So sánh các phương pháp giải quyết tranh chấp

      Trong quá trình tiến hành hoạt động thương mại, các bên tham gia (chủ yếu là các thương nhân – tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh) khó tránh khỏi những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ cụ thể. Khi có tranh chấp xảy ra, để đảm bảo quyền lợi của mình các bên đều muốn giải quyết tranh chấp nhanh chóng, thuận lợi, có hiệu quả và không ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh của mình. Theo quy định tại Điều 317 Luật Thương mại năm 2005, các hình thức giải quyết tranh chấp, là:

  •  Thương lượng giữa các bên.
  • Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.
  • Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.

      Có thể thấy, đây cũng là các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại phổ biến ở các nước trên thế giới. Tranh chấp về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh cũng là một trong những vấn đề quan trọng nằm trong các tranh chấp thương mại. Vì vậy, để giải quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh, các bên trong quan hệ hợp đồng cũng có thể áp dụng 4 hình thức giải quyết tranh chấp, bao gồm: thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án. Ở mỗi hình thức giải quyết tranh chấp đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Với đề tài: “Ưu điểm và hạn chế của các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh”.

Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Bộ luật dân sự 2015
  • Bộ luật tố tụng dân sự 2015
  • Luật thương mại 2005
  • Luật trọng tài thương mại 2010
  • Luật doanh nghiệp 2014
  • Giáo trình luật thương mại tập 2 – Trường đại học Luật Hà nội, NXB. Công an nhân dân

Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động kinh doanh bằng thương lượng

Khái niệm hình thức giải quyết bằng thương lượng

      Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, dàn xếp để tháo gỡ những bất đồng phát sinh nhằm loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự giúp hay phán quyết của bên thứ ba. Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất, thông dụng và phổ biến nhất được các bên tranh chấp áp dụng rộng rãi để giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, đặc biệt là trong hợp đồng trong kinh doanh. Phương thức giải quyết tranh chấp này thường được lựa chọn mỗi khi có tranh chấp phát sinh bởi sự đơn giản của phương thức thực hiện, ít tốn kém, lại không bị ràng buộc bởi những thủ tục pháp lý phức tạp, uy tín cũng như bí mật trong kinh doanh được bảo đảm tối đa và mức độ thiệt hại đến mối quan hệ hợp tác giữa các bên cũng thấp, thậm chí còn tăng cường sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau sau khi thương lượng thành công

Đặc điểm hình thức giải quyết bằng thương lượng

      Hình thức giải quyết tranh chấp này có đặc điểm sau:

      Các bên tranh chấp sẽ tự thỏa thuận để tìm kiếm giải pháp trên tinh thần tự nguyện, thiện chí, hợp tác mà không có sự tham gia của bất kỳ bên thứ ba nào. Khi tiến hành thương lượng, các bên có thể trình bày quan niệm của mình, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tranh chấp và tìm kiếm giải pháp chấm dứt xung đột. Tuy nhiên, cũng có thể xảy ra trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận nào nhằm giải quyết tranh chấp đã phát sinh mà có thể làm cho chũng trở nên trầm trọng hơn hoặc làm phát sinh nhiều tranh chấp khác. Trong những trường hợp thương lượng không thành công như vậy, các bên có thể tiếp tục lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp khác phù hợp để giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ.

      Quá trình thương lượng giữa các bên cũng không chịu sự ràng buộc của bất kì nguyên tắc pháp lý hay những quy định mang tính khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Pháp luật của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mà không có quy định nào chi phối đến cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.

      Các bên tự nguyện thi hành phương án giải quyết bất đồng đã lựa chọn. Đây vừa là ưu điểm vữa là hạn chế của phương thức giải quyết tranh chấp này. Ưu điểm ở chỗ các bên tự nguyện và tự mình đạt được thỏa thuận về phương án giải quyết tranh chấp nên cũng dễ dàng tự mình đạt được thỏa thuận về phương án đó. Tuy nhiên, việc thực hiện két quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện, hợp tác và thiện chí của các bên. Mặc dù kết quả thương lượng thường được ghi nhận bằng văn bản với tính chất như một thỏa thuận hợp pháp về giải quyết tranh chấp đã phát sinh  nhưng thỏa thuận đó không có giá trị bắt buộc thi hành trong trường hợp một bên không tự nguyện thực hiện những diều khoản đã cam kết trong thỏa thuận. Khi đó tính tự nguyện thi hành của phương án giải quyết tranh chấp mà không có sự hỗ trợ của bê thứ ba có quyền lực pháp định sẽ trở thành hạn chế của phương thức giải quyết tranh chấp này.

