So sánh chủ thể kinh doanh với thương nhân

Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới từ những năm 1986, nền kinh tế của nước ta trở nên đa dạng với nhiều thành phần kinh tế. Kinh tế thị trường phát triển, giao lưu thương mại, mua bán hàng hóa được đẩy mạnh, các chủ thể mua bán hàng hóa cũng được biết đến với những tên gọi khác nhau như “thương nhân”, “doanh nghiệp” và “chủ thể kinh doanh”.

1. Khái niệm “thương nhân”

Về khái niệm “thương nhân”, hiện nay, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005, thương nhân được hiểu là những chủ thể bao gồm, tổ chức kinh tế được thành lập một cách hợp pháp, và những cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. 

Thương nhân thực hiện các hoạt động thương mại theo các hình thức và các phương thức đa dạng trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm trên các địa bàn, các lĩnh vực. Trong đó, “hoạt động thương mại” được hiểu là những hoạt động có tính chất kinh doanh, sinh lợi, bao gồm các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại, và các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi nhuận.

2. Đặc điểm thương nhân

Thứ nhất, các chủ thể pháp luật có thể trở thành hoặc được xem là thương nhân bao gồm cá nhân và tổ chức kinh tế.

Thứ hai, để trở thành hay được xem là thương nhân thì cá nhân hay tổ chức kinh tế phải tiến hành hoạt động thương mại.

Thứ ba, cá nhân hay tổ chức kinh tế được xem là thương nhân chỉ khi tiến hành hoạt động thương mại một cách. Tính độc lập ở đây là độc lập về mặt pháp lý. Điều đó có nghĩa là cá nhân hay tổ chức đó phải tham gia vào hoạt động thương mại, tham gia vào các giao dịch thương mại, với tư cách là chủ thể pháp luật độc lập. Đặc điểm này cho phép loại trừ văn phòng đại diện và chi nhánh khỏi khái niệm thương nhân, bởi vì chúng chỉ là các đơn vị phụ thuộc của thương nhân mà thôi [khoản 6, 7 Điều 3 Luật thương mại 2005].

Thứ tư, các hoạt động thương mại mà cá nhân hay tổ chức đó tiến hành phải có tính thường xuyên. Tính thường xuyên nói chung đòi hỏi hoạt động có tính liên tục trong khoảng thời gian dài có xác định hoặc không xác định. Đối với cá nhân điều đó còn có nghĩa là cá nhân lấy hoạt động thương mại làm nghề nghiệp chính của mình và tạo ra thu nhập chính cho mình. Đối  với tổ chức kinh tế khi tính thường xuyên đã bao hàm trong mục đích thành lập. Yêu cầu về tính thường xuyên dẫn đến hệ qua pháp lý, theo đó nếu thương nhân có ý định tạm ngừng hoạt động trong một khoảng thời gian vượt quá một giới hạn nào đó thì ohải thông báo với các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về việc tạm ngừng hoạt động đó.

Thứ năm, đặc điểm cuối cùng là để trở thành thương nhân thì cá nhân phải đăng ký kinh doanh; còn tổ chức kinh tế thì xuất hiện với tư cách là một chủ thể pháp luật và đồng thời là thương nhân kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh [hoặc các giấy chứng nhận có giá trị tương đương, như Giấy chứng nhận đầu tư khi thành lập tổ chức kinh tế]. Như vậy, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh [nay theo pháp luật doanh nghiệp là giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp] là văn bản khai sinh ra chủ thể pháp luật mới là thương nhân.

3. Phân biệt “thương nhân”, “doanh nghiệp” và “chủ thể kinh doanh”

Trên cơ sở xem xét các khái niệm về “thương nhân”, về “doanh nghiệp” và “chủ thể kinh doanh” được xác định ở trên, có thể phân biệt các chủ thể này trên hai phương diện sau:

+ Điểm giống nhau
Dù là “thương nhân”, “doanh nghiệp” hay “chủ thể kinh doanh” thì đều thực hiện các hoạt động kinh doanh mang tính chất sinh lời, phát sinh lợi nhuận. Trong đó, hoạt động kinh doanh có thể hiểu là việc thực hiện một hoặc một số hoặc toàn bộ công đoạn trong quá trình từ đầu tư, sản xuất, đến tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trên thị trường hoặc thực hiện việc cung ứng dịch vụ theo nhu cầu nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận [căn cứ khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014].

Dù là cá nhân, hợp tác xã, hộ gia đình, hay tổ chức kinh tế, dù được xác định là “thương nhân”, “doanh nghiệp”, hay “một chủ thể kinh doanh” thì mục đích cuối cùng đều là thực hiện các hoạt động sinh lời trong phạm vi mà pháp luật cho phép và điều chỉnh.

