So sánh cụ tứ và người đàn bà làng chài

So sánh cụ tứ và người đàn bà làng chài

        Chân dung người phụ nữ Việt Nam với phẩm chất vô cùng cao quý đã đi vào biết bao câu văn, vần thơ. Ta không thể quên hình ảnh bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân( 1962). Và người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Họ bước ra với những cuộc đời rất khác nhưng gặp gỡ ở trái tim với tám chữ vàng: kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang.

       Kim Lân – người “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn ngày trước”. Viết về cuộc sống, số phận, cảnh ngộ của những con người trong những năm xảy ra nạn đói năm Ất Dậu, “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu cho những khám phá của nhà văn với hình ảnh người vợ nhặt với khát vọng sống mãnh liệt. Đến với Nguyễn Minh Châu là đến với người luôn truy tìm “hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người, người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam sau năm 1975”. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được kể lại từ điểm nhìn trần thuật của người nghệ sĩ mang tên Phùng – một nghệ sĩ trên hành trình khai phá mới mẻ của nhà văn về hiện thực và về con người.

       Trước tiên là nhân vật Vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân. Dưới ngòi bút của Kim Lân, chân dung Thị hiện lên như một con ma đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem với “cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”,  không có nổi cái tên mà vỏn vẹn chữ “Thị”. Cô gái đói đến độ phải nhặt đồ rơi vãi, nghe ba câu hò mà vội chạy đến đẩy xe bò. Thị gặp Tràng nhưng không ăn trầu mà ăn bánh đúc rồi quẹt đũa ngang miệng “chà ngon”. Ta chỉ thấy chân dung Thị chao chát, chỏng lỏn. Vậy nhưng qua ngòi bút đầy tài năng của tác giả, người vợ anh Tràng hiện lên có cong cớn, rất cong cớn nhưng không nanh nọc và tính cách ấy phải chăng do dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái ác, cái xấu. Nhân vật Thị hiện lên chua xót hơn khi cuộc hôn nhân cả đời người cũng chỉ bắt đầu bằng vài ba câu tầm phào của Tràng mà khiến người đàn bà quên hết sĩ diện, nết na, đức hạnh để xà xuống ăn hết bát bánh đúc, theo Tràng về làm vợ mà không dò hết ngọn ngành nguồn sông. Chính cái đói đã khiến thân phận con người bọt bèo, rẻ mạt đến vậy.

      Khi gặp Tràng thì đanh đá, chỏng lỏn nhưng khi về làm dâu, Thị lại là người vợ đảm đang, con dâu hiếu thảo. Thị theo Tràng về như đến một chốn có thể nương tựa trong cái đói đang rình rập. Trên con đường về nhà Tràng, cô Thị đanh đá bỗng trở nên dịu dàng, e dè, ngượng ngập. Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt chân đến ngôi nhà mới, dáng điệu khép nép ngồi và câu chào lúng túng…tất cả làm cho Thị có cảm giác của một nàng dâu mới. Từ khi làm vợ, Thị đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ sửa sang cửa nhà, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn loãng thếch, đắng chát. Thị kể về câu chuyện những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Chính nó làm lóe lên ánh sáng tia hy vọng về tương lai mới, mở ra con đường đấu tranh đi đến Cách mạng. Rõ ràng, Thị dần dần nhận được đủ đầy cảm xúc từ chữ “tình”, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo bởi nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.

        Người đàn bà hàng chài coi nỗi khổ vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên. Chị chấp nhận để chồng đánh chỉ xin chồng là “đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy”. Ở đây, lẽ đời đã chiến thắng. Nó là chất xúc tác để Phùng và chánh án Đẩu hiểu về lẽ thiệt hơn ở đời. Thức nhận được ở người phụ nữ ấy chứa đựng mẫu tính sâu xa như một bản năng: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”, những lời lẽ ấy của người đàn bà hàng chài được thốt lên từ một niềm tin đơn giản mà vững chắc vào cái thiên chức mà trời đã giao phó cho để cảm nhận hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống đầy khó khăn. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu cũng khẳng định: gian lao không làm mất đi ở người phụ nữ tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung, vị tha. Và với họ, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên cho dù đây đó vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.