Ưu điểm của hình thức giải quyết bằng thương lượng

       Đây là hình thức ra đời rất sớm và thường được các thương nhân lựa chọn  vì những mặt ưu điểm của nó. Ưu điểm nổi bật của phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng là sự thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém về thời gian, về tiền bạc. Mặt khác, giải quyết tranh chấp bằng thương lượng còn bảo vệ được uy tín cho các bên tranh chấp cũng như bí mật kinh doanh của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh doanh hơn ai hết tự biết bảo vệ quyền lợi của bản thân mình, hiểu rõ quá trình đàm phán, thương lượng dễ hiểu và cảm thông với nhau hơn để có thể thỏa thuận được các giải pháp tối ưu theo đúng nguyện vọng của mỗi bên mà không phải cơ quan tài phán nào cũng có thể làm được. Bởi vậy, nếu thương lượng thành công không những các bên đã loại bỏ được những bất đồng phát sinh mà mức độ phương hại đến mối quan hệ kinh doanh đến các bên tranh chấp cũng thấp, tăng cường sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau trong tương lai.

Hạn chế hình thức giải quyết bằng thương lượng

      Khi một hoặc hai bên không có thái độ nỗ lực hợp tác, thiếu sự thiện chí, trung thực trong quá trình thương lượng thì khả năng thành công là rất mong manh, kết quả thương lượng thường bế tắc. Nếu có bên muốn dùng hình thức thương lượng để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ thì thương lượng chỉ làm tốn kém và kéo dài thời gian hơn.

      Hình thức giải quyết khép kín, không công khai có khi lại nảy sinh những tiêu cực, trái pháp luật.

      Kết quả thương lượng không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lí mang tính bắt buộc. Do vậy, dù các bên có đạt được thỏa thuận để giải quyết vụ tranh chấp thì việc thực thi kết quả thương lượng cũng vẫn phụ thuộc vào sự tự nguyện của bên phải thi hành.

      Mặt khác, pháp luật điều chỉnh giai đoạn thương lượng này chưa rõ, hiệu lực của thỏa thuận đôi bên có hiệu lực đến đâu, chế tài ra sao đối với một bên không chấp hành thỏa thuận lúc thương lượng, thương lượng này có được Tòa án công nhận hay không…cần phải làm đầy đủ các quy định như thế thì hình thức thương lượng mới có tác dụng, hiệu quả. Những hạn chế này của thương lượng dễ  bị lạm dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại. Nhiều trường hợp vì thiếu sự thiện chí, hợp tác trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp mà một bên đã tìm mọi cách trì hoãn quá trình thương lượng nhằm kéo dài vụ tranh chấp, nhất là khi thời hiệu khởi kiện không còn. Bởi vậy, các bên tranh chấp thường phải lưu ý, cân nhắc đến yếu tố này trước hoặc trong khi tiến hành thương lượng để có giải pháp lựa chọn hợp lí trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại.

Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh

Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động kinh doanh bằng hòa giải

Khái niệm

      Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua sự tham gia của bên thứ ba, đóng vai trò trung gian để hỗ trợ hoặc thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm chấm dứt xung đột hoặc bất hòa… Bên trung gian đóng vai trò hỗ trợ đôi bên đi đến giải pháp có lợi nhất cho đôi bên, có khi bên trung gian hòa giải thuyết phục đôi bên chấp nhận giải pháp do họ đề ra, chấm dứt xung đột.

      Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.

Đặc điểm

      Hình thức giải quyết tranh chấp này có đặc điểm sau:

      Phương thức hòa giải khác thương lượng ở chỗ có sự tham gia của nhân tố trung gian. Người trung gian này không có vai trò quyết định trong việc giải quyết tranh chấp mà chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ cho các bên trong việc tìm ra giải pháp tốt nhất để giải quyết tranh chấp, còn việc giải quyết tranh chấp vẫn là do các bên quyết định.

      Tuy cùng có sự xuất hiện của người thứ ba vào quá trình giải quyết tranh chấp nhưng hòa giải khác với giải quyết tranh chấp tại trọng tài hay tòa án bởi vai trò của người thứ ba. Trọng tài hay tòa án với tư cách người thứ ba tham gia giải quyết vụ tranh chấp lại có quyền ra phán quyết để ràng buộc các bên tranh chấp.