+ Điểm khác nhau
Qua phân tích nội dung khái niệm, có thể thấy, giữa các đối tượng “thương nhân”, “doanh nghiệp” và “hộ kinh doanh cá thể” không chỉ giống nhau mà có sự phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở những điểm khác biệt. Cụ thể như sau:

– Mọi “doanh nghiệp” được thành lập hợp pháp đều được xác định là “thương nhân”. Bởi doanh nghiệp được xác định là một trong những tổ chức kinh tế [theo khoản 16 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014], có tài sản, có trụ sở giao dịch, và được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải mọi thương nhân đều là doanh nghiệp.

Bởi căn cứ theo khái niệm về “thương nhân” được quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005, thì khái niệm “thương nhân” rộng hơn rất nhiều, nên sẽ có một số đối tượng là “thương nhân” nhưng không được xác định là “doanh nghiệp” như hộ kinh doanh, hợp tác xã, mặc dù đây cũng là những tổ chức kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, thực hiện hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh.

Trường hợp này, hộ kinh doanh, hợp tác xã thì không được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014. Ngoài ra, khái niệm “thương nhân” còn bao gồm những cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, và có đăng ký kinh doanh, chứ không chỉ bao gồm doanh nghiệp, nên “thương nhân” được hiểu theo nghĩa rộng hơn.

– Cả hai đối tượng “thương nhân”, hay “doanh nghiệp” đều được xác định là “chủ thể kinh doanh”, bởi trên cơ sở phân tích khái niệm “chủ thể kinh doanh” thì “thương nhân”. và “doanh nghiệp” đều là những chủ thể có thực hiện hoạt động kinh doanh, và thực hiện việc thu lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh. Nhưng không phải mọi “chủ thể kinh doanh” đều được xác định là “thương nhân” hay “doanh nghiệp”. Bởi như đã phân tích, chủ thể kinh doanh sẽ bao gồm bất kỳ ai, bất kỳ đối tượng nào, là cá nhân, là tổ chức, là hợp tác xã, là hộ gia đình… thực hiện các hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận.

Điều đó có nghĩa, một số “chủ thể kinh doanh” nhưng không được xác định là “doanh nghiệp” như hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã, cá nhân kinh doanh cá thể… Đồng thời một số “chủ thể kinh doanh” nhưng không được xác định là “thương nhân” như cá nhân kinh doanh, hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không đăng ký kinh doanh và không được gọi là “thương nhân”, có thể ví dụ như những người bán hàng rong, buôn bán vặt, bán quà vặt, buôn chuyến, đánh giày, bán vé số, sửa chữa xe.. [Theo nội dung Nghị định 39/2007/NĐ-CP]. Cho nên có thể thấy, khái niệm “chủ thể kinh doanh” rộng hơn rất nhiều so với khái niệm “thương nhân” hay “doanh nghiệp”, vừa có sự tương đồng nhưng cũng có sự khác biệt.

– Ngoài ra, ba chủ thể “thương nhân”, “doanh nghiệp”, “chủ thể kinh doanh” còn khác nhau về văn bản điều chỉnh. Nếu như “doanh nghiệp” được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản pháp luật về doanh nghiệp, thì “thương nhân” được điều chỉnh bởi Luật thương mại năm 2005, Luật doanh nghiệp năm 2014, và các văn bản khác về hoạt động kinh doanh thương mại, cũng như các văn bản điều chỉnh các chủ thể được xác định là “thương nhân”.

Còn đối tượng “chủ thể kinh doanh” thì được nhắc đến trong các văn bản điều chỉnh về hoạt động kinh doanh, thương mại, nhưng không được định nghĩa cụ thể bởi bất cứ văn bản pháp luật nào, bởi các đối tượng được xác định là chủ thể kinh doanh rất đa dạng, và đã được điều chỉnh bởi các văn bản khác.

– Đồng thời, tùy vào từng chủ thể khác nhau, là thương nhân, là doanh nghiệp, hay chủ thể kinh doanh khác mà thủ tục đăng ký thành lập, hay cơ quan quản lý hoạt động kinh doanh của những chủ thể này cũng sẽ khác nhau.

Như vậy, qua sự phân tích ở trên, có thể thấy, mỗi khái niệm “thương nhân”, “doanh nghiệp” hay chủ thể kinh doanh” đều là những khái niệm chỉ các đối tượng thực hiện hoạt động kinh doanh, tuy nhiên, được tiếp cận trên một phạm vi và một nhóm đối tượng nhất định có chung các đặc điểm. Trong đó, khái niệm “chủ thể kinh doanh” là khái niệm có nội dung rộng nhất, bao hàm cả khái niệm “thương nhân” và “doanh nghiệp”.

