Nghị quyết 49-nq/tw về cải cách tư pháp

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương, Trưởng Ban chỉ đạo Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” dự và phát biểu chỉ đạo.

Cùng dự có các Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng: Phan Đình Trạc, Trưởng Ban Nội chính Trung ương; Nguyễn Hòa Bình, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Dự hội nghị còn có Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định; đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành, các chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu về pháp luật và tư pháp.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại hội thảo.

Hội thảo đánh giá, sau 20 năm thực hiện cải cách theo các Nghị quyết của Đảng, công tác cải cách tư pháp trong Tòa án nhân dân - cơ quan giữ vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao vị thế, diện mạo, uy tín và kết quả hoạt động của tòa án.

Tuy nhiên, nền tư pháp nước ta còn những bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu và mong muốn của người dân. Công tác cải cách tư pháp vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Các chuyên gia cho rằng, tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, cải cách tư pháp đang là xu thế tất yếu, liên tục và phổ biến không chỉ ở các nước đang phát triển mà còn được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả ở tất cả các quốc gia. Cải cách tư pháp được tiến hành với quyết tâm cao, nội dung phong phú, trong đó việc ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng nền tư pháp minh bạch, hiện đại, thuận tiện cho nhân dân.

Phát biểu tại hội thảo, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh đến việc phân tích, đánh giá những định hướng, giải pháp cải cách tư pháp tại tòa án làm căn cứ đề xuất Chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới. Chủ tịch nước đánh giá cao kết quả thực hiện chiến lược cải cách tư pháp trong hệ thống Tòa án đã có những bước phát triển mới, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao vị thế, diện mạo và uy tín, xứng đáng với vai trò là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp.

Nổi bật là việc tổ chức hòa giải, đối thoại tại tòa đã bước đầu thành công; trang phục các cán bộ tham gia phiên tòa, bố trí vị trí ngồi các chức danh trong phiên tòa bước đầu thực hiện tốt. Tranh tụng tại tòa là vấn đề quan trọng trong cải cách tư pháp, nhiều phiên đã tranh tụng mạnh mẽ; kết quả phán quyết của phiên tòa là toàn diện trên cơ sở chứng cứ và tham khảo, lắng nghe ý kiến Viện kiểm sát các cấp, luật sư.

Tổ chức bộ máy tòa án các cấp ngày càng hoàn thiện theo hướng tinh gọn và chuyên nghiệp. Tòa án nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết, xét xử các vụ việc. Năm 2021, theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, số lượng bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan của Tòa án chỉ chiếm 0,81%, giảm 0,25% so với năm 2020, đáp ứng Nghị quyết của Quốc hội đề ra.

Sắp xếp đội ngũ cán bộ tòa án bước đầu coi trọng chất lượng, năng lực, hiệu quả phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, xây dựng, thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp. Nhiều đạo luật quan trọng liên quan thủ tục tố tụng tư pháp đã được xây dựng và ban hành. Tòa án cũng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường cơ sở vật chất.

Các đại biểudự hội thảo.

Tuy nhiên, Chủ tịch nước cũng nêu rõ một số bất cập của nền tư pháp nước ta: Chưa có sự thống nhất trong nhận thức về nội hàm quyền tư pháp, chủ thể thực hiện quyền tư pháp. Một số nhiệm vụ được Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra nhưng chưa được triển khai thực hiện hoặc đã được triển khai nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu.

Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tòa án cũng còn những tồn tại cần được tháo gỡ như: Mâu thuẫn về chế độ chính sách và điều kiện bảo đảm; mâu thuẫn giữa áp lực công việc và biên chế...., một bộ phận nhỏ cán bộ của tòa án chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ cũng như phẩm chất.

Nhiều vấn đề mới phát sinh do tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các bối cảnh kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn mới cũng đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách để ngày càng thích ứng tốt hơn với tình hình mới, thúc đẩy và bảo vệ quá trình phát triển bền vững về kinh tế - xã hội của đất nước.

Chủ tịch nước nhấn mạnh, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ đó là xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chiến lược cải cách tư pháp có ý hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước ta, của chế độ ta trong giai đoạn mới, nhất là đối với hệ thống bộ máy Nhà nước, gồm cả hệ thống Toà án nhân dân các cấp.

Đặt vấn đề, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ, còn có những khó khăn, thách thức, đặt ra cho nền tư pháp nước ta những yêu cầu mới, Chủ tịch nước đề nghị ngành Tòa án và cả nền tư pháp phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ nhằm thích nghi và đáp ứng tốt hơn yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong tình hình mới, để nền tư pháp nước ta phát triển tiên tiến, hiện đại, bắt kịp với trình độ chung của thế giới. Cải cách tư pháp cũng chính là động lực phát triển để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác của Toà án, Chủ tịch nước chỉ rõ.