      Hoà giải viên đương nhiên phải là người không có quyền lợi liên quan đến vụ tranh chấp và phải hoàn toàn trung lập. Tính trung lập của hoà giải viên tạo nên sự tin  cậy của các bên tranh chấp khi yêu cầu hoà giải bất đồng của mình.
Hòa giải cũng không chịu sự chi phối của bất kỳ một thủ tục tố tụng pháp lý nào mà do các bên tranh chấp tự quyết định. Kết quả của quá trình hòa giải thành cũng chỉ là sự thỏa thuận của các bên có tranh chấp và việc thực hiện thỏa thuận này cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên mà không có bất kỳ một quyết định pháp lý nào.

      Bên trung gian hòa giải có thể là cá nhân, là tổ chức, là cơ quan. Đây là hòa giải ngoài tố tụng nên pháp luật cũng không khẳng định cá nhân nào, tổ chức nào, cơ quan nào được làm trung gian hòa giải, mà đây là sự thống nhất đôi bên tranh chấp lựa chọn trung gian hòa giải.

      Cũng như thương lượng, hòa giải là giải pháp tự nguyện, tùy thuộc vào sự lựa chọn của các bên tham gia tranh chấp. Tuy nhiên, thương lượng là hình thức tự hòa giải còn hòa giải là hình thức có sự tham gia của người thứ ba vào quá trình giải quyết. Đây là điểm khác biệt quan trọng nhất giữa hai hình thức giải quyết tranh chấp này. Dù vậy, sự giống nhau của hai giai đoạn này là cách thức giải quyết tranh chấp là do chính đôi bên thống nhất ý chí, người thứ ba có mặt là để hỗ trợ, để phân tích, để đối chiếu cho đôi bên hiểu rõ. Về mặt nguyên tắc, bên thứ ba đứng làm trung gian hòa giải không có quyền quyết định mà chỉ sử dụng kỹ năng và áp dụng các biện pháp mang tính kỹ thuật để giúp các bên đạt được giải pháp trung hòa, còn giải pháp có đạt được hay không vẫn là sự tự định đoạt của đôi bên.

Ưu điểm

      Ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải giống như hình thức thương lượng bởi tính đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, sự linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Đây là hình thức giải quyết tranh chấp rất có hiệu quả, được giới kinh doanh ưa chuộng, giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp thương mại ở các quốc gia khác.

      Bên cạnh những ưu điểm chung, hòa giải còn có ưu điểm vượt trội được mang lại bở sự tham gia của người thứ ba trong quá trình giải quyết tranh chấp mà bản thân phương thức thương lượng không thể có được. Người thứ ba được các bên chọn làm trung gian hòa giải thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực và vấn đề đang tranh chấp. Khi hiểu rõ được nguyên nhân, hoàn cảnh phát sinh mâu thuẫn cũng như quan điểm, nhận thức của mỗi bên, họ sẽ biết cách làm cho ý chí các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để loại trừ tranh chấp. Vì vậy, trong những trường hợp kinh nghiệm và sự hiểu biết của các bên tranh chấp còn nhiều hạn chế, giải quyết tranh chấp bằng thương lượn sẽ khó có khả năng đạt kết quả nhưng khi có sự can thiệp của người thứ ba làm trung gian hòa giải thì cơ hội thành công sẽ đạt cao hơn.

      Ngoài ra, kết quả hòa giải được ghi nhận và chứng kiến bởi người thứ ba nên mức độ tôn trọng và tự nguyện tuân thủ các cam kết đã đạt được trong quá trình hòa giải giữa các bên cũng cao hơn so với phương thức thương lượng.

Hạn chế

      Hiện nay, chúng ta vẫn chưa có những văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề này như vai trò, trách nhiệm của người trung gian hòa giải, thủ tục, hình thức hòa giải, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hòa giải, hiệu lực của thỏa thuận khi hòa giải… chính vì thiếu những cơ sở pháp lý của hình thức này, nên trung gian hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại vẫn còn tùy thuộc lớn vào thiện chí đôi bên tranh chấp. Và thực tế cho thấy, kết quả hòa giải chủ yếu phụ thuộc vào hai yếu tố:

      Thiện chí giữa các bên tham gia tranh chấp, nhằm mềm hóa các xung đột với mong muốn tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác, làm ăn lâu dài.