Còn khái niệm “thương nhân” thì trong ý nghĩa của khái niệm cũng như phạm vi chủ thể mà khái niệm “thương nhân” xác định thì đã bao gồm cả chủ thể là “doanh nghiệp”. Đây là trường hợp mở rộng dần về mặt khái niệm từ “doanh nghiệp” đến “thương nhân” đến “chủ thể kinh doanh”. Mỗi một loại chủ thể đều được dùng để điều chỉnh những đối tượng trên những cơ sở pháp lý và đặc điểm đặc trưng của từng nhóm đối tượng, nhằm phân loại và đưa ra những sự điều chỉnh phù hợp đối với quan hệ kinh doanh thương mại.

Xem thêm:

>>> Mẫu quy chế tài chính công ty

>>> Đất quy hoạch là gì? Và có nên mua đất ở trong vùng quy hoạch không?

—————————————————————————–

Để được tư vấn trực tiếp, Quý khách hàng vui lòng liên hệ:

CÔNG TY TNHH TƯ VẤN PHÁP LUẬT THIÊN MINH

Add: Tòa AQUA 1 109OT12B Vinhomes Golden River, số 2 Tôn Đức Thắng, Phường Bến Nghé, Quận 1

Tel: 0839 400 004 – 0836 400 004

www.luatthienminh.vn

Trân trọng !

Thương nhân là gì? Thương nhân có những đặc điểm nào? Bài viết dưới đây LawKey sẽ làm rõ vấn đề này như sau theo quy định của pháp luật hiện hành.

1. Thương nhân là gì?

Theo Điều 6 Luật thương mại 2005, thương nhân được quy định như sau:

– Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.

– Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm.

– Quyền hoạt động thương mại hợp pháp của thương nhân được Nhà nước bảo hộ.

– Nhà nước thực hiện độc quyền Nhà nước có thời hạn về hoạt động thương mại đối với một số hàng hóa, dịch vụ hoặc tại một số địa bàn để bảo đảm lợi ích quốc gia. Chính phủ quy định cụ thể danh mục hàng hóa, dịch vụ, địa bàn độc quyền Nhà nước.

2. Đặc điểm của thương nhân

Từ khái niệm thương nhân nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm của thương nhân như sau: 

a]  Về chủ thể 

Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.

+ Đối với cá nhân [công dân Việt Nam và công dân nước ngoài]: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có đủ điều kiện kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật mới có thể trở thành thương nhân.

+ Đối với tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật.

b] Thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại

Cá nhân, tổ chức kinh tế phải tiến hành hoạt động thương mại, tức là thực hiện hành vi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại hay xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.

c] Thương nhân tiến hành hoạt động thương mại một cách một cách độc lập về mặt pháp lý

Điều này có nghĩa là, cá nhân, tổ chức đó phải tham gia vào hoạt động thương mại hoặc giao dịch thương mại với tư cách là chủ thể pháp luật độc lập, có khả năng bằng hành vi của mình, nhân danh chính mình tham gia các quan hệ pháp luật và tự chịu trách nhiệm đối với các hành vi đó. 

Chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp không phải là thương nhân vì không có khả năng tham gia và chịu trách nhiệm độc lập trong các quan hệ pháp luật mà chỉ là đơn vị phụ thuộc của thương nhân.

d] Thương nhân phải hoạt động thương mại thường xuyên, mang tính chất nghề nghiệp 

Các hoạt động thương mại phải được cá nhân, tổ chức tiến hành thường xuyên. Tức là hoạt động thương mại diễn ra liên tục, không bị gián đoạn hay chỉ hoạt động tạm thời, nguồn thu nhập chính là từ lợi nhuận của hoạt động thương mại.

e] Thương nhân phải có đăng ký kinh doanh

Tính chất hợp pháp của thương nhân được thể hiện qua hành vi đã hoàn tất thủ tục hành chính liên quan đến việc ra đời của chủ thể hoạt động thương mại. Đó là khi thực hiện xong thủ tục đăng ký kinh doanh và được cấp:

+ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp [đối với doanh nghiệp].

+ Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh [đối với cá nhân, nhóm kinh doanh, gia đình có hoạt động thương mại thường xuyên].

+ Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã [đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã].

Trên đây là nội dung bài viết “Thương nhân là gì? Đặc điểm của thương nhân”, LawKey gửi đến bạn đọc, nếu có thắc mắc liên hệ LawKey để được giải đáp. 

Video liên quan

Chủ Đề