Trên tinh thần đó, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương yêu cầu cần phân tích những định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cho Chiến lược cải cách tư pháp mới của Toà án với quyết tâm chính trị cao, khẩn trương, đồng bộ; xác định rõ những nội dung trọng tâm, trọng điểm; có chương trình, kế hoạch, lộ trình cải cách phù hợp. Tập trung một số nội dung trọng tâm là nghiên cứu, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các quan điểm, định hướng cải cách tư pháp đã được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW theo tinh thần Kết luận 84 của Bộ Chính trị.

Cùng với đó, đề xuất những giải pháp cải cách mới trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước và xu thế phát triển chung của thế giới. Tập trung vào các giải pháp cải cách về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân; phân định rõ quyền quản lý hành chính của tòa án để bảo đảm quyền độc lập giữa các cấp tòa án; đổi mới, hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp chuyên nghiệp, hiệu quả.

Xây dựng chế độ xét xử độc lập, công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý, tăng quyền của tòa án trong xét xử các vụ án xâm phạm lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước, phối hợp các cơ quan liên quan, nhất là các cơ quan tố tụng kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc thưc hiện pháp luật. Nâng cao chất lượng cán bộ, đặc biệt là chức danh tư pháp, có chế độ chính sách phù hợp dành cho cán bộ Tòa án.

Ngoài ra, cần tăng cường cơ sở vật chất, bảo đảm nguồn lực để xây dựng Tòa án chính quy, hiện đại, hoạt động hiệu quả; chú trọng phát triển Tòa án điện tử ngang tầm với trình độ phát triển chung của thế giới… ; vấn đề xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động xét xử của tòa án; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp.

Chủ tịch nước đề nghị lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học để hoàn chỉnh Chuyên đề được giao, đề xuất xây dựng chiến lược cải cách tư pháp mới, báo cáo Ban chỉ đạo Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” để trình Bộ Chính trị, Trung ương cho ý kiến, quyết định trong năm 2022.

Tin, ảnh: TTXVN

    Qua 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các cơ quan tư pháp tỉnh Kiên giang có nhiều cố gắng, nỗ lực trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, từ đó, công tác cải cách tư pháp của tỉnh đạt nhiều kết quả quan trọng.

    Trong 15 năm qua, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW tại tỉnh Kiên Giang được tổ chức một cách đồng bộ, toàn diện. Chất lượng, hiệu quả các hoạt động tư pháp, trọng tâm là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên rõ rệt. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tư pháp, nhất là đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp được củng cố, tăng cả về số lượng, chất lượng. Vai trò của các hoạt động bổ trợ tư pháp từng bước được khẳng định. Sự phối, kết hợp của các cấp, các ngành, nhất là các cơ quan tư pháp trong thực thi nhiệm vụ ngày càng được tăng cường và phát huy hiệu quả; góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Có thể rút ra các bài học kinh nghiệm sau:

    Thứ nhất, việc triển khai thực hiện nghị quyết số 49-NQ/TW được cấp ủy tổ chức đảng, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, đơn vị quan tâm, sát sao trong việc quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc

    Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kiên Giang đã xây dựng Kế hoạch số 07-KH/TU, ngày 03/4/2006 cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết số 49- NQ/TW; tổ chức triển khai đến cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện và các cơ quan tư pháp tỉnh. Thành lập Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh có nhiệm vụ tham mưu cho Tỉnh ủy theo dõi thực hiện công tác cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh. Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 139-KH/TU về thực hiện Kết luận số 92-KL/TW, ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW; Kế hoạch số 01-KH/BCĐ, ngày 03/10/2016 về thực hiện chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp nhiệm kỳ 2016-2021… Chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức Đảng, các cơ quan tư pháp tỉnh căn cứ chức năng, nhiệm vụ, tình hình thực tế xây dựng các văn bản để cụ thể hóa thực hiện. Hàng năm, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh, các cơ quan tư pháp cấp tỉnh và các huyện, thành ủy đều tiến hành sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết phù hợp với tình hình và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương. Trong từng giai đoạn, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tiến hành sơ kết 03 năm và tổng kết 5 năm, tổng kết 8 năm, tổng kết nhiệm kỳ 2011-2015, sơ kết giữa nhiệm kỳ từ năm 2016 đến 30/6/2018 về công tác cải cách tư pháp theo chỉ đạo của Trung ương. 