      Uy tín, kinh nghiệm và kỹ năng của người đứng ra làm trung gian hòa giải.

Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động kinh doanh tại Trọng tài

Khái niệm

      Trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận đưa những tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc ủy ban trọng tài để giải quyết và trọng tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp. Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động kinh doanh bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là một bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt các xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh chấp phải thực hiện.

      Tại khoản 1 điều 3 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 quy định: “Trọng tài Thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo qui định của Luật Trọng tài Thương mại”.

      Như vậy, ta có thể hiểu: Trọng tài là hình thức giải quyết những tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, được thực hiện bởi một bên thứ ba độc lập có thể là Hội đồng trọng tài hoặc một số trọng tài viên theo yêu cầu của các bên tranh chấp. Bên thứ ba giải quyết tranh chấp bằng việc đưa ra một phán quyết. Phán quyết này có hiệu lực ràng buộc các bên tranh chấp và nếu các bên không tự nguyện thi hành sẽ bị cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước.

Ưu điểm

      Trọng tài tôn trọng ý chí thỏa thuận của hai bên tranh chấp

      Theo quy định tại điều 38 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 thì trọng tài phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về địa điểm giải quyết tranh chấp, địa điểm tiến hành phiên họp. Đồng thời Trọng tài cũng phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về thời hạn tố tụng trừ trường hợp quy tắc của trung tâm trọng tài có quy định. Việc trọng tài tiến hành thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên có thể dẫn đến hậu quả phán quyết trọng tài bị hủy được qui định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010, trừ trường hợp bên đó mất quyền phản đối theo qui định tại Điều 13 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010.

      Trung tâm Trọng Tài và Trọng tài viên do các bên tranh chấp lựa chọn và trọng tài viên được lựa chọn sẽ bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Do vậy các bên có cơ hội lựa chọn những trọng tài viên là chuyên gia có trình độ chuyên môn sâu và kinh nghiệm dày dạn trong các lĩnh vực đặc thù như Xây dựng, Hàng hải, Thanh toán quốc tế, Sở hữu trí tuệ, Bảo hiểm, Đầu tư v.v. Trong khi tại tòa án, Thẩm phán do Tòa chỉ định và thường không phải là chuyên gia trong các lĩnh vực có tính chuyên môn cao và đặc thù.

      Ngoài ra, nếu tranh chấp có yếu tố quốc tế, thì các bên có quyền thoả thuận chọn tổ chức trọng tài, địa điểm, tiếng dùng trong xét xử và luật áp dụng . Trong khi toà án Việt Nam chỉ có thể xét xử theo tiếng Việt và luật Việt Nam.

      Thủ tục nhanh chóng, linh hoạt

      Phán quyết của trọng tài là quyết định chung thẩm, trọng tài chỉ xét xử một lần và đưa ra quyết định có hiệu lực ngay. Đây là đặc điểm dùng để phân biệt giữa phương thức Trọng tài Thương mại và Tòa án. Trong phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, quyết định cuối cùng của Hội đồng xét xử còn có thể bị kháng cáo, kháng nghị lên Tòa án cấp trên. Tòa án có nhiều cấp xét xử, từ sơ thẩm đến phúc thẩm, trong một số trường hợp còn có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc xét xử qua nhiều cấp như vậy trong phương thức Tòa án cũng tạo nên một hạn chế nhất định cho các nhà kinh doanh đó là đôi khi có thể dẫn đến kéo dài thời gian xét xử, thời gian thi hành án, đây có thể là điều mà các nhà kinh doanh không mong muốn.

      Quy trình của tố tụng Trọng Tài cũng linh hoạt cho thời gian và lịch làm việc của các bên và năng động hơn so với toà án do trọng tài chỉ chịu sự điều chỉnh của Quy Định của từng Trung Tâm Trọng Tài và Luật Trọng Tại Thương Mại 2010.

      Trong thủ tục trọng tài, tính mềm dẻo, linh hoạt thể hiện rất rõ ở mỗi giai đoạn, thể hiện tính thuận tiện, dễ dàng tiến hành theo ý chí của các bên tranh chấp. Ví dụ như: khi đơn khởi kiện được nhận, các bên tranh chấp đều có quyền lựa chọn Trọng tài viên theo sự tín nhiệm của mình, lựa chọn hoặc thỏa thuận địa điểm giải quyết, đây là ưu điểm linh hoạt hơn trong phương thức trọng tài với Tòa án. Ngoài ra, Trọng tài Thương mại còn khác ở phương thức Tòa án về mặt điều kiện khởi kiện hoặc trong nguyên tắc xét xử tập thể của Tòa án.

