Phương pháp đánh giá dinh dưỡng mna năm 2024

Bảng Đánh giá dinh dưỡng [MNA] được bắt đầu phát triển từ những năm 1990 và đã được cải tiến qua thời gian thông qua 3 phiên bản.

Bảng MNA nguyên gốc đầy đủ

MNA nguyên gốc được phát triển bởi các bác sĩ Lão khoa thực hành tại Mỹ và Châu Âu. Nó được phát triển nhằm cung cấp một cách đơn giản và đáng tin cậy để sàng lọc tình trạng dinh dưỡng của những người trên 65 tuổi và để bổ sung thông tin về dinh dưỡng trong bảng Đánh giá sức khoẻ toàn diện người cao tuổi. Bảng MNA đầy đủ gồm 18 câu hỏi và kết quả sẽ được chia thành: dinh dưỡng bình thường, nguy cơ suy dinh dưỡng hoặc suy dinh dưỡng. Nó đã được thử nghiệm và chứng minh hiệu quả trong các bệnh viện, trong cộng đồng và ở các cơ sở chăm sóc y tế lâu dài.

Bảng MNA giản lược và bảng MNA đầy đủ: quy trình 2 bước

Để tiết kiệm thời gian trong việc sàng lọc, Rubenstein và các cộng sự đã phát triển một bản rút gọn của MNA – Bảng Đánh giá dinh dưỡng giản lược – hay được biết đến là MNA – SF, vào năm 2001 và phát minh ra quy trình sàng lọc 2 bước.

Bảng MNA rút gọn bao gồm 6 câu hỏi có liên quan chặt chẽ nhất tới MNA nguyên gốc. Bảng rút gọn được thử nghiệm hiệu quả trong điều trị ngoại trú như một cách nhanh chóng hơn để sàng lọc những nhóm lớn và loại bỏ việc phải sử dụng bảng MNA đầy đủ ở những người có dinh dưỡng đầy đủ. Khi Bản MNA giản lược xác định nguy cơ suy dinh dưỡng ở một người nào đó, bảng MNA đầy đủ bao gồm 18 câu hỏi sẽ được sử dụng để xác định xem người này có thực sự bị suy dinh dưỡng hay không.

Bảng MNA giản lược sau chỉnh sửa

Để tinh giản hóa MNA và giúp MNA dễ dàng áp dụng lâm sàng hơn, các nhà nghiên cứu đã sửa đổi và thử nghiệm lại bảng MNA giản lược bằng cách sử dụng dữ liệu trộn lẫn về MNA trong 28 nghiên cứu được công bố trước đây. Bảng MNA giản lược mới kết hợp 3 điểm cắt [cut-off points] về tình trạng dinh dưỡng từ bảng MNA đầy đủ, từ đó cho phép xác định người bị suy dinh dưỡng chỉ với 6 câu hỏi. Bảng MNA mới cũng cho phép sử dụng chu vi bắp chân thay thế cho BMI khi mà không có số liệu về BMI. Qua các lần điều chỉnh, MNA rút gọn đã trở thành một công cụ sàng lọc độc lập, loại bỏ sự cần thiết hoàn tất bảng đánh giá đầy đủ, và giảm thời gian sàng lọc xuống dưới 5 phút.

ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA NGƯỜI BỆNH NHẬP VIỆN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI KHOA NỘI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỐNG ĐA NĂM 2018

Khúc Thị Hồng Anh, Nguyễn Thanh Thủy, Đinh Thị Nhâm, Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Thị Thủy,

Nguyễn Thị Phương – BV Bạch Mai, Nguyễn Duy Tân – BV hữu Nghị Việt Xô, Nguyễn Đình Thăng – Trạm Y tế Nhân Chính

Tóm tắt:. Mục tiêu: [1]. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh nhập viện tại khoa Nội bệnh viện Đa khoa Đống Đa năm 2018. [2] Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh nhập viện tại khoa Nội bệnh viện Đa khoa Đống Đa năm 2018. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: nghiên cứu cho thấý đánh giá TTDD theo Albumin huyết thanh: 3,8% thiếu dinh dưỡng rất nặng; theo BMI: 24,4% bị SDD; theo SGA: 3,2% SDD nặng; theo MNA: 30,4% SDD. Nghiên cứu cũng tìm được mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giới tính, tuổi, trình độ học vấn và định lượng Albumin với tình trạng dinh dưỡng [p 65

176

44,7

Min = 19, Max = 97, Mean ± SD = 61,36 ± 18,2

Tỷ lệ người bệnh nam [54,1%], người bệnh nữ [45,9]. Tuổi trung bình của đối tượng tham gia nghiên cứu là 61,36 ± 18,2.

