Ottoman là ai

  • Anh - Iraq 1941: Cuộc chiến bị lãng quên trong lòng đại chiến

"Con bệnh" của Đông Âu

Vào thời điểm ấy, đế quốc Ottoman đã trượt dài khỏi đỉnh cao cường thịnh từ rất lâu, nhưng vẫn chưa chính thức cáo chung. Cơn vật vã đó chỉ thực sự chấm dứt với sự kết thúc của Đệ nhất Thế chiến. Song, khi Chiến tranh Balkan lần thứ nhất bùng nổ, Ottoman đã không ngừng bị các đại cường châu Âu "xâu xé".

Từ Hiệp ước Berlin ký kết ngày 1/7/1878 cho đến đầu thế kỷ XX, lần lượt đã có từng mảnh của đế quốc Ottoman tuyên bố độc lập. Trong đó, với sự hậu thuẫn của những người anh em thuộc chủng tộc Slave ở phía Bắc - nước Nga, có một giấc mơ "Đại Serbia" bắt đầu nhen nhóm, để sau này được cụ thể hóa thành cái tên Nam Tư [Yugoslavia - Nam Slave], đất nước của những người Slave ở Nam Âu theo Chính thống giáo Đông phương.

Có những điều khoản trong Hiệp ước Berlin, điều 23 và điều 62, quy định rằng chính quyền đế quốc Ottoman sẽ phải đối xử bình đẳng với mọi công dân của mình, bất kể tín ngưỡng hay tôn giáo. Song, khi tận tâm nỗ lực làm mọi cách để cải tổ đất nước nhằm đưa Ottoman trở lại thời hoàng kim, Sultan [Hoàng đế Hồi giáo] Abdul Hamid đệ nhị lại phớt lờ nhu cầu [và cũng là xu hướng tất yếu] này. Là một vị vua sùng đạo, ông dĩ nhiên vẫn tuyệt đối ưu tiên các công dân là tín đồ Hồi giáo, trao cho họ mọi đặc quyền, bất kể họ có là thiểu số ở không ít khu vực nằm trong cương thổ đế quốc.

Chính bởi thế, ngày 27/4/1909, khi Abdul Hamid bị cuộc cách mạng khởi phát từ Macedonia, do một nhóm dân tộc chủ nghĩa mang tên Thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ [Young Turks] lật đổ, những mầm mống chia rẽ mau chóng biến đế quốc Ottoman thành mồi ngon cho những toan tính địa chính trị, khi quyền cai trị của triều đình trung ương Ottoman tại Constantinople [nay là Istanbul] lung lay đến tận gốc rễ.

Ottoman dấn thân vào cuộc chiến mà thiếu sự chuẩn bị kỹ lưỡng.

Phía Tây, đế quốc Áo - Hung nhanh chóng hành động, với việc sáp nhập hai tỉnh Balkan là Bosnia và Herzegovina, đồng thời hậu thuẫn Bulgaria độc lập. Vấn đề là, Serbia - vốn coi Bosnia-Herzegovina là một phần lãnh thổ hợp pháp của riêng mình, do có chung nguồn gốc Slave, vô cùng giận dữ về điều này. Trong khi đó, nước Nga Sa hoàng cũng giật mình cảnh giác với những tham vọng không giấu giếm của Áo - Hung.

Bởi vậy, đến mùa xuân 1912, Moskva đã thúc đẩy xong việc thành lập một liên minh Balkan bao gồm Serbia, Bulgaria, Montenegro và Hy Lạp, nhằm giành quyền kiểm soát một số hoặc toàn bộ phần lãnh thổ châu Âu vẫn còn do Đế chế Ottoman chiếm đóng. 

Cho dù vẫn tiềm ẩn không ít mâu thuẫn, các quốc gia Balkan đó vẫn sẵn lòng hợp lực cùng tấn công Ottoman. Đặc biệt là khi Ottoman đã và đang phải căng mình chia sức cho một mặt trận khác: Cuộc chiến tranh với Ý, xoay quanh vùng thuộc địa Bắc Phi - Libya. Montenegro tuyên chiến với Ottoman ngày 08/10/1912, và sau đó chín ngày là Serbia, Bulgaria và Hy Lạp.

