Top 100 nhà thờ đẹp nhất việt nam năm 2024
(topplus.vn) Tọa lạc tại số 40 Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm, ngay ở điểm giao nhau của 3 con phố lớn là Nhà Thờ, Lý Quốc Sư và Nhà Chung. Nhà thờ Lớn có tên chính thức là Nhà thờ chính tòa Thánh Giuse, là nhà thờ Thiên Chúa Giáo có lịch sử lâu đời nhất ở Hà Nội, không chỉ là một địa điểm tôn giáo linh thiêng mà còn là một công trình kiến trúc tiêu biểu của thủ đô, thu hút du khách bởi vẻ đẹp cổ kính và tráng lệ. Nhà thờ Lớn Hà Nội, hay ngắn gọn hơn là Nhà thờ Lớn – là cách gọi dân dã, quen thuộc của người Hà Nội khi nhắc tới công trình này, có tên chính thức là Nhà thờ chính toà Thánh Giuse. Ðây là nhà thờ chính toà của Tổng giáo phận Hà Nội. Nhà thờ Lớn Hà Nội là một trong những công trình Thiên chúa giáo được xây dựng sớm nhất ở Hà Nội và cũng là một trong những kiến trúc nhà thờ đẹp nhất. Khu đất xây dựng Nhà thờ Lớn ngày nay vốn có một ngôi chùa tọa lạc, đó là chùa Báo Thiên (tên đầy đủ là Sùng Khánh Báo Thiên Tự), ngôi chùa nổi tiếng được coi là Quốc tự. Chùa Báo Thiên được dựng từ thời Lý, dưới triều Vua Lý Thánh Tông vào năm 1057. Ngôi chùa lớn, cổ kính, tráng lệ, nằm ở thôn Tiên Thị, huyện Thọ Xương (xưa gọi là phường Báo Thiên), bên ngoài Kinh thành Thăng Long. Suốt hai triều Lý – Trần khoảng gần 400 năm, chùa Báo Thiên là Quốc tự nổi tiếng, là trung tâm Phật giáo của Kinh đô Ðại Việt. Ðầu thế kỷ 15, trong thời thuộc Minh, chùa Báo Thiên bị giặc Minh phá hủy nặng nề, nhiều bảo vật quý giá bị thất lạc, mất mát, hư hỏng. Trong số đó có tháp Báo Thiên được coi là 1 trong An Nam tứ đại khí (4 bảo vật của nước Nam). Ðược phục dựng dưới thời nhà Lê, nhưng cuối thế kỷ 18 chùa lại có trận hỏa hoạn lớn, nên các nhà sư di dời sang nơi khác. Ngôi chùa trở nên hoang phế. Năm 1873, sau sự kiện quân Pháp chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất, khu đất chùa Báo Thiên được người Pháp giao cho Giám mục Puginier. Vị giám mục này đã cho dựng tạm vài ngôi nhà gỗ để ở và làm việc trên nền cũ chùa. Năm 1882, quân Pháp chiếm thành Hà Nội lần thứ hai. Tới năm 1883, theo yêu cầu của Thống sứ Bắc kỳ Raoul Bonnal, kinh lược Bắc kỳ là Tổng đốc Nguyễn Hữu Ðộ đã giao khu chùa cũ này cho Giám mục Puginier để kiến tạo công trình nhà thờ Chính tòa Hà Nội. Nhà thờ được Giáo hội Công giáo cho xây dựng bằng gạch thay thế cho kiến trúc cũ bằng gỗ trên nền chùa cũ, khoảng từ năm 1884 – 1886, trong bối cảnh Hà Nội chuyển hình thái sang đô thị mới kiểu phương Tây. Nguồn vốn xây dựng nhà thờ được huy động từ 2 đợt mở xổ số và các nguồn vận động khác. Công trình khánh thành vào Giáng sinh năm 1887. Thời gian mới hoàn thành, nơi đây còn hoang vắng. Phải tới năm 1890, phố Nhà Thờ mới được xây dựng từ nhà thờ hướng thẳng ra Hồ Gươm và nhà thờ mới có vị trí đắc địa, quan trọng trong không gian