3.2. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh

Bảng 3.2. Tình trạng dinh dưỡng của người bệnh

Tình trạng dinh dưỡng

Tần số [n]

Tỷ lệ [%]

Đánh giá chung

n=394

Có nguy cơ SDD

225

57,1

Không có nguy cơ SDD

169

42,9

Theo Albumin huyết thanh

n=394

Bình thường

202

51,3

Thiếu dinh dưỡng vừa

133

33,7

Thiếu dinh dưỡng nặng

44

11,2

Thiếu dinh dưỡng rất nặng

15

3,8

Theo BMI

n=394

SDD

96

24,4

Bình thường

195

49,4

Thừa cân và béo phì

103

26,2

Theo phương pháp SGA

n=218

Bình thường

164

75,2

Nguy cơ SDD nhẹ và vừa

47

21,6

Nguy cơ SDD nặng

7

3,2

Theo phương pháp MNA

n = 176

Bình thường

5

2,8

Nguy cơ SDD

107

60,8

Suy dinh dưỡng

64

36,4

Tỷ lệ người bệnh có nguy cơ mắc SDD là 57,1% và không có nguy cơ SDD là 42,9%

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh theo Albumin huyết thanh cho thấy 3,8% thiếu dinh dưỡng rất nặng; 24,4% bị SDD theo BMI, 3,2% SDD nặng theo phương pháp SGA, 36,4% SDD theo phương pháp MNA

3.3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh

Bảng 3.3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh

Nội dung

Có nguy cơ SDD

Không có nguy cơ SDD

OR

[95%CI]

p

n

%

n

%

Giới

Nữ

120

53,3

61

36,1

2,023

[1,344; 3,045]

0,001

Nam

105

46,7

108

63,9

Tuổi

\> 65 tuổi

179

75,6

5

3,0

101,382

[39,591; 259,612]

< 0,001

≤ 65 tuổi

55

24,4

164

97,0

Trình độ học vấn

< THPT

109

48,4

47

27,8

2,439

[1,593; 3,735]

< 0,001

≥ THPT

116

51,6

122

72,2

Albumin

Giảm

130

57,8

62

36,7

2,362

[2,341; 5,939]

< 0,001

BT

95

42,2

107

63,3

Kết quả cho thấy có mối liên quan giữa giới, tuổi, trình độ học vấn, định lượng albumin với tình trạng dinh dưỡng của người bệnh, điều này có ý nghĩa thống kê [p0,05.

4. Bàn luận

4.1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh theo Albumin huyết thanh. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy kết quả 33,7% thiếu dinh dưỡng vừa, 11,2% thiếu dinh dưỡng nặng và 3,8% thiếu dinh dưỡng rất nặng. Kết quả này cao hơn kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Thu Hương [2013] với tỷ lệ SDD theo Albumin là 31,4% []; nghiên cứu của Lưu Ngân Tâm [2009] là 32% [3]. Điều này có thể giải thích rằng định lượng Albumin càng thấp nguy cơ SDD càng cao.

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh theo BMI, tỷ lệ SDD chiếm 24,4%, tỉ lệ tiền béo phì 15,5%, béo phì độ I là 9,7% và béo phì độ II là 1,0%. Tỉ lệ SDD trong nghiên cứu này tương đương với kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Thu Hương [2006] là 25,2% và kết quả của Lưu Ngân Tâm [2009] trên 710 người bệnh nhập viện là 25%. Tuy nhiên tỉ lệ SDD trong kết quả này cao hơn nghiên cứu của Tô Thị Hải [2014] là 20,5% [1]. Do đó người điều dưỡng cần đánh giá sớm tình trạng dinh dưỡng của người bệnh để có can thiệp cải thiện dinh dưỡng kịp thời giúp người bệnh tránh được những hậu quả do SDD mang lại. Như vậy, BMI càng thấp thì nguy cơ SDD càng cao, kết quả này phù hợp với Nguyễn Thùy Linh [2017] với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p 65 tuổi theo phương pháp MNA đã xác định được 60,8% có nguy cơ SDD và 30,4% SDD. So với kết quả nghiên cứu của Tô Thị Hải [2014] trên người bệnh nội khoa thì tỉ lệ có nguy cơ SDD cao hơn [42%] tỉ lệ SDD cao hơn [10,2%]. Điều này cho thấy người bệnh càng cao tuổi thì nguy cơ SDD và SDD càng cao [1].

4.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng

Kết quả nghiên cứu đã xác định được mối liên quan giữa giới tính, tuổi, trình độ học vấn, định lượng albumin với tình trạng dinh dưỡng của người bệnh, điều này có ý nghĩa thống kê với p

Chủ Đề