Hay trình bày cách sơ cứu một người không máy uống nhầm phải thuốc trừ sâu

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa I Huỳnh Kim Long - Bác sĩ hồi sức cấp cứu - Khoa Hồi sức Cấp cứu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Bác sĩ Huỳnh Kim Long có nhiều kinh nghiệm trong điều trị Hồi sức – Cấp cứu và Đột quỵ não cấp ở người lớn.

Ngộ độc thuốc hay ngộ độc thức ăn sẽ gây mệt mỏi cả thể chất lẫn tinh thần cho bệnh nhân, nếu nặng thậm chí có thể dẫn tới tử vong. Do đó, trang bị kiến thức về các bước sơ cứu khi bị ngộ độc và xử trí ngộ độc là điều rất cần thiết.

Ngộ độc có thể là do nuốt, hít, chạm hoặc tiêm các loại thuốc, hóa chất, nọc độc và khí độc. Ngộ độc thuốc, ngộ độc thức ăn hay bất kỳ dạng ngộ độc nào khác đều có nguy cơ gây tổn thương các cơ quan và thậm chí khiến nạn nhân tử vong.

Một số chất như thuốc và khí carbon monoxide chỉ gây độc khi tiếp xúc với nồng độ và liều lượng cao. Những hóa chất khác, chẳng hạn như xà phòng tẩy rửa, chỉ nguy hiểm với con người nếu cho vào miệng thay vì tiếp xúc qua da. Đặc biệt, trẻ em là đối tượng cực kỳ nhạy cảm khi bị ảnh hưởng bởi một lượng nhỏ các loại thuốc và hóa chất nhất định.

Phụ huynh cần lưu ý rằng trẻ nhỏ có thể bị ngộ độc bởi những thứ thường không được xem là chất độc nguy hiểm, bao gồm:

  • Mỹ phẩm trang điểm;
  • Các sản phẩm chăm sóc cá nhân như dầu tắm gội, sữa dưỡng thể và nước hoa;
  • Dung dịch tẩy rửa, kể cả bao bì của gói bột giặt;
  • Cây cỏ thực vật;
  • Các vật dụng như đồng hồ hoặc pin dạng nút.

Người bị ngộ độc thường có triệu chứng nôn, khó thở và buồn ngủ

Các dấu hiệu ngộ độc phổ biến là:

  • Bỏng hoặc tấy đỏ quanh miệng và môi;
  • Hơi thở có mùi của hóa chất, chẳng hạn như mùi xăng hoặc mùi sơn nhẹ;
  • Nôn, khó thở và buồn ngủ;
  • Lú lẫn hoặc thay đổi trạng thái tinh thần.

Những biểu hiện trên thường dễ bị nhầm lẫn với các tình trạng khác, chẳng hạn như co giật, nhiễm độc rượu, đột quỵ hay phản ứng với insulin. Do đó nếu nghi ngờ một người bị ngộ độc, cần tìm kiếm thêm những manh mối liên quan để xác định. Ví dụ như ngộ độc thuốc sẽ có chai hoặc gói thuốc rỗng, thuốc vương vãi rải rác, hoặc vết bỏng, vết bẩn và mùi hôi trên người nạn nhân hay khu vực xung quanh. Khi một đứa trẻ có những dấu hiệu kể trên, nên cân nhắc đến khả năng có thể bé đã ăn phải miếng dán giảm đau hoặc vô tình nuốt pin cúc áo.

Gọi số khẩn cấp 115 cho bệnh viện ngay lập tức nếu nạn nhân có dấu hiệu:

  • Buồn ngủ hay bất tỉnh;
  • Khó thở hoặc ngừng thở;
  • Không kiểm soát được bồn chồn hoặc kích động;
  • Bị co giật;
  • Phát hiện nạn nhân đã cố ý hoặc vô tình uống thuốc hoặc dùng bất kỳ loại hóa chất nào khác quá liều.

Ngoài ra, nên liên lạc với trung tâm kiểm soát phòng chống độc gần nhất trong tình huống người bệnh ổn định và không có triệu chứng, hoặc chuẩn bị chuyển người bệnh đi cấp cứu tại cơ sở y tế địa phương.

Cần nắm rõ các triệu chứng, độ tuổi, cân nặng của nạn nhân, cũng như các loại thuốc khác mà họ đang dùng và bất kỳ thông tin nào có được về chất độc để sẵn sàng trình bày cho bác sĩ.

