So sánh thơ lý bạch và thơ đỗ phủ

Ông là nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung, được hậu bối tôn làm Thi Tiên [Tiên Thơ].

[Tiếng Trung: 李白; bính âm: Lǐ Bái / Lǐ Bó; 701- 762] là nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung, được hậu bối tôn làm Thi Tiên. Thân thế Theo lời Lý Bạch kể lại, thì ông là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng nhà Hán, là cháu chín đời của Vũ Chiêu Vương Lý Cao nước Tây Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Có sách ghi ông là con cháu đời sau tông thất nhà Đường. Tương truyền lúc ông sắp sinh, bà thân mẫu nằm mộng thấy sao Tràng Canh [hay Trường Canh], vi sao này có tên là Thái Bạch nên đặt tên con là Bạch[1]. Sau này ông tự đặt hiệu là Thái Bạch, rồi Tràng Canh; ngoài ra do sinh ở làng Thanh Liên nên cũng lấy hiệu là Thanh Liên cư sĩ. Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là: Tửu trung tiên, Lý Trích Tiên. Về sau này, Đỗ Phủ, thua ông 11 tuổi, được tôn làm Thi Thánh [Thơ Thánh] thì Lý Bạch được tôn làm Thi Tiên [Thơ Tiên]. Tiểu sử Vào cuối đời nhà Tùy, một người họ Lý do thiếu nợ phải trốn ra Tây Vực, kết duyên cùng một Man bà [phụ nữ Tây Vực], đến năm Trường An nguyên niên sinh ra Lý Bạch [lúc này nhà Đường đang có sự biến do Võ Tắc Thiên gây ra].

Niên thiếu Lý Bạch ở Lũng Tây, Cam Túc suốt thời thơ ấu, được mẹ dạy cho chữ Tây Vực, cha dạy cho Kinh Thi, Kinh Thư, đến 10 tuổi đã thông thạo và thích làm thơ.

Gia đình giàu có, nên từ nhỏ Lý Bạch đã tha hồ đi đây đi đó cùng cha. Ông tỏ ra rất thích, chí hướng của ông sau này không phải quan trường, mà là thơ túi rượu bầu, thong dong tiêu sái. Đến năm 10 tuổi gia đình chuyển về huyện Chương Minh, Tứ Xuyên. Tại đây Lý Bạch say mê học kiếm thuật, trong một thời gian ngắn, tài múa kiếm và tài thơ của ông được bộc lộ rõ rệt. 15 tuổi ông đã có bài phú ngạo Tư Mã Tương Như, bài thơ gửi Hàn Kinh Châu, khá nổi tiếng. Lúc 16 tuổi danh tiếng đã nổi khắp Tứ Xuyên, thì ông lại phát chán, bèn lên núi Đái Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ.

Ngao du sơn thủy

Làm ẩn sĩ trên núi được 2 năm, ông lại hạ sơn, bắt đầu làm hiệp sĩ, đi lùng hết các thắng cảnh ở Hà Bắc, Giang Tây, Tràng An... Bạn đồng hành với ông lúc này là Đông Nham Tử, nhưng chỉ đi chung được 1 năm. Đến năm 20 tuổi Lý Bạch đã đi khắp nước Thục, ông lại về Tứ Xuyên với gia đình, chuẩn bị tiền đi đường và tiền mua rượu cho cuộc hành trình sắp tới. Ông đến làm dưới trướng của thứ sử Ích Châu Tô Dĩnh, được ông này khen là thiên tài, “có thể sánh với Tư Mã Tương Như”.

Năm 723, Lý Bạch mặc áo trắng, đeo một bầu rượu lớn, chống kiếm lên đường viễn du. Trong khoảng ba năm, ông đã tham quan hầu hết cảnh đẹp Trung Hoa, như là hồ Động Đình, sông Tương, Kim Lăng, Dương Châu, Ngô Việt, Giang Hạ...Đến năm 726, ông đến Vân Mộng kết duyên cùng cháu gái của Hứa tướng công. Thời gian này tài năng thơ bắt đầu nở rộ. Đến 30 tuổi thì tiếng tăm đã vang đến triều đình. Được mời đi làm quan, nhưng ông không nhận.