Sự hỗn loạn tiếp nối

Kể cả với những điều kiện khách quan và chủ quan như vậy, châu Âu nói riêng và thế giới nói chung vẫn "sốc" với kết quả của cuộc chiến Balkan lần thứ nhất.

Chỉ trong vòng 1 tháng, liên quân Balkan đánh bật quân Thổ ra khỏi gần như toàn bộ mọi khu vực lãnh thổ của họ ở miền đông nam châu Âu. Nguyên nhân của thất bại toàn diện và chóng vánh này được giới nghiên cứu quân sự chỉ ra những nguyên nhân mấu chốt.

Đầu tiên, quân đội đế quốc Ottoman quá thiếu lực lượng, trong tương quan so sánh với các địch thủ. Họ bắt buộc phải ban hành lệnh tổng động viên vào ngày 1/10/1912, song tiến trình này cũng mới chỉ được hoàn thành một phần, vào lúc chiến tranh bùng nổ: Chỉ có khoảng 580.000 lính Ottoman đối mặt với 912.000 binh sĩ của Liên minh Balkan.

Thứ hai, hệ thống đường đất xuống cấp trầm trọng [nhất là trong điều kiện những cơn mưa mùa thu bắt đầu trút xuống, làm mọi hướng động binh đều trở nên lầy lội] cùng hệ thống đường sắt còn quá sơ khai cũng là một tác nhân cản trở sự suôn sẻ trong mọi kế hoạch vận trù. Tuyển quân chậm, chuyển quân chậm, tiếp vận không thông suốt, đến cả các tân binh lẫn các chỉ huy cũng không có đủ thời gian tối thiểu để hòa nhập với đơn vị mới, không có gì ngạc nhiên khi quân đội Ottoman tham dự cuộc chiến này chỉ còn là cái bóng mờ nhạt, là sự thừa kế đáng xấu hổ của cha ông họ - những chiến binh Hồi giáo với lá cờ nửa vành trăng từng khiến cả châu Âu run sợ vào quãng thế kỷ XVI - thế kỷ VII.

Thứ ba, tuy thực lực không còn, nhưng sự cao ngạo vẫn nguyên đó. Đến cả hai vị tướng soái hàng đầu như Pasha [Thống chế, Đô đốc] Nazim và Pasha Mahmund Muhtar cũng tỏ ra quá lạc quan, nếu không muốn nói là coi thường đối thủ - những kẻ phản loạn. Họ chủ trương tổng tấn công phủ đầu, bất chấp những lời can ngăn của cấp dưới, những đề xuất phòng ngự nhằm bào mòn "sĩ khí" của Liên minh Balkan, cũng như chờ đợi hệ thống tiếp vận được hoàn thiện.

Sâu xa hơn, kể từ khi Sultan Abdul Hamid II lên nắm quyền cai trị, do lo sợ nguy cơ đảo chính, các hoạt động diễn tập quân sự của Ottoman bị hạn chế rất nhiều. Còn sau cách mạng Young Turks 1908, đội quân ấy vẫn chưa thật sự quay trở lại được với quy củ cần thiết.

Do đó, việc thế trận của Ottoman nhanh chóng tan vỡ, dẫn đến việc quyền thống trị của họ ở Đông Nam Âu sụp đổ hoàn toàn là một kết cục bất ngờ, nhưng lại dễ hiểu. Nhìn tổng thể, đó là hệ quả của cả một chuỗi vận động kéo dài đã hơn một thế kỷ.

Một đơn vị Bulgaria ăn mừng chiến thắng, nhưng cuối cùng Bulgaria vẫn là phía thua thiệt.

Vấn đề là, cũng như mọi cuộc chiến khác ở đầu thế kỷ XX - thậm chí là cả Đại chiến thế giới lần thứ nhất, chiến thắng toàn vẹn của Liên minh Balkan không giải quyết hết được các vấn đề mâu thuẫn còn tồn tại, nhất là các vấn đề liên quan đến lãnh thổ, sắc tộc hay tôn giáo.