Cố gắng xác định liều lượng và thời gian nạn nhân tiếp xúc với chất độc. Nếu có thể, nên mang theo bao bì của loại thuốc hoặc hóa chất nghi ngờ để cung cấp thêm thông tin cho nhân viên y tế ở trung tâm kiểm soát chất độc.

Bắt đầu hô hấp nhân tạo nếu người bị ngộ độc không có dấu hiệu của sự sống

Trong khi chờ sự trợ giúp y tế, với từng trường hợp ngộ độc có thể thực hiện các bước sơ cứu khi bị ngộ độc như sau:

  • Trường hợp nuốt phải chất độc: Loại bỏ tất cả tạp chất còn sót lại trong miệng của nạn nhân. Nếu nghi ngờ chất độc là chất tẩy rửa gia dụng hoặc một số loại hóa chất khác, cần đọc thông tin trên nhãn của bao bì và làm theo hướng dẫn xử trí ngộ độc do tai nạn nếu có;
  • Trường hợp chất độc trên da: Cởi bỏ quần hoặc áo đã bị dính chất độc bằng găng tay. Rửa sạch da trong vòng 15 - 20 phút dưới vòi nước chảy;
  • Trường hợp chất độc trong mắt: Nhẹ nhàng rửa mắt bằng nước mát hoặc nước ấm trong ít nhất 15 phút hoặc cho đến khi có sự giúp đỡ từ các nhân viên y tế;
  • Trường hợp hít phải chất độc: Đưa nạn nhân vào nơi có không khí trong lành càng sớm càng tốt.
  • Nghiêng đầu nạn nhân sang một bên nếu có nôn để tránh nghẹn;
  • Bắt đầu hô hấp nhân tạo nếu người bị ngộ độc không có dấu hiệu của sự sống, chẳng hạn như cử động, thở hoặc ho.
  • Gọi cho bệnh viện hoặc trung tâm kiểm soát chất độc trong khu vực để được hướng dẫn thêm;
  • Mang chai, gói thuốc hoặc bao bì có nhãn và tất cả thông tin có liên quan đến chất độc để gửi cho đội cứu thương cùng với nạn nhân.

Trong quá trình xử trí ngộ độc, cần dựa vào những triệu chứng và độ tuổi của người bệnh, cũng như loại chất gây ngộ độc và mức độ nhiễm độc để tiến hành chính xác các bước sơ cứu khi bị ngộ độc.

Nếu nghi ngờ trẻ đã nuốt pin cúc áo cần đi chụp X-quang khẩn cấp để xác định vị trí của dị vật

Để ngăn ngừa ngộ độc thuốc hoặc ngộ độc thức ăn, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, phụ huynh cần lưu ý thận trọng với các sản phẩm và vật dụng khuyến cáo để xa tầm tay trẻ em. Một số ví dụ điển hình bao gồm:

Không nên tùy tiện sử dụng siro Ipecac hoặc cố tình móc họng để gây nôn. Các chuyên gia không khuyến cáo sử dụng ipecac ở cả trẻ em lẫn người lớn - những đối tượng đã uống thuốc hay dùng các chất có khả năng gây độc. Đến nay vẫn chưa có bằng chứng cho thấy tính hiệu quả của loại thuốc này và thường là gây hại nhiều hơn. Do đó phụ huynh nên bỏ ngay những chai siro Ipecac cũ còn chứa trong nhà.

Đây là loại pin tròn, nhỏ có dạng nút được sử dụng trong đồng hồ và các thiết bị điện tử khác, chúng đặc biệt nguy hiểm với trẻ nhỏ. Một cục pin bị kẹt trong thực quản có thể gây bỏng nặng chỉ trong vòng 2 giờ.

Nếu nghi ngờ một đứa trẻ đã nuốt phải loại pin này, cần lập tức đưa bé đi chụp X-quang khẩn cấp để xác định vị trí của dị vật. Các biện pháp loại bỏ chuyên môn sẽ được tiến hành nếu pin nằm trong thực quản. Trong trường hợp pin đã đi vào dạ dày, thải dị vật qua đường ruột thường sẽ an toàn hơn.

Nếu phát hiện trẻ đang cầm một miếng dán giảm đau, lập tức lấy lại và kiểm tra cẩn thận da của bé, gỡ miếng dán nếu chúng dính vào cơ thể bé. Ngoài ra cũng nên kiểm tra vòm miệng để tránh bị mắc kẹt do trẻ đã mút miếng dán.