Năm Khai Nguyên thứ 23 [735], ông đi chơi ở Thái Nguyên, gặp Quách Tử Nghi đang ở tù, ông xin giúp, Quách liền được thả. Ông lại dẫn vợ rong chơi qua nước Tề, Lỗ, rồi định cư ở Nhiệm Thành. Đến đây Lý Bạch lại được Khổng Sào Phủ, Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Đào Cái, Trương Thúc Minh – những ẩn sĩ đương thời – rủ lên núi Tồ Lai thưởng ngoạn, rồi say sưa ở Trúc Khê. Nhóm này được người ta gọi là “Trúc Khê lục dật”.

Vào cung và bị gièm pha Năm 741, Lý Bạch lại một phen từ bỏ gia đình, vợ con, ông đến Hồ Nam rồi Giang Tô, Sơn Đông... đi đến đâu danh tiếng lan ra đến đó.

Năm đầu niên hiệu Thiên Bảo [742], ông đến Cối Kê, cùng đạo sĩ Ngô Quân ở ẩn tại Thiểm Trung. Sau đó cùng bạn về Trường An, ở đây ông gặp thái tử tân khách Hạ Tri Chương, trở nên đôi bạn rượu-thơ thân thiết. Ông được Hạ Tri Chương tiến cử lên vua Đường Minh Hoàng, vua Đường nghe danh đã lâu nên rất thích, vời vào điện Kim Loan giao việc thảo thư từ, sau được phong làm Hàn Lâm, chuyên giữ việc mật. Được vua Đường và Dương Quý Phi yêu thích. Tại đây, cùng với Hạ Tri Chương, Thôi Tông Chi, Vương Tiến, Tô Tần, Trương Húc, Tiêu Toại, Lý Thích Chi hợp thành nhóm “Tửu trung bát tiên”.

Đến năm 745, do lối sống của ông gàn dở bê bối, say xỉn suốt ngày, lại bị Dương Quốc Trung gièm pha nên Dương Quý Phi cũng phát ghét, chỉ trích luôn luôn làm Đường Minh Hoàng khó xử.

Một bài thơ của Lý Bạch

Lý Bạch nhận thấy sự đó, cộng với lòng đam mê du lãm đang trỗi dậy, ông liền từ biệt vua Đường. Vua rất buồn, nhưng cũng chiều theo, lại tặng thêm rất nhiều vàng nhưng thi nhân không nhận, cuối cùng trao cho ông quyền uống rượu miễn phí tại bất cứ quán rượu nào đi qua, tiền rượu sẽ do ngân khố thanh toán.

mẹ dạy chữ Phiên, ông bảo “cũng chẳng khó gì”, liền hôm sau được vua Đường vời vào triều. Lý Bạch không chịu vào, vua liền phong cho chức Học vị tiến sĩ, ông mới mặc áo, đội mão bước vào. Cầm thư Phiên, Lý đọc vanh vách, vua từ đó rất thích ông, không ngờ lại có người thông tuệ như vậy, liền thăng chức cho ông làm Hàn Lâm học sĩ.

Đến khi Vua sai viết thư trả lời bằng tiếng Phiên, Lý Bạch mặt đỏ, liểng xiểng đi đến Cao Lực Sĩ, đưa chân cho y tháo giày, rồi ngoắc Dương Quốc Trung lại mài mực ông mới chịu viết. Hai người này đành phải lúi húi làm theo.

Thời gian trong cung của Lý Bạch cũng có nhiều chuyện được chép lại, đại loại là về tài thơ của Lý Bạch. Như việc Lý Bạch say rượu làm thơ thần tốc thì có rất nhiều. Ngoài ra giai thoại sau đây rất nổi tiếng:

Thời Khai Nguyên, lúc hoa nở đẹp, vua Đường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi ra ngắm hoa, sai nhạc đội ca hát. Lần này vua muốn có lời ca ngợi sắc đẹp của Dương Quý Phi, liền vời Lý Bạch đương say rượu vào đặt cho. Lý Bạch đang say viết liền 3 bài Thanh Bình điệu. Vua và Quý Phi rất thích. Sau này Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ, những người từng bị Lý Bạch làm nhục gièm pha ông với Dương Quý Phi [em gái của Dương Quốc Trung] về bài Thanh Bình Điệu, bài này có đoạn:

Khả liên Phi Yến ỷ tân trang Hai người cho là Lý Bạch sánh ngang Quý Phi với Triệu Phi Yến, một hoàng hậu bị thất sủng. Dương Quý Phi từ đó không ưa Lý Bạch, lại thêm Trương Ký ganh ghét gièm pha, Lý Bạch phải cuốn gói khỏi triều đình.