Ngay khi các đoàn quân Ottoman bị đánh bật khỏi Balkan, những cường quốc khác đã nhanh chóng lấp vào khoảng trống quyền lực. Anh, Pháp, Đức, Áo-Hung và Nga lập tức lên tiếng, tranh giành quyền kiểm soát khu vực, triệu tập hội nghị với các nước tham chiến ở Luân Đôn vào tháng 12/1912, nhằm phân chia biên giới ở Balkans thời hậu chiến.

Theo hòa ước ký ngày 20/5/1913, Macedonia được đem chia cho bốn cường quốc Balkan chiến thắng. Tuy nhiên, Bulgaria cảm thấy mình bị Serbia và Hy Lạp "chèn ép". Điều này đã khơi mào cho Chiến tranh Balkan lần thứ hai, nổ ra chỉ một tháng sau đó, khi  Bulgaria bất ngờ tấn công hai đồng minh cũ. Mặc dù vậy, Bulgaria vẫn dễ dàng bị đánh bại bởi liên quân Serbia, Hy Lạp, Ottoman và Romania. Theo các điều khoản của Hiệp ước Bucharest, ký ngày 10/08/1913, Bulgaria mất một phần lớn lãnh thổ, còn Serbia và Hy Lạp nhận quyền kiểm soát phần lớn Macedonia.

Những mầm mống hỗn loạn tại Balkan, vì thế, cũng vẫn cứ mãi cháy âm ỉ, đến tận cuối thế kỷ XX - với những cuộc huynh đệ tương tàn giữa Serbia - Croatia - Bosnia khi Liên bang Nam Tư tan rã. Tuy nhiên, vào thời điểm 1912-1913, ý nghĩa lớn nhất của hai cuộc chiến tranh Balkan ấy là sự xác nhận đà suy tàn không thể cưỡng lại của Đế quốc Ottoman một thời lừng lẫy. Việc cái tên đó biến mất khỏi bản đồ thế giới sau năm 1918, và tái sinh thành Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại là điều có thể nhìn thấy trước, từ kết cục của Chiến tranh Balkan.

"Áo - Hung và đồng minh thân thiết là nước Đức không hề muốn Serbia trỗi dậy như một ngọn cờ của sắc dân Slave ở Đông Nam Âu. Trong một bức thư gửi ngoại trưởng Áo-Hung vào tháng 10/1913, báo trước cuộc xung đột toàn cầu tàn khốc sắp xảy ra, Hoàng đế Wilhelm II viết:  "Chiến tranh giữa Đông và Tây về lâu dài là điều không thể tránh khỏi. Người Slave sinh ra không phải để cai trị mà là để phục tùng" - một tiền đề tư tưởng của Đức Quốc xã.

"Chiến thắng của Liên minh Balkan kết thúc năm thế kỷ thống trị của Đế quốc Ottoman ở bán đảo Balkan. Ottoman mất tất cả những lãnh thổ của họ ở châu Âu, trừ vài dải đất nhỏ. Phần lớn Thrace và Đông Macedonia sáp nhập vào lãnh thổ Bulgaria. Serbia chiếm Kosovo cùng các khu vực tây bắc của Macedonia. Hy Lạp chiếm Eripus cũng như các đảo trong biển Aegean. Còn sau Hiệp ước Luân Đôn, khu vực tây nam Macedonia thành lập một nhà nước Albania độc lập.

Mây Linh

Từ thế kỷ X, bộ lạc người Tây Đột Quyết [Gokturk] vốn sống cuộc đời du mục tại vùng Trung Á, vì không chịu sống dưới ách thống trị của nhà Đường, họ bắt đầu di cư đến lãnh thổ Ba Tư và khu vực Tiểu Á. Lịch sử gắn liền với những cuộc thiên di và xâm chiếm đất đai của các dân tộc khác làm cho dòng máu người Tây Đột Quyết mang nặng tư tưởng bành trướng.

Vào thế kỷ thứ XI, khi đã trở thành một tiểu quốc nhỏ ở tận cùng phía Tây Tiểu Á, những người cầm quyền đã bộc lộ tham vọng muốn vươn lên làm bá chủ vùng Trung Cận Đông, mà trước hết là nhằm vào lãnh thổ La Mã - đế quốc lớn mạnh bậc nhất châu Âu bấy giờ.