Nếu nghi ngờ về nguy cơ xảy ra ngộ độc, hãy gọi số cấp cứu 115 hoặc liên hệ với trung tâm kiểm soát phòng chống độc tại khu vực đang sinh sống để được trợ giúp. Các nhân viên y tế có thể hỗ trợ cung cấp thông tin về chất độc, hướng dẫn các bước sơ cứu khi bị ngộ độc, hoặc đưa ra lời khuyên cần thiết để tiếp tục theo dõi nạn nhân tại nhà trong từng tình huống cụ thể.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 [phím 0 để gọi Vinmec] hoặc đăng ký lịch khám tại viện TẠI ĐÂY. Nếu có nhu cầu tư vấn sức khỏe từ xa cùng bác sĩ Vinmec, quý khách đặt lịch tư vấn TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn

Nguồn tham khảo: mayoclinic.org

Ăn khoai tây mọc mầm: Giao tính mạng cho tử thần!

XEM THÊM:

Có rất nhiều loại thuốc trừ sâu, nhưng ở Việt Nam thường dùng nhất là nhóm kháng men cholinesterase gồm: phân hữu cơ carbamat.

Các loại thuốc trừ sâu trên dùng để diệt sâu bọ nhưng vì một lý do nào đó [do tiếp xúc, hít phải, uống...] thuốc vào cơ thể gây nhiễm độc làm tổn thương cơ thể do hoạt động hóa học của chất đó. Nhưng chất độc do hít và uống phải thường gặp nhất và gây nguy hiểm cho cơ thể. Vào cơ thể thuốc hấp thụ nhanh vào máu và hoà tan trong máu gây ra các triệu chứng ngộ độc rất nhanh và rất nguy hiểm. ặc biệt là nhóm phospho hữu cơ và carbamat. Nhóm này được gọi là nhóm kháng men cholinesterase trong huyết tương và hồng cầu, gây tăng acetylcholin máu. Acetylcholin là một chất dẫn truyền thần kinh.

Do việc phát triển và sử dụng các thuốc này ngày càng phổ biến, nên việc trúng độc cấp loại thuốc này ngày càng nhiều ở nước ngoài cũng như trong nước. Các chất phospho hữu cơ có thể gây ra các triệu chứng trầm trọng chết người. Do đó trúng độc phospho hữu cơ là một loại trúng độc nguy hiểm vì vậy cần  được  chẩn đoán sớm và  điều trị kịp  thời,  đúng và đầy đủ mới  tránh  được tử vong.

ở những người bị nhiễm độc mạn thường có nồng độ nhiễm độc thấp hơn người chưa từng bị ngộ độc. ở người già, phụ nữ có thai và có sẵn bệnh mạn thường bị ngộ độc nặng hơn người bình thường.

Ngộ độc thuốc trừ sâu do làm giảm men  cholinesterase  và  tăng acetylcholin trong máu gây ra các triệu chứng ngộ độc nặng dẫn đến tử vong nhanh chóng do các triệu chứng suy hô hấp, ức chế thần kinh trung ương, liệt cơ hô hấp. Clo hữu cơ chủ yếu gây độc qua đường hô hấp và tiêu hoá, tác dụng chủ yếu lên thần kinh trung ương gây hôn mê co giật, ức chế hô hấp: sau đợt có thể gây rối loạn tâm thần và run tay chân trong nhiều tháng.

Cơ chế bệnh sinh

Sự dẫn truyền qua synap:

Khi neuron bị kích thích, tế bào khử cực, xung động được dẫn truyền theo sợi trục đến mút tận cùng, tại đây xung động tạo nên một kích thích mới làm cho các túi chứa acétylcholin chuyển động Brown va vào nhau và vỡ ra để giải phóng acétylcholin. Acétylcholin đi qua khe synap đến tiếp xúc với recepter của màng sau synap [màng tế bào cơ ...], gây khử cực tại đây và gây co cơ.

ở khe synap, sau khi gây khử cực ở màng sau synap, acétylcholin bị acétylcholinestérase phân hủy thành acetat và Cholin mất tác dụng, kết thúc quá trình khử cực.

Thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ tác động thông qua cơ chế sau.

Cơ chế gián tiếp

Thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ vào cơ thể phối hợp với acetylcholinestérase thành một phức thể bền, tốc độ phân ly xem như bằng không. Do đó acetylcholinestérase mất hẳn tác dụng thủy phân acetylcholin.