đô thị. Ðiều đặc biệt là công trình độc đáo này xây dựng theo kiểu kiến trúc Gothic mô phỏng Nhà thờ Ðức Bà Paris của phương Tây nhưng có sự giao thoa với phương Ðông, giữa văn hóa Thiên chúa giáo và Phật giáo. Phong cách kiến trúc đặc trưng của Nhà thờ Lớn Hà Nội là kiểu Gothic trung cổ châu Âu, được xem là đỉnh cao khoa học kỹ thuật xây dựng và rất thịnh hành trong thế kỷ 12 và thời Phục Hưng châu Âu. Vật liệu xây dựng chính là gạch đất nung, mái ngói đất nung, tường trát bằng giấy bổi. Nhà thờ có chiều dài 64,5m, chiều rộng 20,5m và hai tháp chuông cao 31,5m. Hai tháp chuông nhà thờ có bộ chuông gồm 5 quả chuông, với 1 quả chuông boòng lớn và 4 quả nhỏ, được kết nối với đồng hồ để báo khắc, báo giờ. Trước Nhà thờ có một quảng trường nhỏ với tượng Đức Mẹ, làm tăng thêm giá trị cảnh quan cho công trình. Công trình có bố cục mặt đứng đăng đối, chia làm 3 phần. Hai bên là hai tháp chuông cao vút lên, ở giữa là khối thấp hơn được kết thúc bằng đỉnh tường hình tam giác với cây Thánh giá tạo thành điểm nhấn. Phần lớn các cửa đi và cửa sổ trên mặt đứng chính đều sử dụng hình thức vòm cuốn nhọn Gothique điển hình. Riêng ở phần giữa có một cửa sổ tròn hình hoa, bên trên dưới cây thánh giá có một mặt đồng hồ cũng hình tròn. Theo phân vị và hệ thống cửa trên mặt đứng thì hai khối tháp chuông hai bên có chiều cao 5 tầng và khối giữa cao 3 tầng. Các trang trí cửa sổ và cửa đi trên mặt đứng theo hình thức Gothique nhưng vừa phải, không quá cầu kỳ, rườm rà. Mặt trước của công trình Cây Thánh giá bằng đá trên nóc phần giữa nhà thờ, phía dưới là đồng hồ Mặt bên tháp chuông với các ô cửa Gothique nhỏ hẹp Mặt bằng công trình có bố cục theo kiểu basilica truyền thống – mặt bằng hình chữ nhật có phần cuối hình bán nguyệt. Mặt bằng công trình chia làm ba phần theo chiều sâu từ lối vào: Sảnh đón tiếp phía trên có gác đàn (nơi dành cho ca đoàn và nhạc công ), không gian dành cho giáo dân hành lễ và Cung thánh là nơi cử hành các thánh lễ. Tuy mặt đứng được phân thành 3 nhịp song ở nội thất lại được chia làm 5 nhịp, với nhịp giữa rộng hơn gấp đôi so với các nhịp biên. Vòm mái trong nội thất cũng sử dụng hình thức vòm cuốn nhọn của kiến trúc Gothique. Hai hàng cửa sổ hai bên kiểu Gothique được thiết kế thành những nhóm 3 cửa, cao ở giữa, thấp hai bên tạo thành nhịp điệu liên hoàn. Các cửa sổ này đều sử dụng kính màu và nội dung là những bức tranh thánh. Những ô cửa này mang ánh sáng tự nhiên vào trong nội thất với những sắc màu ảo diệu. Một góc bên ngoài nhà thờ Mặt bên nhà thờ với nhịp điệu các ô cửa sổ Những ô cửa vòm Gothique với mái ngói truyền thống Việt Nam (2).jpg) .jpg) (1).jpg) Các đường nét vô cùng tinh xảo Khu vực cung thánh ở cuối cùng và các ban thờ được trang trí bằng gỗ chạm trổ hoa văn sơn son thiếp vàng có tính nghệ thuật dân gian truyền thống hết