Cái chết Thời kỳ sau của Lý Bạch ít được chú ý, đến khi Đường Đại Tông – một người yêu thơ Lý Bạch – lên ngôi thì ông đã không còn nữa rồi. Có người bảo ông chết do bệnh, nhưng trong dân gian còn lưu truyền một chuyện đẹp đẽ về cái chết của Lý Bạch:

Tại sông Thái Trạch, huyện Đang Đồ, trong một đêm rằm, Lý Bạch đang say xỉn trên bờ sông, thấy trăng in đáy nước đẹp quá, liền nhảy xuống với bắt mà chết đuối. Nơi đó có một cái đài, người sau đặt tên là Tróc nguyệt đài [Đài bắt trăng]. Chuyện này được Đỗ Phủ, Vương Định Bảo, Hồng Dung Trai ghi lại.

Có nhiều bằng chứng lịch sử nêu rằng Lý Bạch đã tự tử [bài thơ tuyệt mệnh của ông].

Tác phẩm Nhà thơ Bì Nhật Hưu thời vãn Đường nói rằng: “Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến giờ, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì lòng ôm bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch”.

Lý Bạch làm hơn 20 bài thơ cả thảy, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Sau loạn An Lộc Sơn thì mất rất nhiều. Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người ta truyền tụng. Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Hàn Quốc mới gom góp lại tập thơ Lý Bạch, gồm 1800 bài. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan... Khác với Đỗ Phủ, thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ [Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm cổ...], tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp [Cổ phong, Quan san nguyệt...], cảm thông cho người chinh phụ [Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca...], về tình bạn hữu [Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu...], tình trai gái [Oán tình, Xuân tứ...], nhớ quê hương [Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn...]. Nhưng nhiều nhất vẫn là về rượu [Tương Tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, 4 bài nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu...].

  1. Bạch Cư Dị [白居易] [Bó Jūyì] [772-846]: Tự là Lạc Thiên [樂天], hiệu là Hương Sơn cư sĩ là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường.

Tác phẩm nổi tiếng của Bạch Cư Dị ở Việt Nam: Tỳ bà hành, Trường Hận Ca. Bạch Cư Dị để lại khoảng trên 2 bài thơ.

[Chữ Hán: 白居易] [772-846] tự là Lạc Thiên [樂天], hiệu là Hương Sơn cư sĩ là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Tác phẩm nổi tiếng của Bạch Cư Dị ở Việt Nam có lẽ là bài Tỳ bà hành, Trường Hận Ca. Tổ tiên ông là người gốc Thái Nguyên, Sơn Tây, sau di cư tới huyện Vị Nam, Thiểm Tây. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Đối với một số người yêu thơ văn thì người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Mười lăm tuổi ông đã bắt đầu làm thơ, thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tường nỗi vất vả của người lao động.

Năm Trinh Nguyên thứ 16 [năm 800], ông thi đỗ tiến sĩ được bổ làm quan trong triều, giữ chức Tả thập di. Do mâu thuẫn với tể tướng Lý Lâm Phủ, ông chuyển sang làm Hộ Tào tham quân ở Kinh Triệu. Năm Nguyên Hòa thứ 10 [815], do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, nhóm quyền thần cho là ông vượt qua quyền hạn, đày làm tư mã Giang Châu. Giai đoạn tuừ năm 821 tới năm 824 làm thứ sử Hàng Châu, năm 825 làm thứ sử Tô Châu, sau được triệu về kinh làm Thái Tử thiếu phó. Năm Hội Xương thứ 2 [842] về hưu với hàm thượng thư bộ Hình, sau mất tại Hương Sơn, Lạc Dương.