Khát vọng mở rộng lãnh thổ này đã dẫn đến mâu thuẫn của Ottoman với đế quốc Byzatine – từng là một thế lực chính trị nổi trội tại khu vực miền Đông Địa Trung Hải. Năm 1071, với chiến thắng lịch sử trước đế quốc Byzatine tại trận Manzikert đã thành lập nên nhà Seljuk ở Tiểu Á.

Dưới quyền bá chủ của nhà Seljuk ở Tiểu Á, một vài bộ tộc người Hồi giáo có nguồn gốc Thổ, Oğuz đã tạo ra một thể chế mà cuối cùng đã trở thành vương quốc Ottoman tại miền tây Tiểu Á. Thủ lĩnh người Kay là Ertuğrul Gazi đã nhận vùng đất Seljuk trong cuộc va chạm biên giới nhỏ. Hệ thống Seljuk tạo cơ hội cho sự bảo vệ vương quốc từ bên ngoài và cũng cho phép nó phát triển cấu trúc nội tại của nó. Nhà nước Seljuk cho phép họ xây dựng lực lượng quân sự của mình thông qua sự hợp tác với các dân tộc khác sống tại miền tây Tiểu Á, nhiều trong số đó là những người theo Ki-tô giáo.

Trước sự xâm lăng của người Mông Cổ vào thế kỷ thứ XIII, triều đại Seljuk sụp đổ và lãnh thổ của họ đã bị phân chia. Các bộ lạc đã tìm kiếm cơ hội để lật đổ những thế lực cuối cùng của người Thổ Seljuk và tiêu bố chủ quyền của họ một cách công khai. Trong số đó, có một bộ tộc Sogut được thành lập dưới sự dẫn dắt của Ertirul định cư tại thung lũng sông Sakaraya.

Năm 1068, hơn 70.000 quân sĩ của Đế quốc La Mã thực hiện cuộc thảo phạt người Thổ Seljuk. Tuy nhiên, 30.000 quân Thổ đã đánh bại hoàn toàn đội quân La Mã và bắt hoàng đế Romanos IV làm tù binh. Sau cuộc chiến, quyền lực của La Mã suy yếu, tiến trình "Đột Quyết hoá" diễn ra nhanh chóng, dòng người Thổ di cư vào Tiểu Á ngày càng đông.

Năm 1243, quân đội Seljuk bị người Mông Cổ đánh bại và dần tan rã, lãnh thổ Seljuk bị phân chia thành nhiều vương quốc. Bộ lạc Kayi tuyên bố độc lập và thành lập nhà nước Ottoman. Trong khi các bộ lạc khác xảy ra mâu thuẫn nội bộ tranh giành quyền lực, thì Osman - con trai thủ lĩnh bộ lạc Kayi dẫn quân xâm chiếm La Mã với tham vọng hoán đổi vị thế của đế chế hùng mạnh này.

Năm 1281, Osman trở thành người đứng đầu của đế chế Ottoman và đến năm 1299 ông tuyên bố mình là một Sultan – vị vua đầu tiên của vương quốc Ottoman. Trong khi các vương triều khác của người Thổ còn bận tâm với các mâu thuẫn nội bộ, Oman vị vua hùng mạnh đại diện cho giấc mơ của đế chế Ottoman đã mở rộng biên giới về phía Byzatine.

Năm 1326, sau khi Osman mất con trai ông – Orhan lên ngôi và dời đô đến Bursa định hình sự phát triển chính của dân tộc. Với hệ thống cai trị khác biệt với các đế chế khác – tránh sự cai trị theo kiểu quân sự, triều đình tạo ra một hệ thống pháp lý. Trong đó, các dân tộc ít người và hệ thống tôn giáo được độc lập quản lý công việc của mình.

Đến thời vua Murad I, năm 1359 đã mở ra sự thống trị của đế chế Ottoman trên khu vực Địa Trung Hải và Balkan với việc chiếm được Thessaloniki - một thành phố quan trọng của Venezia bị chiếm năm 1387. Chiến thắng của quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Kosovo năm 1389 làm cho Serbia mất quyền kiểm soát trên vùng đất này, mở đường cho các cuộc xâm lược châu Âu của sultan.