Đồng chí Phan Đình Trạc, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Đề án tổng kết Nghị quyết số 49-NQ/TW tại Hội nghị lấy ý kiến đề án tổng kết Nghị quyết số 49-NQ/TW

    Việc cụ thể hóa, triển khai, quán triệt, thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW được cấp ủy, tổ chức Đảng, các cơ quan tư pháp quan tâm thực hiện tốt. Công tác tuyên truyền, phổ biến các nhiệm vụ cải cách tư pháp được thực hiện nghiêm túc bằng nhiều hình thức, phù hợp với từng đối tượng; qua đó, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, công chức, viên chức, nhất là đối với các cơ quan tư pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

    Thứ hai, quan tâm hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp

    Công tác tham gia xây dựng, hoàn thiện thể chế nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ-TW: Chủ động tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có nhiều dự thảo quan trọng[1]. Một số dự thảo luật quan trọng được tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân như: Hiến pháp năm 2013 [sửa đổi], Luật Đất đai [sửa đổi], Bộ luật Hình sự [sửa đổi]… Góp ý vào các đề án và tổ chức hoạt động của Cơ quan điều tra[2]; Viện kiểm sát nhân dân[3]; Tòa án nhân dân[4]

    Công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật tiếp tục được quan tâm, bảo đảm nội dung, tiến độ thời gian và kế hoạch chung của tỉnh. Các văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND các cấp ban hành đúng trình tự, thủ tục của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Các cơ quan, đơn vị có liên quan đã chủ động phối hợp thực hiện kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND; qua đó, kịp thời kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật phù hợp, thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

    Thứ ba, thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới

    Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 [khóa XII] ngày 25/10/2017 một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, năm 2018, các cơ quan tư pháp tỉnh đã sắp xếp, kiện toàn các bộ phận chức năng theo quy định về tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Thường xuyên kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp ở hai cấp, bổ sung lãnh đạo quản lý, đề nghị bổ nhiệm các chức danh tư pháp như: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên để đáp ứng yêu cầu công tác. Ngành Công an đã tổ chức khảo sát và sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp theo cơ cấu tổ chức mới của Bộ Công an [hiện còn 24 đơn vị đầu mối trực thuộc]; bổ sung đủ biên chế cho các cơ quan điều tra với 202 điều tra viên, trong đó, có 20 điều tra viên cao cấp, 79 điều tra viên trung  cấp, 103 điều tra viên sơ cấp; bổ nhiệm, bổ nhiệm lại chức danh tư pháp cho 596 trường hợp, miễn nhiệm 227 trường hợp. Viện kiểm sát nhân dân có 253 biên chế, trong đó, có 01 kiểm sát viên cao cấp, 56 kiểm sát viên trung cấp, 116 kiểm sát viên sơ cấp với 27 đơn vị trực thuộc. Tòa án nhân dân có 23 đơn vị trực thuộc gồm 08 tòa, phòng[5] trực thuộc Tòa án nhân dân tỉnh và 15 Tòa án nhân dân cấp huyện; 123 thẩm phán, 103 thư ký, 06 thẩm tra viên, 26 cán bộ văn phòng. Thi hành án dân sự có 20 đơn vị trực thuộc gồm 05 phòng chuyên môn và 15 Chi cục Thi hành án cấp huyện; toàn tỉnh có 76 chấp hành viên, 16 thẩm tra viên, 29 thư ký và 52 cán bộ.

    Thứ tư, hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp

    Về hoạt động luật sư: Từ năm 2005 đến nay, đội ngũ luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn tỉnh phát triển về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng, nâng tổng số hiện nay là 28 tổ chức với 72 luật sư. Chất lượng luật sư ngày càng được nâng lên, các tổ chức hành nghề luật sư và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân đã nhận và tham gia 12.482 vụ, việc[6]. Đội ngũ luật sư đã góp phần tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, công dân; đồng thời, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa và khắc phục kịp thời những thiếu sót, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật bảo vệ pháp chế XHCN, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, minh bạch, giải quyết việc làm góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Công tác giám định tư pháp: Thực hiện Luật  Giám định tư pháp và Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả giám định tư pháp”, tổ chức giám định tư pháp và giám định viên tư pháp ngày càng được củng cố, kiện toàn và phát triển, chất lượng từng bước được nâng lên; việc đầu tư cơ sở vật chất và các trang thiết bị phục vụ cho giám định được tăng cường, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chuyên môn của tổ chức giám định. Các tổ chức giám định và giám định viên đã thực hiện 19.373 vụ, việc, phục vụ tốt cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. 