  1. Vương Bột [王勃] [Wángbó] [647–675]: Tự Tử An, người Giáng Châu, Long Môn [ngày nay là Hòa Tân, Sơn Tây]thời nhà Đường.

Vương Bột được xem là một trong “Sơ Đường tứ kiệt” [bốn nhà thơ kiệt xuất giai đoạn đầu của nhà Đường], 3 nhà thơ kia là: Dương Quýnh [杨炯], Lư Chiếu Lân [卢照邻] và Lạc Tân Vương [骆宾王].Tác phẩm nổi tiếng của ông là Đằng Vương Các Tự. Các tác phẩm nổi tiếng của Vương Bột có:

 Hán Thư Chỉ Hà [10 quyển] [汉书指瑕]十卷  Chu Dịch Phát Huy [5 quyển] [周易发挥]五卷  Thứ Luận Ngữ [10 quyển] [次论语]十卷  Chu Trung Toản Tự [5 quyển[舟中纂序]五卷  Thiên Tuế Lịch[千岁历] [王勃] [650–676], tự Tử An, người Long Môn, Giáng Châu [ngày nay là Hà Tân, Sơn Tây] thời nhà Đường.

Vương Bột được xem là một trong “Sơ Đường tứ kiệt” [bốn nhà thơ kiệt xuất giai đoạn đầu của nhà Đường], 3 nhà thơ còn lại là: Dương Quýnh [杨炯], Lư Chiếu Lân [卢照邻] và Lạc Tân Vương [骆宾王].

Sinh mất Về năm sinh của Vương Bột có các diễn giải khác nhau. Một thuyết căn cứ theo Dương Quýnh trong Vương Bột tập tự thì ông mất năm Thượng Nguyên thứ 3 thời Đường Cao Tông khi 28 tuổi, tức năm 676. Suy ra ông sinh năm Trinh Quán thứ 23 thời Đường Thái Tông hay năm 649.

Một thuyết khác căn cứ theo chính lời của Vương Bột trong Xuân tư phú là “Hàm Hanh nhị niên, dư xuân thu nhị thập hữu nhị”. Năm Hàm Hanh thứ 2 là năm 671, như thế suy ra ông sinh năm Vĩnh Huy thứ 1 thời Đường Cao Tông hay năm 650. Hiện nay, đa phần cho rằng ông sinh năm 650 và mất năm 676, hưởng dương 27 tuổi.

Tháng 8 năm 676, trên đường trở về từ chuyến viếng thăm cha mình khi đó đang bị giáng chức làm huyện lệnh tại Giao Chỉ, ông bị chết đuối trên biển. Mộ phần của ông hiện vẫn còn ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, Việt Nam

Tác phẩm Tác phẩm nổi tiếng của ông là Đằng Vương Các Tự. Các tác phẩm nổi tiếng khác của Vương Bột có: Hán Thư Chỉ Hà [10 quyển] [汉书指瑕]十卷 Chu Dịch Phát Huy [5 quyển] [周易发挥]五卷 Thứ Luận Ngữ [10 quyển] [次论语] 十卷 Chu Trung Toản Tự [5 quyển] [舟中纂序]五卷 Thiên Tuế Lịch [千岁历]

  1. Ngô Đạo Tử Ngô Đạo Tử [chữ Hán: 吴道子; 685-758]:

Là họa sĩ lớn của Trung Quốc thời nhà Đường, người Dương Cù thuộc huyện Vũ, Hà Nam, Trung Quốc. Thời trẻ Ngô Đạo Tử mồ côi cha mẹ từ nhỏ,

gia đình nghèo. Ông thông minh hiếu học, theo học những nhà thư pháp nổi tiếng như Trương Túc, Hạ Tri Chương. Quãng thời gian theo học thư pháp đã tạo cơ sở cho việc học và phát triển hội họa của ông sau này.