       Bảo mật thông tin

      Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 thì giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Khác với nguyên tắc tố tụng của Tòa án là xét xử công khai được qui định tại Điều 15 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Như vậy, tất cả bí mật thông tin của các bên được giữ kín trong cả quá trình giải quyết, ngay cả khi có phán quyết cuối cùng cũng không được công khai nếu như không có yêu cầu của các bên. Đây được xem là một ưu điểm lớn của phương thức Trọng tài, góp phần đáp ứng như mong muốn của các nhà kinh doanh khi muốn giữ bí mật thông tin hoặc uy tín của doanh nghiệp mình. Trong tố tụng Tòa án, hầu như các phiên xét xử đều công khai, hội đồng xét xử ra bản án, quyết định cũng phải công khai trước công chúng, tối kỵ đặc biệt khi có sự tham gia của truyền thông và người dân và khi có liên quan tới các thông tin mật của doanh nghiệp. Việc bảo đảm bí mật của trọng tài cũng sẽ tránh cho các bên nguy cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm ăn vốn có, trong khi đó việc xét xử công khai tại toà thường làm cho các bên rơi vào thế đối đầu nhau và một bên được coi như là người chiến thắng còn bên kia là thua cuộc.

    Cơ quan trọng tài trung lập, chuyên môn trọng tài viên cao

      Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, là cơ quan tư pháp trong hệ thống bộ máy nhà nước ta, Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước để xét xử, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Tòa án hoạt động vì mục đích duy trì, ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo Hiến pháp. Bên cạnh đó, Trọng tài Thương mại lại là cơ quan mang tính chất phi chính phủ, không nằm trong bộ máy nhà nước và hoạt động phi lợi nhuận. Các trung tâm trọng tài không phải là một cơ quan xét xử của Nhà nước mà là một tổ chức xã hội, nghề nghiệp. Luật trọng tài thương mại vẫn giữ lại hầu hết các qui định về Trọng tài viên. Theo đó, chúng ta có thể hiểu rằng “Trọng tài viên là người được các bên lựa chọn hoặc được Trung tâm trọng tài hoặc Tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp theo Luật Trọng tài Thương mại năm 2010”. Để trở thành Trọng tài viên thì mỗi cá nhân phải đáp ứng được các tiêu chuẩn, điều kiện, quyền và nghĩa vụ mà Luật Trọng tài Thương mại qui định.

      Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp  cho đến tháng 08 năm 2013 trên cả nước có 288 trọng tài viên  trong tổng số 7 trung tâm trọng tài hoạt động theo Luật Trọng tài Thương mại năm 2010. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung nhiều trung tâm nhất với 4 trung tâm trọng tài đó là Trung tâm Trọng tài Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (TRANCENT); Trung tâm trọng tài quốc tế Thái Bình Dương (PIAC); Trung tâm Trọng tài Thương mại Tài chính Ngân hàng Việt Nam (VIFIBAR); Trung tâm Trọng tài Thương mại Tài chính (FCCA) chiếm gần 2/3 tổng số trọng tài viên được tập trung tại đây. Tiếp theo sau đó là Hà Nội với 02 trung tâm là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài thương mại Á Châu (ACIAC). Cần Thơ với 01 trung tâm đó là Trung tâm trọng tài thương mại Cần Thơ (CCAC). Trong tổng số 288 trọng tài viên của 07 trung tâm thì có 18 trọng tài viên có quốc tịch nước ngoài chủ yếu đến từ các quốc gia Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Singapore, Hàn Quốc với trình độ chuyên môn khá cao. Nhìn chung đội ngũ trọng tài viên của Việt Nam hiện nay cũng tương đối tuy nhiên cũng còn rất thấp so với một số nước trong khu vực và trên thế giới hiện nay. Trình độ chuyên môn của trọng tài viên ngày càng được nâng cao và trong đó phải kể đến là sự có mặt của nhiều trọng tài viên đến từ một số quốc gia có nên kinh tế phát triển hàng đầu thế giới trong thời gian vừa qua. Với số lượng tăng thêm như thế này sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của Doanh nghiệp, xã hội đối với hoạt động này.