       Rõ ràng, hai nhà văn với hai ngòi bút khác nhau, hai cá tính khác nhau nhưng khi viết về hai người đàn bà trong hai bối cảnh khác nhau đều đặt ngòi bút nơi trái tim để tìm, phát hiện và ngợi ca người phụ nữ bên cạnh số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng. Họ là những người không tên tuổi mà trở thành những khái quát nghệ thuật đặc sắc. Từ vẻ đẹp của họ để thể hiện niềm tin vào phẩm chất của con người dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.

       Leonit Leonop từng nói “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Quả đúng, mỗi nhà văn đã đặt nhân vật của mình trong những hệ quy chiếu khác nhau thể hiện sự sáng tạo và dấu ấn của riêng mình. Nếu Kim Lân chọn bối cảnh nạn đói là tâm điểm nghệ thuật làm đòn bẩy cho  là khát vọng sống mãnh liệt, là những căn tích tốt đẹp bấy lâu bị cái đói làm cho chìm khuất thì Nguyễn Minh Châu lại xây dựng hình tượng người đàn bà trong bối cảnh xã hội sau năm 1975 với vẻ đẹp của nhận thức của sự thấu trải lẽ đời, tình người khi chiến tranh đã đi qua nhưng cái nghèo, cái lạc hậu vẫn chưa hết.

      Như vậy, hai nhà văn đã vô cùng thành công khi xây dựng hình tượng các nhân vật và đặt trái tim nơi ngòi bút để thấu hiểu, chia sẻ và cảm thông cho những số phận bất hạnh trong xã hội. Họ xứng đáng là nhà văn chân chính với những tác phẩm chân chính như Aimatop  từng khẳng định “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.”

Các bài viết liên quan:

  • Soạn bài: Vợ nhặt (Hay nhất)
  • Soạn bài: Vợ nhặt (ngắn nhất)

Đề bài: Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ và người đàn bà làng chài để làm rõ ý kiến: "Cùng yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời nhưng nếu ở bà cụ Tứ ("Vợ nhặt" - Kim Lân) là sự vị tha, bao dung, lạc quan thì ở người đàn bà làng chài ("Chiếc thuyền ngoài xa" - Nguyễn Minh Châu) là sự chịu đựng, hy sinh, nhẫn nhục".

Mục Lục bài viết:
I. Dàn ý chi tiết
  1. Mở bài
  2. Thân bài
  3. Kết bài
II. Bài văn mẫu

I. Dàn ý Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ và người đàn bà làng chài để làm rõ ý kiến 

1. Mở bài

- Sơ lược về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong văn học.
- Dẫn vào ý kiến.

2. Thân bài

a. Cụ Tứ:

- Hoàn cảnh: Già yếu, nghèo khổ, thương con.

- Trước khi biết chuyện Tràng "nhặt" vợ:

+ Dù có nhiều thắc mắc, nhưng vẫn tỏ ra bình tĩnh, không tra hỏi.
+ Cụ thương và hiểu Tràng nên cụ để con tự nói mà không cần phải dò hỏi xét nét, đó là biểu hiện đầu tiên của sự hiền dịu yêu thương dành cho con mình của bà cụ.

- Sau khi biết chuyện:

+ Lòng người mẹ khổ sở hiểu ra bao cớ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho con.+ Xúc động "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt".

+ Lo lắng cho con "biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không".

=> Không hề phản đối cuộc hôn nhân chớp nhoáng của Tràng, thậm chí bà đã ngầm chấp nhận thị làm con dâu, cái khiến bà trăn trở chỉ là gia cảnh khốn khó, bà sợ con khổ, rồi làm khổ cả người khác nữa.

- Bà biết ơn thị, thấu hiểu cho hoàn cảnh của thị, cũng ý thức rõ được hoàn cảnh của con mình, thế nên bà chọn cách tác hợp, với hy vọng về một mối lương duyên tốt đẹp cho con trai => Bao dung
- Bà hiền từ, đối đãi với người con dâu mới một cách khéo léo, không muốn để thị phải buồn lòng, trong lời với hai vợ chồng là lời khuyên lời dạy bảo với một niềm tin, niềm hy vọng vững chắc vào tương lai => Lạc quan.