sức độc đáo. Cung thánh nằm chính giữa có hình bán nguyệt là ban thờ Thánh Giuse, hai bên có ban thờ Thánh Alton và ban thờ các Thánh tử vì đạo. Tại ban thờ Thánh Giuse, có bức tượng Thánh cao hơn 2m; phía trên là những ô cửa kính màu lớn bố trí theo mặt bằng vòng cung. Ở giữa phần không gian hành lễ, nằm về hai phía còn có ban thờ Đức Mẹ và ban thờ “Lái tim chúa Giesu”. Các ban thờ này đều có tranh trí nội thất thống nhất với nhau bằng chất liệu gỗ, kết hợp với các ô cửa kính màu. Đặc biệt, ngay trong lòng thánh đường còn có 3 ngôi mộ của 3 vị Hồng y nằm phía trên gần cung thánh. Đó là mộ của Hồng y Trịnh Như Khuê (nằm giữa), Hồng y Phạm Đình Tụng và Hồng y Trịnh Văn Căn (nằm hai bên). Không gian nội thất bên trong Thánh đường Motíp trang trí Gothique trong nội thất Mái vòm nhà thờ Gác đàn, nằm phía trên lối vào (2).jpg) Ánh sáng trong lòng Nhà thờ dường như huyền ảo hơn khi chiếu qua những bức tranh Thánh bằng kính màu trên mỗi ô cửa sổ. Về tổng thể, công trình mang phong cách kiến trúc Gothique châu Âu, nhưng lại có sự kết hợp với kiến trúc bản địa, thể hiện ở hệ thống mái ngói đất nung, hệ thống trang trí nội thất đậm chất truyền thống Việt Nam, là sản phẩm của sự giao lưu văn hoá Đông – Tây hết sức đặc sắc. Trải qua hơn 3 thế kỷ cùng những thăng trầm của thời gian và cả chiến tranh, Nhà thờ Lớn vẫn tồn tại và là một trung tâm hoạt động Công giáo của thủ đô và các vùng phụ cận. Công trình được coi là kiến trúc Nhà thờ tiêu biểu, và là một trong những nhà thờ Công giáo đẹp nhất của Hà Nội và cả nước. Nhà thờ Lớn cũng là công trình đánh dấu một giai đoạn phát triển đô thị đặc biệt của Hà Nội và là kiến trúc tiêu biểu của thủ đô. —————————————— Hồng bảo Kỷ lục được hiểu là những công trình Kỷ lục được thực hiện trong một thời gian dài, tích hợp những giá trị về kiến trúc, thẩm mỹ, văn hóa… để hình thành nên cho mai sau những di sản, đồng thời góp phần viết tiếp những câu chuyện mà cha ông đã gây dựng, từ đó góp phần định vị những giá trị địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung vươn tầm khu vực và thế giới, góp phần định hình, phát triển hình ảnh du lịch địa phương nói riêng và đất nước nói chung thông qua những công trình biểu tượng. Hành trình tìm kiếm TOP 100 Hồng bảo Kỷ lục Thế giới tại Việt Nam được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) giao cho Trung tâm TOP Việt Nam triển khai và đề cử đến Viện Kỷ lục Thế giới (World Mark) với mong muốn góp phần nhận diện, định vị, quảng bá hình ảnh quốc gia – địa phương ra thế giới. Dự án là một hành trình dài hơi và có thể tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác trong mục tiêu chung tạo ra những thay đổi về kiến trúc cảnh quan hiện hữu và quan trọng hơn là góp phần tạo nên những giá trị chiều sâu về văn hóa điểm đến hay lịch sử gắn liền với điểm đến. |