Acetylcholinestérase bị bất hoạt hóa, chỉ được bù lại do sự tân tạo acetylcholinestérase, sự tái tạo này xảy ra rất chậm sau nhiều ngày, có thể hàng tuần, thậm chí hàng tháng.

Acetylcholin không được acetylcholinestérase phân huỷ do bị mất hoạt hoá, acetylcholin tích tụ lại ở những nơi bình thường được tiết ra trong trạng    thái bị kích thích cũng như trong trạng thái nghĩ đó là:

Giao thoa thực hành của toàn hệ đối giao cảm.

Giao thoa hạch giao cảm [cả trực và đối giao cảm] và tấm vận động

Giao thoa liên thần kinh trung ương

Cơ chế tác dụng trực tiếp

Trên các vị trí tiếp thụ acetylcholin. Nếu thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ nồng độ cao và tác dụng kéo dài thì có thể làm cho tấm vận động thoái hóa khó hồi phục.

Kết quả tác dụng của thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ

Do cơ chế tác dụng ức chế men cholinesterase không hồi phục, phospho hữu cơ tạo ra 3 loại tác dụng sau:

Tác dụng dạng Muscarin

Là kết quả tác dụng kích thích lên các giao thoa thực hành đối giao cảm gây ra những dấu chứng hưng phấn đối giao cảm trên các cơ trơn, các tuyến, tim... Hệ thần kinh trung ương chịu tác dụng này không đặc hiệu. [Kích thích hay ức chế]

Tác dụng dạng Nicotine

Là kết quả tác dụng trên các giao thoa hạch giao cảm và tấm vận động cơ vân trong đó quan trọng nhất là cơ hô hấp. Tác dụng nicotin có tính kích thích lúc ban đầu, kéo dài một thời gian ngắn, nhưng sau đó lại làm liệt các cơ quan chịu ảnh hưởng khi sự nhiễm độc nặng và kéo dài.

Tác dụng trên thần kinh trung ương

Có tính kích thích rồi làm liệt khi cường độ và thời gian nhiễm độc tăng.

Quan trọng nhất là tác dụng trên các trung tâm sinh thực.

Tác dụng dạng Muscarin được trung hòa dễ dàng bởi atropin. Tác dụng nicotin chịu ảnh hưởng rất ít của atropin.

Tác dụng thần kinh trung ương chịu ảnh hưởng khá tốt của atropin.

Triệu chứng lâm sàng

Phần lớn các thuốc trừ sâu gốc phospho hữu cơ đều tan mạnh trong Lipit, nên chúng được hấp thụ dễ dàng qua da và niêm mạc như niêm mạc mắt, tiêu hóa, hô hấp, chúng thường được dùng dưới dạng khí dung sau khi đã pha loãng.

Thuốc xâm nhập bằng mọi đường:

Da, niêm mạc, nhất là khi có sẵn tổn thương như dùng để xức ghẻ, bắn vào mắt, tiếp xúc da khi sử dụng thuốc

Hô hấp: như hít phải hơi thuốc khi mở bình thuốc kín, hít phải khí dung khi bơm thuốc

Tiêu hóa: do tự tử hay uống nhầm.

Sự hấp thụ bằng mọi đường kể trên rất dễ dàng, rất nhanh và hoàn toàn. Nhanh nhất là qua đường hô hấp, chậm nhất là qua da. Chúng có thể bị trung hòa phần nào bởi chất kiềm và Hypochlorite.

Trong cơ thể chúng bị thoái biến bởi các men thủy phân và oxy hóa, nhất là trong gan, nhưng sự thoái biến này rất chậm. ối với chất phospho hữu cơ đã phối hợp với acetylcholinestérase, chỉ thải dưới dạng đã thoái biến thành Paranitrophenol.

Độc tính: trong các phospho hữu cơ thì Thiophot [Parathion] có độc tính  lớn nhất, trung bình là Méthyl parathion [Wolfatox] và nhẹ hơn là Malathion.

Ví dụ: liều ngộ độc của Parathion là < 5 mg/kg thể trọng, Méthyl parathion là 5- 50  mg/kg  thể  trọng,  Malathion  là  50-500  mg/kg  thể  trọng.  Độc  tính  này  tăng gấp lên hàng chục lần khi hai thứ thuốc được phối hợp với nhau.

