũng thể hiện tư tưởng độc lập, tự chủ cho hai dân tộc; thể hiện tầm nhìn, mối quan hệ giữa hai nước chúng ta đã được tuyên bố năm 2015 khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Hoa Kỳ”, Thủ tướng nói. 

Thủ tướng nhắc lại, ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã thể hiện mong muốn thiết lập quan hệ đối tác bình đẳng, toàn diện với Hoa Kỳ trong những bức thư gửi tới chính quyền Hoa Kỳ năm 1946. Đặc biệt, trong bức thư ngày 16/2/1946 gửi Tổng thống Harry Truman, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ”. “Tôi đến đây với tình cảm kép, tình cảm của Đại học Harvard dành cho đoàn và tình cảm của mối lương duyên, sự kết nối giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Quan hệ hai nước trải qua những thăng trầm và đột phá, từ khi bắt đầu bình thường hóa quan hệ năm 1995, đã không ngừng phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Mối quan hệ toàn diện này vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới”, Thủ tướng nói.

Việt Nam và Hoa Kỳ đã vượt qua được những khác biệt và đạt được những nguyên tắc nền tảng cho quan hệ hai nước, như đã được khẳng định trong Tuyên bố về Tầm nhìn chung Việt Nam-Hoa Kỳ khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Hoa Kỳ vào năm 2015, trong đó nhấn mạnh tôn trọng “thể chế chính trị, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau". Việt Nam đánh giá cao trong những năm qua Hoa Kỳ luôn ủng hộ một Việt Nam hùng mạnh, độc lập và thịnh vượng. 

Thủ tướng nêu rõ, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thế giới hiện nay. Trong đó, Việt Nam khẳng định chủ trương nhất quán là kiên định đường lối đổi mới, mở cửa, chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng, thực chất, hiệu quả với bên ngoài. Đường lối đổi mới dựa trên 3 trụ cột, gồm xóa quan liêu bao cấp, đa sở hữu và hội nhập. Việt Nam luôn nỗ lực tạo môi trường và điều kiện thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của các doanh nghiệp, đối tác đầu tư, kinh doanh lâu dài, hiệu quả, bền vững trên nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích, chia sẻ rủi ro và tuân thủ pháp luật. Việt Nam mong muốn là bạn tốt, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong giải quyết các vấn đề khu vực, quốc tế và những thách thức toàn cầu vì sự thịnh vượng chung.

Vì sao Việt Nam phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
Toàn cảnh buổi tọa đàm. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN) 

Nhờ đường lối đổi mới, đặc biệt là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, từ một nền kinh tế kém phát triển, sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN; 1 trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; là nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản đứng đầu thế giới; có mạng lưới 15 Hiệp định Thương mại tự do (FTAs) đã có hiệu lực; an sinh xã hội và đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn 2,2% năm 2021.

Thủ tướng tập trung làm rõ 3 vấn đề: Thứ nhất, vì sao phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng? Thứ hai, một số quan điểm, mục tiêu, tư tưởng chủ yếu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng ở Việt Nam. Thứ ba, một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới.

Thủ tướng phân tích, thực tiễn cho thấy, để thành công, mỗi nước đều cần cách làm, lộ trình, bước đi phù hợp gắn với đặc điểm, điều kiện cụ thể; nhưng cần đặc biệt lưu ý một số yêu cầu mang tính phổ quát. Theo đó, độc lập, tự chủ về kinh tế gắn liền với độc lập, tự chủ về chính trị, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việc tôn trọng sự khác biệt về điều kiện, đặc điểm chính trị, kinh tế, lịch sử, văn hóa, xã hội sẽ góp phần tạo ra sự đa dạng, phong phú của kinh tế toàn cầu và lợi thế quốc gia. Cùng với đó, phải tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng các quốc gia dựa trên Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Phân tích thêm về sự cần thiết phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng ở Việt Nam, Thủ tướng nêu rõ, đây là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại, danh nhân văn hóa thế giới đã dành cả đời mình phấn đấu cho nền độc lập dân tộc của Việt Nam với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” gắn liền với “mở cửa và hợp tác” quốc tế. Trong thư gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman (18/1/1946), Người cũng khẳng định: “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ đóng góp công sức vào việc xây dựng hòa bình và thịnh vượng trên thế giới”.

Thủ tướng khẳng định, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng là chủ trương nhất quán, kiên định, xuyên suốt của Việt Nam từ khi giành được độc lập dân tộc năm 1945, đặc biệt trong 35 năm đổi mới, nhất là từ đầu những năm 1990 khi Chiến tranh lạnh kết thúc và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Việt Nam vừa hội nhập sâu rộng, vừa nỗ lực vươn lên, nâng cao năng lực nội tại, ứng phó linh hoạt, hiệu quả với các cú sốc từ bên ngoài như: khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008, đại dịch Covid-19 từ 2020 đến nay. 

Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng xuất phát từ 3 lý do chủ yếu.

Một là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng chính là để góp phần giải quyết những vấn đề lớn đặt ra đối với Việt Nam. 

Hai là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một trong những yếu tố then chốt để bảo đảm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia. Đây là tất yếu khách quan của việc mở cửa, hội nhập quốc tế.

Ba là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ giúp nâng cao thực lực, tiềm lực cho hội nhập sâu rộng, hiệu quả trong hệ thống kinh tế toàn cầu và thực hiện tốt các cam kết quốc tế.

Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, quan điểm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng đã được xác định rõ, là chủ trương nhất quán, xuyên suốt trong Cương lĩnh xây dựng đất nước, Nghị quyết của Đảng và Hiến pháp. 

Về những tư tưởng chủ đạo, Thủ tướng nhấn mạnh, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, dựa trên 3 trụ cột: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Xác định rõ con người là trung tâm, là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Phát huy tối đa trí tuệ, tài năng và năng lực, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. 

Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trên cơ sở các yếu tố nền tảng, trụ cột chính là con người, thiên nhiên và truyền thống lịch sử, văn hóa. Phát huy tinh thần đoàn kết, trí tuệ, bản lĩnh và đạo đức con người Việt Nam. Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, để thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển; trong đó nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định, ngoại lực là quan trọng, đột phá, thường xuyên; đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển hóa ngoại lực thành nội lực. Tăng cường huy động các nguồn lực xã hội dưới hình thức hợp tác công tư, nhất là cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội.

Tập trung thực hiện và tạo chuyển biến rõ nét trong 3 đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng, trong đó chú trọng tạo đột phá về thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...

Kết thúc bài phát biểu, Thủ tướng đánh giá cao kết quả hoạt động của Đại học Fulbright và Chương trình Lãnh đạo quản lý cấp cao (VELP) do Đại học Harvard và các cơ quan Chính phủ Việt Nam phối hợp triển khai. Thủ tướng bày tỏ, Việt Nam mong muốn nhân rộng mô hình này với các trường đại học nổi tiếng khác của Hoa Kỳ và thế giới, với cách làm mới hơn, hiệu quả hơn. 

Sau phần thuyết trình của Thủ tướng, các vị Bộ trưởng, thành viên đoàn công tác đã phát biểu, tham gia chương trình tọa đàm với các giáo sư Đại học Harvard về định hướng phát triển của Việt Nam.

Đóng góp tích cực và hiệu quả trong hợp tác ASEAN và quốc tế