Trên thị trường vốn công cụ tài chính được phát hành bởi

Mục lục bài viết

  • Thị trường vốn
  • Phân loại thị trường
  • Đặc điểm Nhóm các thị trường vốn
  • Dịch vụ chuyên môn của Nhóm các thị trường vốn
  • Căn cứ vào kỳ hạn của chứng khoán mua bán trên thị trường
  • Căn cứ vào mục đích hoạt động của thị trường
  • Thị trường sơ cấp (Primary market)
  • Thị trường thứ cấp (Secondary market)

Thị trường vốn là thị trường tài chính trong đó các công ty và các cơ quan chính phủ tăng vốn bằng cách bán cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khả mại có kỳ đáo hạn cao hơn một năm. Các chứng khoán được phân phối thông qua thị trường chứng khoán công cộng, hay kinh doanh tư nhân với các nhà đầu tư. So sánh với MONEY MARKET.

Thị trường vốn

Khái niệm

Thị trường vốn hay thị trường vốn trung và dài hạn trong tiếng Anh được gọi là capital market.

Thị trường vốn là thị trường cung cấp vốn đầu tư trung dài hạn cho các chủ thể trong nền kinh tế chính quyền trung ương, chính quyền địa phương cho đến các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sử dụng cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, mở rộng sản xuất kinh doanh.

Nhóm các thị trường vốn trong tiếng Anh là Capital Markets Group.

Nhóm các thị trường vốn là một bộ phận trong một công ty lớn, có chuyên môn trong các thị trường tài chính, và cung cấp dịch vụ tài chính cho các đối tượng khách hàng cụ thể.

Nhóm các thị trường vốn có thể giúp các công ty đáp ứng nhiều mục tiêu tài chính khác nhau như lên kế hoạch và thực hiện một đợt chào bán cổ phần cũng như phát hành nợ.

Nhóm các thị trường vốn có thể cung cấp các loại dịch vụ như quản lí đầu tư, cho vay, giao dịch cổ phiếu, nghiên cứu đầu tư, dịch vụ tư vấn hoặc bất kì loại dịch vụ tài chính nào khác

Phân loại thị trường

>> Xem thêm: Kinh tế thị trường là gì ? Phân tích ưu điểm, nhược điểm của kinh tế thị trường

Thị trường vốn tại các quốc gia phát triển thường bao gồm:

-Thị trường chứng khoán (The Securities Market)

Thị trường chứng khoán, theo nghĩa rộng được gọi là thị trường vốn (Capital market). Ở đây các giấy nợ trung hạn, dài hạn (chứng khoán có thời hạn trên 1 năm) và các cổ phiếu được mua bán.

Các công cụ ở thị trường chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương.

Các công cụ trên thị trường vốn có thời gian dài (trái phiếu) và vô hạn (cổ phiếu) do đó giá cả của nó dao động rộng hơn so với các công cụ của thị trường tiền tệ.

Vì vậy, nó được coi là những chứng khoán có độ rủi ro cao hơn, và vì vậy cơ chế phát hành, lưu thông mua bán chúng được hình thành khá chặt chẽ nhằm hạn chế những biến động và thiệt hại cho nền kinh tế xã hội.

-Thị trường cho thuê tài chính (Financial Leasing Market)

Đây là thị trường cho thuê tài sản thiết bị giữa một bên là nhà cho thuê chuyên nghiệp – tức là các công ty cho thuê tài chính (Financial Leasing Company) với bên khác là, người đi thuê gồm các tổ chức và cá nhân có nhu cầu sử dụng tài sản thiết bị để sản xuất kinh doanh hơn phục vụ nhu cầu công tác quản lí.

Thị trường cho thuê tài chính sẽ giúp các công ty, xí nghiệp, các tổ chức kinh tế, và cá nhân có điều kiện tiếp cận và sử dụng các loại tài sản thiết bị phù hợp với yêu cầu của mình làm cho việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.

Thị trường, cho thuê tài chính đặc biệt giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cá nhân thoả mãn được nhu cầu tài trợ để mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

>> Xem thêm: Tiền tệ là gì ? Các chức năng của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường ?

-Thị trường thế chấp (Mortgage Market)

Thị trường thế chấp, còn gọi là thị trường cho vay vốn trung dài hạn của các tổ chức tài chính đối với các đơn vị kinh tế để giúp thực hiện các dự án đầu tư mở rộng, đối với dây chuyền công nghệ… với điều liện các dự án đầu tư phải tính toán được hiệu quả kinh tế, có khả năng hoàn vốn, trả nợ ngân hàng và phải có tài sản thế chấp (Mortage).

Tuy nhiên, nếu dự án đầu tư có hiệu quả cao, mức độ an toàn cao, thì ngân hàng cho vay cũng không cần phải có tài sản thế chấp. Đối với những dự án như vậy nhà ngân hàng có thể cấp tín dụng trung dài hạn bằng tín chấp.