    Cùng với đó, lĩnh vực công chứng và lĩnh vực trợ giúp pháp lý cũng được quan tâm, tạo điều kiện để củng cố và phát triển. Đến nay, có 14 tổ chức hành nghề công chứng, gồm 02 phòng công chứng và 12 văn phòng công chứng, 36 công chứng viên. Các tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng 648.123 hợp đồng, giao dịch, thu phí 153,212 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước 11,871 tỷ đồng. Hoạt động công chứng góp phần bảo đảm tính pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, phục vụ tốt hơn nhu cầu  công chứng của người dân. Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh đã thực hiện 53.221 vụ, việc cho 53.221 đối tượng; phối hợp thực hiện tốt trợ giúp pháp lý lưu động các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có điểm nóng về khiếu kiện, đền bù giải tỏa hoặc theo yêu cầu đột xuất của chính quyền địa phương. Qua đó, giúp cho người dân hiểu biết và chủ động tham gia vào các quan hệ pháp luật; đồng thời, kịp thời phát hiện những vướng mắc, bất cập trong hệ thống pháp luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

    Thứ năm, tạo điều kiện và phát huy tốt chức năng giám sát của các cơ quan dân cử, các tổ chức chính  trị, xã hội và nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp

    Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực cải cách tư pháp. Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã thực hiện 01 cuộc giám sát về tình hình oan, sai trong việc thực hiện pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật. Công tác giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp được đưa vào chương trình công tác hàng năm của HĐND các cấp[7]. HĐND tỉnh đã tổ chức 36 cuộc họp thường lệ, chuyên đề và bất thường để thẩm tra báo cáo kết quả hoạt động định kỳ của các cơ quan tư pháp và chất vấn tại các kỳ họp. Thường trực HĐND tỉnh tổ chức phiên giải trình về công tác xét xử và thi hành án hành chính trên địa bàn tỉnh, đối với một số cơ quan[8]. Qua đó, bước đầu đã chấn chỉnh, khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xét xử và thi hành án hành chính trên địa bàn tỉnh. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tăng cường phối hợp tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp; phối hợp tổ chức kiểm tra định kỳ nhà tạm giữ, trại tạm giam; giám sát hoạt động xét xử của Tòa án, công tác thi hành án, hoạt động công chứng và việc xử lý tin báo, tố giác tội phạm… Qua đó, phát hiện, kiến nghị các cơ quan tư pháp khắc phục kịp thời những sai sót trong tố tụng. Tổ chức khảo sát đối với 15/15 huyện, thành phố về hoạt động mô hình “Nhóm nòng cốt” và “Câu lạc bộ pháp luật” trong việc thực hiện Đề án “Tiếp tục xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư giai đoạn 2013-2016”.

    Bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng hoạt động tố tụng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang cũng có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là việc tranh tụng của người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng. Trình độ, năng lực của một số cán bộ, công chức tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; đội ngũ Điều tra viên, Thẩm phán còn thiếu. Số lượng, chất lượng luật sư và giám định viên tư pháp còn hạn chế; đội ngũ luật sư, tổ chức hành nghề luật sư phân bổ không đồng đều; còn thiếu luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt động của các cơ quan tư pháp, nhất là ở cấp huyện một số nơi còn thiếu... 

    Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục hạn chế, khuyết điểm qua 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kiên Giang cần thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới như sau:

    Một là, tiếp tục chỉ đạo thực hiện Kết luận số 92-KL/TW, ngày 12-3-2014 của Bộ Chính trị; Kế hoạch số 01-KH/BCĐ, ngày 03-10-2016 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh về việc thực hiện chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2016-2021 trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch phối hợp về thông tin, tuyên truyền, phổ biến chủ trương, nhiệm vụ cải cách tư pháp và hoạt động tư pháp giai đoạn 2016-2020.

    Hai là, tiếp tục kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp và tổ giúp việc cho Ban Chỉ đạo các cấp. Các cấp ủy đảng thực hiện nghiêm các quy định của Trung ương về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp ở địa phương.

    Ba là, tập trung củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở các cơ quan tư pháp; tăng cường quản lý, giáo dục chính trị tư tưởng và đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp vững vàng về tư tưởng, chính trị, có trình độ năng lực và có đạo đức nghề nghiệp; tiếp tục triển khai thực hiện Đề án vị trí việc làm gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.

    Bốn là, các cơ quan tư pháp cần chủ động phối hợp chặt chẽ, tham mưu cho cấp ủy tập trung xử lý có hiệu quả tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Cần chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

    Năm là, tiếp tục tranh thủ nguồn vốn đầu tư xây dựng, nâng cấp và sửa chữa trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp, đầu tư xây dựng mới trụ sở làm việc đối với những nơi chưa được đầu tư xây dựng, mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho công tác tư pháp.

    Sáu là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia giám sát đối với hoạt động tư pháp, qua đó, kiến nghị với các cơ quan tư pháp khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm trong hoạt động tư pháp.

Phan Bá

Video liên quan

Chủ Đề