      Phán quyết của trọng tài được công nhận, thi hành phán quyết trọng tài

     Năm 1995, Việt Nam gia nhập Công ước New York về việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài. Việc gia nhập công ước nghĩa là bất kỳ phán quyết trọng tài nào tại bất kỳ nước nào là thành viên công ước mà có một bên của phán quyết ở Việt Nam hoặc tài sản ở Việt Nam thì đều có thể được Nhà nước Việt Nam công nhận và bảo hộ thi hành. Ngược lại, bất kỳ phán quyết nào của trọng tài Việt Nam cũng có thể được công nhận và cho thi hành ở bất kỳ nước thành viên nào của công ước.

      Có thể nói việc giải thể trọng tài kinh tế nhà nước, thành lập các trung tâm trọng tài thương mại độc lập năm 1993, 1994, và tham gia Công ước New York đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng khi Nhà nước trả trọng tài thương mại về đúng bản chất và chức năng của nó, đánh dấu sự cải thiện đáng kể môi trường pháp lý nhằm tạo thuận lợi trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.

         Phán quyết của trọng tài Thương mại là chung thẩm và có hiệu lực thi hành ngay được quy định tại khoản 5 Điều 61 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 vì vậy, vụ việc đã được trọng tài giải quyết thì không bị xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án. Thủ tục thi hành phán quyết Trọng tài được thực hiện theo qui định pháp luật về thi hành án Dân sự. Trong đó, trong vòng 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của bên được thi hành án, cơ quan thi hành án Dân sự phải ra quyết định thi hành án và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành quyết định đó . Sau khi nhận được thông báo về quyết định thi hành án, người phải thi hành án có 15 ngày để tự nguyện thi hành án, nếu không sẽ bị cưỡng chế theo qui định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Hạn chế

      a/ Chi phí trọng tài cao

    Trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài tương đối lớn hơn so với giải quyết bằng con đường tòa án. Tham khảo một số biểu phí của các trung tâm Trọng tài ta có thể thấy rằng biểu phí để tính vào các vụ tranh chấp là khá cao  theo biểu giá dịch vụ trọng tài của VIAC, mức giá thấp nhất là 15.000.000 đồng cho việc giải quyết một tranh chấp; trong khi mức án phí dân sự thấp nhất chỉ 200.000 đồng.  Theo một số kết quả phân tích, ta có thể thấy rằng số lượng các doanh nghiệp lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Thương mại là những doanh nghiệp có vốn kinh doanh lớn. Như vậy đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ dù muốn cũng khó có thể chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.

      b/ Việc điều tra, xác minh chứng cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp mất nhiều thời gian hơn so với Tòa án

      Trọng tài không phải cơ quan được giao quyền lực cưỡng chế của nhà nước, nên, trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu xuất hiện trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trọng tài không thể ra quyết định mang tính chất bắt buộc thực hiện mà phải yêu cầu tòa án thực hiện thay theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự  (Điều 50, 51, Luật trọng tài thương mại 2010). Điều này khiến việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp mất thêm thời gian, không kịp thời và có thể tạo cơ hội cho một bên thực hiện một số hành vi gây ảnh hưởng bất lợi cho quá trình tố tụng và thi hành phán quyết sau này.

      Trọng tài viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng . Tuy pháp luật có quy định trong các điều 45, 46, 47 Luật TTTM 2010 nhưng quyền của họ chỉ dừng lại ở “yêu cầu” còn việc cung cấp hay không thì phụ thuộc vào sự tự nguyện và thiện chí của các bên tranh chấp và người làm chứng.