Trận Nicopolis năm 1396 được xem là cuộc Thập tự chinh cuối cùng của thời Trung cổ đại bại trước quân Ottoman. Sau khi vị vua Bayezid bị bắt làm cho đất nước rơi vào loạn lạc. Từ năm 1402 đến 1413, nội chiến bùng nổ giữa các con của Bayezit. Cuộc chiến này kết thúc khi vua Mehmed I lên ngôi và xây dựng lại đất nước, kết thúc thời kì đứt quãng của Đế quốc Ottoman.

Để chuẩn bị kiến tạo nên một dân tộc siêu việt, một quốc gia trung tâm và nhằm trang bị kiến thức nền tảng về binh pháp, khả năng thao lược của một dân tộc dẫn dắt, Nhà sáng lập - Chủ Tịch Tập đoàn Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ với tấm lòng Thiện Lành đã tâm huyết cẩn trọng tuyển chọn cuốn sách “Thập Nhị Binh Thư”, một trong hơn 100 đầu sách quý của Tủ sách Nền tảng Đổi Đời với 12 lĩnh vực căn cốt nhất của toàn nhân loại.

“Thập nhị binh thư”, một bửu văn quy nạp những tinh hoa trong thuật dụng binh tự cổ chí kim, tựa như tôn chỉ để khải sanh những mãnh tướng kiêu hùng chốn sa trường. Binh thư Tôn Vũ chép rằng, “Binh vô thường thế, thủy vô thường hình, năng nhân địch biến hóa nhi thủ thắng giả, vị chi thần” – Quân binh cũng như nước, không hình không dạng cố định; nếu như có thể tùy theo tình hình biến hóa của địch mà biến đổi theo đó để giành thắng lợi, thì đó là “dụng binh như thần”

Ở giai đoạn nào của lịch sử các Sultan của đế chế Ottoman đã sớm bộc lộ tham vọng lớn và ra sức mở rộng đất đai mà trước hết là thu phục các nhà nước suy yếu bằng đội quân tinh nhuệ Janissary được huấn luyện trở thành chiến binh khi còn rất nhỏ, có lòng trung thành tuyệt đối và rất hiệu quả trên chiến trường. Ottoman trước hết là nhằm vào lãnh thổ của đế quốc đang suy yếu nhưng vẫn là đế quốc lớn mạnh bậc nhất châu Âu bấy giờ - Byzantine.

Trước tham vọng của Ottoman, người Byzantine hết sức lo sợ. Các hoàng đế Byzantine tìm mọi cách để duy trì sự tồn tại của quốc gia, kéo dài quyền cai trị của họ. Như điều tất yếu của sự vận động và phát triển, cuộc chiến thay thế đế chế suy tàn bởi đế chế mới nổi là việc không thể tránh khỏi. Vị thế của họ bị thay đổi và để duy trì sự tồn tại, đế chế này chấp nhận trở thành nước chư hầu của Ottoman. Tuy nhiên họ vẫn ngấm ngầm tìm kiếm sự giúp đỡ từ Giáo Hoàng La Mã và các nước chống lại Ottoman.

Người Ottoman thực hiện chiến lược "gặm nhấm" từng phần lãnh thổ La Mã. Trong vòng 10 năm, Ottoman thôn tính các quốc gia vùng Tiểu Á, Trung Á, Trung Đông, Nam Âu, rồi thay thế vị thế của La Mã ở vùng Balkan. Năm 1453, Ottoman phát động cuộc chiến tranh lớn đánh thẳng vào kinh đô Constantinople của La Mã. Sau những cuộc giao chiến khốc liệt, quân Ottoman cuối cùng cũng chiếm được Constantinople, hoàn thành quá trình đổi ngôi đế chế với La Mã, mở ra một kỷ nguyên phát triển thịnh vượng của đế chế Ottoman.