- Sau đêm tân hôn:

+ Thấy sự chu đáo tươm tất của thị bà lão như trút được gánh nặng trong lòng "cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên".+ Bà cụ kể toàn những chuyện vui, thắp nên niềm tin vào tương lai cho vợ chồng Tràng, nào là nuôi gà, nào là chuyện làm ăn => Lạc quan.

+ Nồi cháo cám => Tính nhân văn sâu sắc, tấm lòng thương con của người mẹ.

b. Người đàn bà làng chài:

- Hoàn cảnh:

+ Xấu xí, hơn 40 tuổi, làm nghề đi biển, cuộc sống lam lũ vất vả.
+ Thường xuyên bị chồng bạo hành, đánh chửi không thương tiếc, nhưng nhất quyết không bỏ chồng.

- Thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời; giàu hy sinh, nhẫn nhục, chịu đựng:

+ Không bỏ chồng vì muốn các con có một gia đình hoàn chỉnh.+ Cần người chèo chống trên thuyền lúc mưa gió+ Cần người lao động để nuôi con.+ Quan niệm truyền thống đàn bà sinh ra là để đẻ và nuôi con lớn, đàn bà trên thuyền sống vì con chứ không vì mình.+ Nhẫn nhục, bao dung vì nghĩ đến những lúc gia đình êm ấm, những lúc các con được ăn no.

+ Lý giải sự thay đổi của chồng là do mình đẻ nhiều, cuộc sống vất vả quá.

3. Kết bài

Nêu cảm nhận.
 

II. Bài văn mẫu Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ và người đàn bà làng chài để làm rõ ý kiến

Người phụ nữ Việt Nam ta từ xưa đến nay vẫn nổi tiếng với nhiều phẩm đạo đức chất vô cùng tốt đẹp, đặc biệt là càng trong những hoàn cảnh khó khăn đọa đày, ta lại càng nhìn rõ những phẩm chất ấy. Trong các tác phẩm văn học xưa và nay cũng không dưới một lần người ta ngấm ngầm hoặc công khai bày tỏ, đề cao phẩm chất của người phụ nữ Việt để thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Đặc biệt là trong các tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội, những năm hoàn cảnh đất nước còn nhiều khắc nghiệt, thì hình ảnh những người đàn bà tảo tần mưa nắng, nhẫn nhục, chịu đựng lại càng hiện lên rõ nét. Tiêu biểu có thể kể đến Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, người mẹ Tà-ôi trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, hay hình ảnh người bà trong Đò lèn của Nguyễn Duy,... cùng vô số những tác phẩm khác nữa. Và trong số những tác phẩm ấy người ta vẫn ấn tượng với hình ảnh người phụ nữ với tình mẫu tử sâu sắc trong hai tác phẩm Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa. Có một nhận xét rất chính xác rằng: "Cùng yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời nhưng nếu ở bà cụ Tứ (Vợ nhặt - Kim Lân) là sự vị tha, bao dung, lạc quan thì ở người đàn bà làng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu) là sự chịu đựng, hy sinh, nhẫn nhục".