      c/ Phán quyết của trọng tài có thể bị yêu cầu tòa án xem xét lại

      Theo  Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010, phán quyết trọng tài có thể bị hủy khi có đơn yêu cầu của một bên. Mặc dù trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp nhanh gọn có nhiều ưu điểm song không ít có ý kiến cho rằng họ e ngại việc phán quyết của trọng tài bị Tòa án hủy. Theo ông Nguyễn Công Phú, Phó chánh tòa kinh tế Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh “kể từ khi Luật Trọng tài Thương mại có hiệu lực thi hành thì vẫn có rất nhiều phán quyết bị Tòa án hủy” . Trong khi đó, tại buổi tọa đàm về thực trạng “Hủy phán quyết trọng tài tại Việt Nam” ngày 20 tháng 1 năm 2015 theo ông Vũ Ánh Dương, Tổng thư ký VIAC cho biết từ năm 2003 đến năm 2011 có 26 vụ yêu cầu Tòa án hủy trong đó chỉ có 9 phán quyết bị hủy chiếm 34,6% tổng số vụ tranh chấp yêu cầu hủy. Từ năm 2011 – 2014, tức từ khi Luật trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực, có 20 yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài của VIAC thì có đến 10 phán quyết được Tòa án chấp nhận hủy, chiếm 50% trong tổng số vụ tranh chấp yêu cầu Tòa án hủy. Từ những con số trên chúng ta thấy được rằng việc có quá nhiều phán quyết trọng tài bị tuyên hủy như vậy sẽ tạo cho doanh nghiệp tâm lý e dè khi quyết định có chọn Trọng tài hay không, đó cũng là một rào cản khá lớn trong việc các doanh nghiệp tiếp cận với phương thức giải quyết này. Điều này khiến cho bên “thắng kiện” không yên tâm về khả năng thi hành phán quyết, từ đó ngại đưa vụ việc ra trọng tài. Bên cạnh đó những căn cứ để hủy phán quyết của trọng tài được quy định tại Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010 cũng chưa được cụ thể, rõ ràng (ví dụ như điểm đ khoản 2 Điều 68), khiến cho việc áp dụng các căn cứ này có thể bị lạm dụng để hủy phán quyết của trọng tài; làm trì hoãn việc khắc phục thiệt hại, bù đắp tổn thất của các bên do tranh chấp gây ra. Đây chính là lý do lớn nhất cho việc giải quyết bằng trọng tài ít được lựa chọn để giải quyết các tranh chấp.

      d/ Việc thực hiện các phán quyết của trọng tài phụ thuộc phần lớn vào ý thức tự nguyện của các bên

      Điều này thể hiện  trước nhất ở Điều 65 Luật trọng tài thương mại 2010, khi Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài. Chỉ khi một bên không tự nguyện thi hành phán quyết của trọng tài trong thời hạn và cũng không yêu cầu hủy phán quyết thì bên còn lại mới có quyền yêu cầu cơ quan thi hành dân sự thi hành phán quyết trọng tài. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của trọng tài khá cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi trọng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức tự giác, dẫn đến số phán quyết trọng tài bị yêu cầu hủy và không được thi hành chiếm tỷ lệ lớn.

Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động kinh doanh tại Tòa án

Khái niệm

      Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước.

      Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán Nhà nước thực hiện. Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do đó các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của Tòa án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích của mình khi họ thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng hoặc hòa giải và cũng không muốn đưa vụ tranh chấp của họ để giải quyết bằng trọng tài.

      Thông thường thì hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thông qua Tòa án được tiến hành khi mà việc áp dụng cơ chế thương lượng không có hiệu quả và các bên tranh chấp cũng không thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tranh chấp tại trọng tài.

Ưu điểm

      Việc dựa vào cơ quan tài phán là toà án để giải quyết các tranh chấp hợp đồng trong hoạt động kinh doanh có những ưu điểm nhất định. Trước hết phải kể đến toà án là cơ quan nhân danh nhà nước để giải quyết tranh chấp, do đó phán quyết của toà án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Cơ quan thi hành án là một cơ quan chuyên trách và có đầy đủ bộ máy, phương tiện để thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế nên khi đã đưa ra tòa án thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án. Đặc điểm này được có thể coi là yếu tố hấp dẫn nhất khiến các bên tranh chấp thường tìm đến phương thức giải quyết tranh chấp tại toà án.

      Mặt khác, khi giải quyết tranh chấp tại toà án, trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và việc giải quyết có thể qua nhiều cấp xét xử. Vì thế, nguyên tắc nhiều cấp xét xử bảo đảm cho quyết định của toà án được chính xác, công bằng, khách quan và đúng với pháp luật.

      Các tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia, có điều kiện tốt hơn các trọng tài viên trong việc tiến hành điều tra, có quyền cưỡng chế, triệu tập bên thứ ba đến tòa.

      Ngoài ra, thẩm quyền giải quyết của toà án được mở rộng đến tất cả các ngành kinh tế nên khi xảy ra tranh chấp, người ta thường nghĩ đến toà án như là nơi bao quát giải quyết mọi vấn đề.