Đối với hội họa, Ngô Đạo Tử tỏ ra ham thích từ bé. Tới năm 17 tuổi, ông đã giỏi vẽ tranh, nắm vững kỹ xảo cao siêu của hội họa. Do có tài năng, ông được Vĩ Tự Lập, một sủng thần của Đường Trung Tông, đồng thời là người ham mê nghệ thuật, chú ý đến và thu nhận làm tiểu lại. Sự nghiệp Ngao du tự tác Ngô Đạo Tử từng theo Vĩ Tự Lập vào Tứ Xuyên. Tại đây ông đã nổi cảm hứng vẽ tranh. Tranh sơn thủy của ông có tính chân thực, thể hiện phong cách hùng tráng. Ngô Đạo Tử chính là người khai sáng ra sự thay đổi phong cách tranh sơn thủy, gọi là “sơn thủy chi biến”. Vào khoảng niên hiệu Cảnh Long thời Đường Trung Tông [707-709], Ngô Đạo Tử đến Hà Khâu nhận chức Huyện úy, tức là bắt trộm cướp và cai quản tù ngục. Do cách làm việc khoan dung, dân chúng xa gần đều rất khen ngợi. Tuy nhiên, công việc này không hợp với ông nên không lâu sau ông từ chức, về sống ở Lạc Dương. Cũng từ thời gian này, Ngô Đạo Tử sống tự do để thỏa chí làm nghệ thuật. Phật giáo và Đạo giáo thời Đường phát triển mạnh, tại Tràng An và Lạc Dương có nhiều chùa chiền, đạo quán lớn với những bức họa tường của các bậc tiền bối. Đây là điều kiện tốt cho Ngô Đạo Tử quan sát, học tập từ các tác phẩm của các danh họa. Người ảnh hưởng lớn nhất tới ông là họa sĩ nổi tiếng Trương Tăng Dao thời Lương, người không chỉ giỏi vẽ chân dung các nhân vật trong Phật giáo, Đạo giáo mà còn chịu ảnh hưởng của các họa sĩ phương Tây với phong cách

Vẽ “sơ thể” làm hình nổi trên mặt phẳng. Ngô Đạo Tử đã lĩnh hội sâu sắc nghệ thuật này và được người đời gọi là truyền nhân hậu thế của Trương Tăng Dao. Họa sĩ cung đình Tranh Khổng Tử do Ngô Đạo Tử vẽ Ngô Đạo Tử vẽ nhiều tranh tường [bích họa], tên tuổi ông ngày càng nổi, truyền tới kinh thành Tràng An. Đường Huyền Tông nghe tin, bèn triệu ông vào triều. Từ đó Ngô Đạo Tử trở thành họa sĩ cung đình. Đường Huyền Tông ham thích nghệ thuật, trong cung có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc công và họa sĩ. Số họa sĩ trong cung khá nhiều và được ban chức,

Với nhiệm vụ vẽ chân dung các công thần, những cảnh sinh hoạt của vua và các phi tần. Lúc mới vào cung, Ngô Đạo Tử làm chức Cung phụng, sau lên chức Nội giáo bác sĩ có nhiệm vụ dạy các cung nữ học vẽ. Tuy nhiên chức vụ này của ông rất thấp, dưới cả hàm Cửu phẩm. Sau đó Ngô Đạo Tử được phong làm Ninh vương hữu. Ninh vương là anh của Huyền Tông, “hữu” là quan chuyên đi theo hầu, hàm dưới Ngũ phẩm. Một họa sĩ được thăng lên hàm đó thể hiện sự quan tâm của Huyền Tông đối với ông. Ngô Đạo Tử tính tình phóng túng, thích uống rượu để sáng tác. Hòa thượng chùa Bồ Đề tại phường Bình Khang ở kinh thành Tràng An biết vậy bèn mời ông đến uống rượu ngon và vẽ tranh tường tại ngôi chùa mới xây. Đạo Tử thường xuyên theo Huyền Tông đi tuần du bên ngoài. Năm 717, ông theo Huyền Tông đến Lạc Dương. Ông gặp nhà thư pháp Trương Húc và tướng quân Bùi Mân. Bùi Mân nhờ ông vẽ tranh trên tường ở chùa Thiên Cung để giúp mình làm lễ siêu độ cho cha mẹ. Ngô Đạo

khắc họa nhân vật rất tinh tế. Ngô Đạo Tử đã thay đổi phương pháp cân bằng đường nét, sử dụng phương pháp tương phản: nặng - nhẹ, đậm - nhạt thể hiện, gọi là “thuần thái điều”. Nhân dân Trung Quốc rất sùng bái Ngô Đạo Tử, coi ông như thần tiên. Người ta gọi ông là họa thánh [thánh vẽ] và có rất nhiều giai thoại thần kỳ về việc vẽ tranh của ông.

Chủ Đề