Trước hết nói về bà cụ Tứ, là người phụ nữ sinh ra và lớn lên trong buổi đất nước có nhiều biến chuyển, thực dân Pháp xâm lược, chế độ phong kiến tàn lụi thối nát, đặc biệt nhất là đến thuở gần đất xa trời cứ ngỡ là sẽ được an hưởng tuổi già thì phát xít Nhật lại đem đến cái nạn đói khủng khiếp, hành hạ con người ta đến độ khốn khổ. Bà lão là người nghèo khó, chồng cụ có lẽ đã chết từ lâu, vì nạn đói, bệnh tật hay phu dịch gì đó, một mình bà vất vả nuôi lớn Tràng. Tài sản cũng chẳng có gì ngoài căn chòi rách nát, hai mẹ con nương tựa vào nhau qua ngày đoạn tháng. Nhân vật này không xuất hiện ngay từ đầu, bà chỉ bắt đầu có vai sau khi Tràng dẫn thị về nhà làm vợ. Ấn tượng của độc giả về cụ Tứ chính là cái tiếng ho "húng hắng", cái dáng người "lọng khọng" tưởng chừng đã già yếu lắm rồi, tuy nhiên vẫn còn rất minh mẫn khi "vừa đi vừa lẩm bẩm tính gì trong miệng". Chỉ đôi chi tiết ấy thôi người ta cũng đủ biết cụ Tứ là người đàn bà cả đời vất vả nên mới có cái dáng bộ như thế. Cụ Tứ đã sống gần hết đời người, trải qua nhiều gian khó, nên bà yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời sâu sắc. Khi thấy người đàn bà lạ lẫm ngồi trong căn nhà nhỏ bé của mình bà cụ ngạc nhiên lắm, biết bao nhiêu câu hỏi cứ thế tuôn ra trong lòng, nhưng cụ không tỏ ra bối rối mà cụ chỉ quay ra "nhìn con tỏ ý không hiểu". Cụ thương và hiểu Tràng nên cụ để con tự nói mà không cần phải dò hỏi xét nét, đó là biểu hiện đầu tiên của sự hiền dịu yêu thương dành cho con mình của bà cụ. Rồi đến khi cụ biết thị là người vợ mà con mình nhặt về, thì lòng bà lặng lại, bà lão lập tức "hiểu ra bao nhiêu là cớ sự", con trai mình cũng đến tuổi dựng vợ gả chồng, âu cũng là chuyện tất yếu cả. Thế nhưng tấm lòng yêu con của người mẹ cũng từ lúc đó lại diễn ra bao mối lo khác, bà "ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình" cũng là xót xa cho kiếp làm mẹ, nuôi con đến từng đấy tuổi đầu nhưng không có nổi cho con một nhúm trầu cau để hỏi vợ, khiến nó phải tự đưa một người phụ nữ về nhà nhận làm vợ. Bà lão vì thương con mà xúc động "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt", con trai có vợ bà vui một nhưng buồn mười, trước cái cảnh đói kém, mạng người như rơm rác, cứ lâu lâu lại có một ai đó ngã xuống vì đói thì cái bà lo nhiều nhất là "biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không". Như vậy có thể thấy rằng, bà cụ Tứ không hề phản đối cuộc hôn nhân chớp nhoáng của Tràng, thậm chí bà đã ngầm chấp nhận thị làm con dâu, cái khiến bà trăn trở chỉ là gia cảnh khốn khó, bà sợ con khổ, rồi làm khổ cả người khác nữa. Một người mẹ thương con và thấu hiểu lẽ đời là vậy. Và sự thấu suốt ấy còn thể hiện rõ ràng thông qua phân cảnh bà nhìn thị mà nghĩ ngợi "Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con...Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?". Thật tình chẳng mấy người mẹ có thể nghĩ được như bà cụ Tứ, cứ nhìn cái cảnh rách rưới, lại theo không về làm vợ người ta của thị không khéo chắc chẳng ai muốn nhận. Nhưng cụ Tứ lại khác, bà thậm chí biết ơn thị, thấu hiểu cho hoàn cảnh của thị, cũng ý thức rõ được hoàn cảnh của con mình, thế nên bà chọn cách tác hợp, với hy vọng về một mối lương duyên tốt đẹp cho con trai. Bởi lẽ, ngăn cấm chẳng có ý nghĩa gì, thậm chí khiến cả con trai lẫn thị khổ sở. Bà hiền từ, đối đãi với người con dâu mới một cách khéo léo, không muốn để thị phải buồn lòng, trong lời với hai vợ chồng là lời khuyên lời dạy bảo với một niềm tin, niềm hy vọng vững chắc vào tương lai "Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?" khiến lòng đôi tân nhân cũng thêm phần phấn khởi. Mặc dù lòng bà cụ lúc nào cũng vẫn còn nhiều tối tăm, bà nhìn ra "cánh đồng tối", "bóng tối bao trùm lấy đôi mắt", "bà nghĩ đến cuộc đời khổ cực dài đằng đẵng của mình". Trong nỗi lòng thương con vô bờ bến bà chỉ hy vọng rằng vợ chồng Tràng được khấm khá hơn cuộc đời khốn khổ của mình. Nghĩ đến đời mình bà lão lại càng thấu cảm cho cuộc đời thị, bà nhìn thị "lòng đầy thương xót", cố thân mật với con dâu để thị đỡ cảm thấy lạnh lẽo, buồn tủi, trước cảnh cưới xin lạ lùng như này.