      Một ưu điểm khác là với điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, ngoài ra chi phí hành chính rất hợp lý. Do đó, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại toà án thấp hơn rất nhiều so với việc nhờ đến các tổ chức trọng tài thương mại hay trọng tài quốc tế.

Hạn chế

      Mặc dù toà án là cơ quan tài phán có sức mạnh cưỡng chế giúp đôi bên có thể giải quyết tranh chấp một cách triệt để, nhưng phương thức giải quyết tranh chấp này cũng bộc lộ ra nhiều hạn chế:

      Trước hết, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động kinh doanh bằng toà án, các bên phải nắm rõ đươc bản chất, vì việc giải quyết tranh chấp của toà án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng. Khả năng tác động của các bên trong quá trình tố tụng rất hạn chế, đôi lúc nó không thể hiện được hết nguyện vọng của các bên tranh chấp. Điều này đôi khi có thể gây trở ngại cho các bên tranh chấp vì tính chất của hoạt động kinh doanh, thương mại đòi hỏi mọi thủ tục phải rất linh hoạt và mềm dẻo.

      Bên cạnh đó, nguyên tắc xét xử công khai tại tòa án không phù hợp với tính chất của hoạt động kinh doanh và tâm lý của giới doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ bản chất của hoạt động xét xử là bảo vệ pháp chế và duy trì công lý đã được pháp luật quy định, xã hội thừa nhận, đồng thời hoạt động xét xử công khai của toà án còn có tác dụng răn đe, cảnh cáo những hành vi vi phạm pháp luật. Trong một số trường hợp, để giữ bí mật nhà nước hoặc bí mật nghề nghiệp theo yêu cầu chính đáng của đương sư, toà án có thể xử kín nhưng phải tuyên án công khai, nhưng các doanh nghiệp làm ăn trên thương trường đều không muốn mang dấu đen phải ra toà để giải quyết tranh chấp, nó có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ, cho nên khuyết điểm này có thể coi là lớn nhất.

      Một điểm bất cập trên thực tế là mặc dù nguyên tắc xét xử nhiều cấp đảm bảo cho quyết định của toà án là chính xác, công bằng nhưng nguyên tắc này cũng sẽ khiến cho vụ việc có thể bị kéo dài, bản án xét xử xong chưa được thi hành ngay mà các bên có quyền kháng cáo khiếu nại nên thời gian kéo dài, quá trình tố tụng có thể bị trì hoãn và kéo dài, có thể phải xử đi xử lại nhiều lần gây bất lợi cho đương sự, nhất là những tranh chấp kinh tế có giá trị lớn đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, dứt điểm. Việc dây dưa, kéo dài vụ việc sẽ gây căng thẳng tâm lý, làm mất thời giờ, tiền bạc của doanh nghiệp và có khi phải bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh một cách đáng tiếc.

      Đối với các tranh chấp hợp đồng trong hoạt động kinh doanh có yếu tố nước ngoài thì phán quyết của tòa án thường khó đạt được sự công nhận quốc tế. Phán quyết của tòa án được công nhận tại một nước khác thường thông qua hiệp định song phương hoặc theo nguyên tắc rất nghiêm ngặt. Mặc dù thẩm phán quốc gia có thể khách quan, họ vẫn phải buộc sử dụng ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng của quốc gia họ và thường cùng quốc tịch với một bên.

      Nhìn chung, tranh chấp về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh là khá phổ biến trong quá trình thực hiện hợp đồng. Để giải quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh, các bên trong quan hệ hợp đồng có quyền lựa chọn một hoặc nhiều phương thức giải quyết thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án. Với mỗi hình thức giải quyết tranh chấp đều có những ưu điểm và hạn chế riêng như đã trình bày ở trên. Tuỳ thuộc vào nhu cầu và sự thiện chí của các bên để lựa chọn phương thức giải quyết cho phù hợp, hướng tới mục đích cuối cùng là giải quyết được tranh chấp và tiếp tục hoạt động kinh doanh với lợi nhuận tối ưu nhất.

      Trên đây là toàn bộ câu trả lời của chúng tôi về vấn đề: Ưu điểm và hạn chế của các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh. Nếu nội dung tư vấn còn chưa rõ, có nội dung gây hiểu nhầm hoặc có thắc mắc cần tư vấn cụ thể hơn, bạn có thể kết nối tới Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được tư vấn trực tiếp.

      Trân trọng./.