Đặc điểm Nhóm các thị trường vốn

Các loại dịch vụ có thể được cung cấp bởi nhóm các thị trường vốn rất đa dạng, phụ thuộc vào mục tiêu trọng tâm của công ty đứng sau và nhu cầu của khách hàng đối tượng.

Ví dụ nhóm các thị trường vốn có thể giúp một công ty chăm sóc sức khỏe thuê hoặc tài trợ cho các thiết bị đắt tiền mới.

Ngoài ra, họ cũng có thể giúp một công ty non trẻ tìm kiếm nhà đầu tư tiềm năng, mở rộng hoạt động, thậm chí cung cấp tài chính cho khách hàng của công ty đó, và các hoạt động khác như tái cấu trúc công ty.

Để giúp các công ty đối mặt với những thách thức và cơ hội ngày càng phức tạp, nhóm các thị trường vốn thường là bên hỗ trợ rất hiệu quả, giúp công ty vận hành và duy trì khả năng cạnh tranh trong trường hợp điều kiện thị trường thay đổi hay không chắc chắn.

Việc liên minh giữa các công ty và nhóm các thị trường vốn có khả năng giúp công ty điều hướng theo các bối cảnh kinh tế. Hơn nữa, các công ty còn được sở hữu các báo cáo phân tích thị trường, lời tư vấn chất lượng cao giúp họ thúc đẩy tăng trưởng.

Nhóm các thị trường vốn thường tập trung vào việc xây dựng các mối quan hệ chiến lược, nhằm hình thành một tầm nhìn hiểu biết sâu sắc về nhu cầu của khách hàng.

>> Xem thêm: Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Điều này cho phép họ đưa ra những lời khuyên và giải pháp có khả năng sẽ tạo ra sự khác biệt đáng kể.

Dịch vụ chuyên môn của Nhóm các thị trường vốn

Các dịch vụ mà nhóm các thị trường vốn thường cung cấp gồm có:

- Dịch vụ ngân hàng đầu tư.

- Sáp nhập và mua lại.

- Dịch vụ cho các loại thị trường nợ.

Nhóm các thị trường vốn giúp các công ty huy động vốn và tập hợp nguồn tài chính tài trợ thông qua một loạt các giải pháp tinh vi.

- Dịch vụ cho các loại thị trường vốn cổ phần.

Nhóm các thị trường vốn giúp các công ty phát triển kế hoạch và thực hiện các dịch vụ liên quan đến nguồn vốn cổ phần, chẳng hạn như các đợt IPO.

Căn cứ vào kỳ hạn của chứng khoán mua bán trên thị trường

>> Xem thêm: Thị trường là gì ? Thị trường là gì trong marketing? Tại sao phải nghiên cứu thị trường ?

Thị trường tài chính được phân thành hai loại thị trường cơ bản sau:

Thị trường tiền tệ (Money market)

Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn – short-term debt securities (có thời hạn đáo hạn từ một năm trở xuống).

Những người đi vay/phát hành trên thị trường này là những người đang thiếu hụt tạm thời về tiền tệ để đáp ứng cho các nhu cầu thanh toán. Thông qua các giao dịch mua bán quyền sử dụng vốn vay ngắn hạn, thị trường tiền tệ đã cung ứng một lượng tiền tệ cho họ để thoả mãn nhu cầu thanh toán. Cũng vì thế mà nó được gọi là “thị trường tiền tệ”. khóa học quản trị hành chính nhân sự

Những người mua/cho vay trên thị trường tiền tệ là những người có vốn tạm thời nhàn rỗi, chưa muốn đầu tư hoặc đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư, do vậy họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn của mình trong thời hạn ngắn để tranh thủ hưởng lãi. Đối với họ, việc đầu tư vào thị trường tiền tệ chỉ mang tính nhất thời, họ không quan tâm nhiều tới mức sinh lợi mà chủ yếu là vấn đề an toàn và tính thanh khoản để có thể rút vốn ngay khi cần. kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm

Trên thị trường tiền tệ, do khối lượng giao dịch chứng khoán thường có qui mô lớn nên các nhà đầu tư (cho vay) thường là các ngân hàng, ngoài ra còn có các công ty tài chính hoặc phi tài chính, còn những người vay vốn thường là chính phủ, các công ty và ngân hàng. Tự học xuất nhập khẩu