Sau đêm tân hôn, cả căn nhà vốn tơi tả, u ám bỗng trở nên có không khí hẳn, thấy sự chu đáo tươm tất của thị bà lão như trút được gánh nặng trong lòng "cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Dẫu bữa cơm có thảm hại chỉ toàn rau chuối, cháo và muối nhưng cả nhà vẫn ăn rất ngon lành, bà cụ kể toàn những chuyện vui, thắp nên niềm tin vào tương lai cho vợ chồng Tràng, nào là nuôi gà, nào là chuyện làm ăn, không khí đầm ấm hẳn lên. Nồi cháo cám của bà cụ Tứ có lẽ chính là chi tiết đắt giá nhất của câu chuyện này, đó là món "chè khoán" mừng cặp vợ chồng mới cưới, thể hiện tấm lòng của bà cụ Tứ. Dẫu cuộc sống có khó khăn, kiệt quệ nhưng bà vẫn cố bòn cho được nồi cháo cám để làm giàu bữa ăn gia đình. Có lẽ rằng bà cụ Tứ thương vợ chồng Tràng không muốn họ phải chịu thiệt khi tân hôn mà vẫn phải ăn rau chuối, cháo kèm muối, nên mới có nồi cháo cám tuy đắng ghét, nghẹn ứ nơi cổ họng nhưng đó chính là tình thương sâu sắc của người mẹ dành cho con. Qua những chi tiết kể trên nhận định về tình thương con của bà cụ Tứ với những nét "vị tha, bao dung, lạc quan" là hoàn toàn chính xác.

Về người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, ta lại thấy một số kiếp khác, một cuộc đời khốn khổ khác. Cách mạng đã thành công, đất nước đã độc lập, không còn nạn đói khủng khiếp những năm 44, 45, thế nhưng số kiếp người phụ nữ vẫn chưa thể khấm khá hơn được. Phải nói rằng người đàn bà trong truyện có một số phận bất hạnh vô cùng, xấu xí, cuộc sống lam lũ vất vả hơn cả nửa đời người để hy sinh cho gia đình, thế nhưng vẫn bị chồng bạo hành không thương tiếc. Cũng như bà cụ Tứ, người đàn bà làng chài cũng yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời sâu sắc nhưng sự yêu thương này ngoài lòng bao dung thì điểm nhấn lại chính là tính hy sinh, nhẫn nhục chịu đựng của người phụ nữ. Cảnh người đàn bà làng chài bị chồng dùng thắt lưng da quất tới tấp, vừa đánh vừa mắng như kẻ thù,thế nhưng nghịch lý "người đàn bà với một vẻ nhẫn nhịn, cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên tiếng, không hề chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn". Điều ấy khiến người đọc có phần sửng sốt và khó hiểu, là chị đau đớn, nhục nhã đến chết lặng, hay chị cố chịu đựng vì điều gì khác? Thậm chí lúc được Phùng giúp ly hôn chị cũng một mực không chịu, chị van xin "quý tòa bắt tội con cũng được, đừng bắt con bỏ nó". Thực kỳ lạ khi trên đời lại có người phụ nữ muốn chung sống với kẻ hành hạ mình không tiếc tay như thế, nhưng rồi qua cuộc nói chuyện với Phùng và Đẩu, ta mới chợt vỡ lẽ ra nhiều điều. Có phải rằng chị không thể chống lại những trận đòn roi hay chị không thể ly hôn đâu, nhưng cuộc đời đâu có đơn giản đến thế, đâu có dễ dàng như cái cách mà Phùng vẫn thường tưởng tượng. Những lời bộc bạch sắc bén của chị đã khiến cả Phùng và Đẩu phải nín lặng, phải đổi cách nghĩ về cuộc đời, chị nói một câu "Là bởi vì các chú không phải đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của một người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông". Hóa ra chị nhẫn nhục, chịu đựng mọi sự bạo hành của chồng mà vẫn không chịu ly hôn là vì gần chục đứa con của mình. Phải nói rằng chẳng có gì có thể thiêng liêng và rộng lớn hơn tình mẹ cả, chị đã nguyện hy sinh cuộc đời, hy sinh sức khỏe, lòng tự trọng để hòng cho những đứa con bé bỏng được khôn lớn trong một gia đình đầy đủ. "Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được", chị cũng tự ý thức cho mình trách nhiệm cao cả của người phụ nữ với hơi hướng rất truyền thống "Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khôn lớn nên phải gánh lấy cái khổ". Có thể nói rằng mỗi câu chữ của người đàn bà làng chài tuy mộc mạc giản đơn vậy, nhưng lại đều có lý lẽ riêng cả, trong đó chứa đựng sự thấu hiểu và từng trải sâu sắc của một người đàn bà đã quá nửa đời người. Là những cái lý mà Đẩu và Phùng không thể nào phản bác, bởi vì nó thật sự đúng, ông bà ta đã nói "Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh" là vậy, đời nay đâu ai có thể giống ai mà phán xét hay thay nhau quyết định. Nhưng cái thấu hiểu của người đàn bà làng chài không chỉ dừng lại ở sự hy sinh, nhẫn nhục và chịu đựng mà còn là tấm lòng bao dung, vị tha vô cùng. Chị lý giải việc lão chồng mình trở nên nóng nảy và cục cằn là bởi chị đẻ nhiều quá, bấy nhiêu miệng ăn khiến cuộc sống khó khăn đè nặng lên vai của người chồng, khiến ông ta trở nên đổi tính. Chị vẫn luôn nghĩ về người chồng đã cứu vớt chị khỏi những tháng ngày tăm tối nhất của cuộc đời, nghĩ về người con trai hiền lành như cục đất độ hơn chục năm về trước. Những ký ức đẹp đẽ và cả lòng biết ơn đã tiếp thêm sức mạnh khiến chị cố gắng trụ vững, nhẫn nhịn để nhà cửa được êm ấm, con cái được ăn no, mặc ấm thì bao nhiêu khổ cực chị cũng chịu được.