Lãnh thổ của đế chế Ottoman xuyên qua 3 châu lục Á, Âu, Phi với diện tích hơn 5,5 triệu km2. Trong thế kỷ 16 Ottoman là một thực thể chính trị mạnh nhất thế giới thời bấy giờ. Selim I là người có công sáp nhập Trung Đông và Ottoman vào năm 1514 trong trận chiến Taidizan. Đến năm, 1517 đội quân Ottoman bắt đầu chinh phục Ai Cập. Suleiman I là vị vua có công tái xây dựng hệ thống pháp luật nhà Ottoman, ông là người làm nên sự tột đỉnh vinh quang của nền quân sự, chính trị và kinh tế của Đế chế Ottoman. Năm 1526 chinh phục được Hungary và nhiều vùng đất ở Trung Âu.

Từ năm 1568 đến 1878, đế chế Ottoman của người Thổ đã tiến hành 12 cuộc chiến tranh với đế quốc Nga, nhằm mở rộng lãnh thổ về phía biển Đen và khu vực Caucasus. Trong các cuộc chiến này, Nga giành chiến thắng 8 lần, còn người Thổ chỉ chiến thắng 4 lần. Để tăng thêm sức mạnh, Ottoman cần có Pháp, Anh nhảy vào can thiệp vì mâu thuẫn trong việc phân chia quyền lực ở vùng đất của người Thổ. Đế chế Ottoman phát động cuộc chiến với Nga ở bờ biển Đen, sau này leo thang thành Thế chiến I.

Đến thế kỷ 19, Đế chế Ottoman suy yếu thực sự khi lãnh thổ ngày càng bị thu hẹp, kinh tế sụt giảm và bắt đầu gia tăng sự phụ thuộc vào phần còn lại của châu Âu. Các cuộc chiến tranh Balkan [Balkan Wars] trong hai năm 1912 và 1913 đã khiến Đế chế Ottoman hao tổn rất lớn về lãnh thổ và dân số.

Giữa thế kỷ 19, Đế chế Ottoman đã thực hiện một cuộc cải cách nhằm hiện đại hóa đất nước, cố gắng lấy lại một phần sức mạnh đã mất, nhưng nỗ lực này phần lớn không thành công.

Khi Thế chiến thứ I [1914-1918] nổ ra, Đế chế Ottoman đã gia nhập một liên minh bí mật với Đức. Cuộc chiến sau đó là thảm họa bởi sự sụp đổ của Đế chế Ottoman là hậu quả trực tiếp từ Thế chiến I. Hơn hai phần ba quân đội Ottoman bỏ mạng trong Thế chiến I và có tới 3 triệu dân thường thiệt mạng.

Đế chế Ottoman luôn được biết đến là một trong những đế chế lớn nhất và mạnh nhất lịch sử nhân loại. Nhưng điều duy nhất mà đế chế này không làm được là cạnh tranh quyền lực với đế quốc Nga. Xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển của đế chế Ottoman đã không duy trì được những giá trị cốt lõi - luôn đắm chìm trong tình trạng chiến tranh, tranh giành quyền lực giữa các sultan, khi những nô lệ vẫn phải lao động, tham gia quân ngũ để phục vụ cho nhà nước. Kinh tế không có nền tảng bền vững, phụ thuộc vào cống phẩm từ những khu vực giàu có của các nước xâm lược.

Tương tự như đế chế khác, sự suy vong của Ottoman nằm ở hệ giá trị đang dần xuống dốc - khi mà khát vọng lớn xuất phát từ sự sợ hãi và cùng với tham vọng củng cố quyền lực và mở rộng lãnh thổ; tuy có học hỏi, sáng tạo nhưng thiên lệch, thiếu sự minh triết toàn diện cho thế hệ kế thừa; có đoàn kết nhưng được hình thành từ sự vị kỷ, lòng tham của cá nhân đã khiến đế chế Ottoman bá chủ thế giới nhanh chóng lụi tàn. 

Sau hơn 600 năm tồn tại, Đế chế Ottoman vẫn được nhớ đến nhờ sở hữu quân đội hùng mạnh, đa dạng sắc tộc, nền nghệ thuật tinh tế cùng những công trình kiến trúc tuyệt tác có ảnh hưởng nhất định đến Trung Đông nói riêng và thế giới nói chung.

[Đón đọc kỳ sau: Tinh thần chiến binh tạo nên đế chế Nguyên Mông hùng mạnh].

Video liên quan

Chủ Đề