Tuỳ theo phạm vi các chủ thể được tham gia giao dịch trên thị trường mà thị trường tiền tệ còn được chia thành thị trường liên ngân hàng (Interbank Market) – là thị trường tiền tệ mà các giao dịch về vốn chỉ diễn ra giữa các ngân hàng (kể cả NHTW) và thị trường mở (Open Market) – là thị trường tiền tệ mà ngoài các ngân hàng ra còn có các tổ chức phi ngân hàng tham gia. Ngoài ra trong thị trường tiền tệ còn có một thị trường bộ phận chuyên giao dịch các chứng khoán ngắn hạn được ghi bằng ngoại tệ, thị trường này được gọi là thị trường hối đoái (Foreign Exchange Market). Thị trường hối đoái ngoài các chứng khoán còn mua bán cả ngoại tệ tiền mặt và các phương tiện thanh toán ghi bằng ngoại tệ như séc ngoại tệ. Ở Việt nam, thị trường tiền tệ được tổ chức dưới các hình thức: thị trường nội tệ liên ngân hàng (đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1993) và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (đi vào hoạt động từ tháng 10 năm 1994). hoc ke toan thue

Thị trường vốn (Capital market)

Thị trường vốn là thị trường mua bán các chứng khoán nợ dài hạn – long-term debt securities (có thời hạn đáo hạn trên một năm) và các chứng khoán vốn (equity securities).

Do các chứng khoán mua bán trên thị trường vốn có thời hạn dài nên các nhà phát hành có thể sử dụng vốn thu được để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy thị trường vốn được coi là thị trường cung ứng vốn đầu tư cho nền kinh tế.

>> Xem thêm: Thị trường chứng khoán là gì ? Quy định về thị trường chứng khoán

Căn cứ vào mục đích hoạt động của thị trường

Thị trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.

Thị trường sơ cấp (Primary market)

Thị trường sơ cấp là thị trường trong đó các chứng khoán mới được các nhà phát hành bán cho các khách hàng đầu tiên, và do vậy còn được gọi là thị trường phát hành. c&b là gì

Thị trường này cho phép các chủ thể kinh tế như các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ… huy động vốn từ nền kinh tế bằng việc phát hành các chứng khoán mới.

Hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán tại thị trường này chủ yếu diễn ra giữa các nhà phát hành và các nhà đầu tư lớn như các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư hay công ty bảo hiểm… theo hình thức bán buôn. Các nhà đầu tư này khi đó đóng vai trò như nhà bảo lãnh cho đợt phát hành chứng khoán (underwriting securities), họ sẽ mua lại toàn bộ số chứng khoán phát hành ra theo mức giá thoả thuận (thường là thấp hơn mức giá công bố) để sau này bán lẻ ra thị trường cho các nhà đầu tư khác. Vì các thoả thuận về bảo lãnh chứng khoán thường được tổ chức riêng giữa các nhà bảo lãnh và nhà phát hành nên hoạt động giao dịch cụ thể tại thị trường này không được công khai cho mọi người.

Thị trường thứ cấp (Secondary market)

Thị trường thứ cấp là thị trường trong đó các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp được mua đi bán lại, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán.

Thị trường thứ cấp được xem như thị trường bán lẻ các chứng khoán để phân biệt với thị trường sơ cấp là thị trường bán buôn các chứng khoán.

Thị trường thứ cấp đảm bảo khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền, cho phép những người giữ chứng khoán có thể rút ra khỏi sự đầu tư tại thời điểm nào mà họ mong muốn hoặc có thể thực hiện việc di chuyển đầu tư từ khu vực này sang khu vực khác.

>> Xem thêm: Ví dụ về cách thâm nhập thị trường quốc tế của một sản phẩm cụ thể ? Phân tích cách thâm nhập đó.

Sự khác nhau chủ yếu giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là ở chỗ hoạt động của thị trường sơ cấp làm gia tăng thêm vốn cho nền kinh tế còn hoạt động của thị trường thứ cấp chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các chứng khoán đã phát hành, mà không làm tăng thêm lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế.

Giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thị trường sơ cấp đóng vai trò tạo cơ sở cho những hoạt động của thị trường thứ cấp vì nó là nơi tạo ra hàng hoá để mua bán trên thị trường thứ cấp. Thị trường thứ cấp cũng có tác dụng trở lại đối với thị trường sơ cấp, đóng vai trò tạo động lực cho sự phát triển của thị trường này. Tác dụng của thị trường thứ cấp tới thị trường sơ cấp được thể hiện ở hai chức năng của nó:

Thứ hai, thị trường thứ cấp đóng vai trò xác định giá của các chứng khoán sẽ được phát hành trên thị trường sơ cấp. Các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp sẽ không thể mua các chứng khoán phát hành mới tại thị trường này với giá cao hơn giá mà họ nghĩ sẽ có thể bán được tại thị trường thứ cấp. Nếu chứng khoán của một nhà phát hành được mua bán với giá cao tại thị trường thứ cấp thì nhà phát hành càng có cơ hội thu được nhiều vốn nhờ việc phát hành các chứng khoán mới tại thị trường sơ cấp.

Chính vì những đặc điểm này mà các tổ chức phát hành cũng như các nhà đầu tư quan tâm nhiều tới thị trường thứ cấp hơn là thị trường sơ cấp.