Cả bà cụ Tứ và người đàn bà làng chài đều là những hình ảnh đại diện cho một thế hệ phụ nữ Việt Nam ta những năm trước cách mạng và những năm đầu đất nước được độc lập. Ở họ tồn tại những nỗi niềm, những bất hạnh, khốn khổ riêng nhưng lại luôn có những cái chung nhất ấy là tình yêu thương con vô bờ bến, là tấm lòng thấu hiểu lẽ đời, với bà cụ Tứ nổi bật là tấm lòng bao dung, vị tha còn ở người đàn bà làng chài là sự hy sinh, nhẫn nhục vì con cái. Nhưng nói thế không có nghĩa rằng bà cụ Tứ không có sự hy sinh, hay người đàn bà làng chài không có sự bao dung, ở họ đều có tất cả những đặc điểm ấy, chỉ là nó không được bộc lộ rõ nét trong tác phẩm mà thôi.

Bà cụ Tứ trong Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa là những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh đói nghèo, thế nhưng trong bóng tối của đói nghèo, trong nghịch cảnh của số phận ở họ vẫn tỏa sáng những phẩm chất sáng ngời của người phụ nữ Việt Nam. Tìm hiểu cụ thể về những vẻ đẹp này, bên cạnh bài Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ và người đàn bà làng chài để làm rõ ý kiến, các em có thể tham khảo thêm một số Bài văn hay lớp 12 có liên quan như: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, Cảm nhận về chi tiết dòng nước mắt trong Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa, Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Phân tích chi tiết nụ cười của nhân vật Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ

Để hoàn thành bài văn cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ và người đàn bà làng chài để làm rõ ý kiến "Cùng yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời nhưng nếu ở bà cụ Tứ ("Vợ nhặt" - Kim Lân) là sự vị tha, bao dung, lạc quan thì ở người đàn bà làng chài ("Chiếc thuyền ngoài xa" - Nguyễn Minh Châu) là sự chịu đựng, hy sinh, nhẫn nhục", các em hãy cùng chúng tôi tìm hiểu, phân tích truyện ngắn Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa, mà cụ thể là qua hai nhân vật bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài nhé.

Cảm nhận của em về người đàn bà làng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa Dàn ý Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt Nét chính về nhân vật người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa Dàn ý Phân tích người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ Đoạn văn cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn văn sau: Bà lão cúi đầu nín lặng ...... con cái chúng mày về sau