Mắt

Có dấu Muscarine rõ nhất, sung huyết kết mạc, teo đồng tử có thể rất mạnh bằng đầu kim găm, nhưng vẫn còn đáp ứng với ánh sáng, hỗn loạn điều tiết, giảm áp lực nội nhãn. Dấu teo đồng tử là dấu Muscarine rất nhạy nên có thể là một trong những dấu để đánh giá độ trầm trọng lúc ban đầu, trừ trường hợp mắt bị tác dụng trực tiếp của trừ sâu do thuốc bắn trực tiếp vào mắt thì dấu này sớm và nặng nhưng có thể dấu nhiễm độc toàn thân không nặng.

Da

Cũng là nơi biểu hiện dấu dạng Muscarine rõ, sung huyết, chảy mồ hôi.

Tiêu hóa

Dấu chứng dạng Muscarine là chủ yếu. Tiết nước bọt rất nhiều, tăng tiết dịch tiêu hóa nhất là dịch dạ dày, tăng nhu động, co thắt gây đau quặn bụng, khó nuốt, buồn nôn, nôn. Nếu trúng độc trầm trọng có ảnh hưởng đến thần kinh trung ương thì có dấu đại tiện vô ý thức.

Dấu hô hấp

Biểu hiện 3 loại tác dụng: Muscarine, Nicotine, thần kinh trung ương.

Tác dụng Muscarine làm tăng tiết dịch phế quản gây ho, tăng tiết đàm dãi, bít phế quản gây khó thở, nghe ran nổ ướt to nhỏ hạt, đồng thời làm co thắt cơ trơn phế quản gây khó thở thêm.

Tác dụng Nicotine giai đoạn làm liệt sẽ làm liệt cơ hô hấp gây suy hô hấp nặng. Tác dụng này cũng làm nhũn lưỡi gây bít đường hô hấp.

Tác dụng thần kinh trung ương giai đoạn liệt sẽ làm liệt trung tâm hô hấp, tăng các tác dụng nói trên.

Suy hô hấp cấp, biểu hiện tất nhiên của trúng độc nặng, nguyên nhân tử vong chính

Dấu tuần hoàn

Cũng biểu hiện phối hợp 3 loại tác dụng.

Tác dụng Muscarine làm mạch chậm, huyết áp hạ.

Tác dụng Nicotine và thần kinh trung ương: gây cường trực giao cảm và kích thích các trung tâm điều hòa tim mạch, ít nhất là trong giai đoạn kích thích đưa đến mạch nhanh, huyết áp cao. Trong giai đoạn liệt của tác dụng Nicotine, thần kinh trung ương, các dấu chứng có thể ngược chiều trở lại đó là trụy tim mạch.

Dấu cơ vân

Biểu hiện tác dụng nicotin và thần kinh trung ương.

Giai đoạn kích thích: rung cơ, thật sự là rung các thớ cơ là một dấu chứng quan trọng cho biết trúng độc khá trầm trọng, cần tìm kỹ để phát hiện nhất là cơ ngực, bụng, cánh tay, vai và đùi. Cần phân biệt với rung cơ vì lạnh.

Giai đoạn liệt cơ: yếu cơ rồi đến liệt cơ, quan trọng nhất là cơ hô hấp.

Nếu trúng độc kéo dài, làm tấm vận động bị thoái hóa thì liệt cơ sẽ kéo dài rất lâu.

Dấu thần kinh trung ương

Biểu hiện do cả 3 loại tác dụng:

Muscarine và nicotin gây thiếu oxy não, và tác dụng thần kinh trung ương trực tiếp của phospho hữu cơ.

Trong giai đoạn đầu là kích thích, bất an, co giật.

Trong giai đoạn cuối, giảm phản xạ gân xương, rồi mất phản xạ, hôn mê, liệt các trung tâm thần kinh sinh thực.

Sốt có thể xảy ra do chứng nhiễm độc thần kinh trung ương của phospho hữu cơ.

Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

Căn cứ vào hỏi bệnh, hỏi thân nhân bệnh nhân nhất là dựa vào mùi hôi

đặc biệt của thuốc trừ sâu trong hơi thở, trong chất mửa, trên áo quần, da bệnh nhân, dựa vào các dấu chứng lâm sàng đặc hiệu, nhất là dấu Muscarine có phối hợp hay không với dấu nicotin và thần kinh trung ương.

Cận lâm sàng cần cho những trường hợp nhẹ, không rõ loại ngộ độc bằng cách định lượng butyrocholinestérase trong huyết tương hay acetylcholinestérase trong hồng huyết cầu. Thật ra, sự giảm hai tỉ  lệ  này không phản ánh trung  thực, mà tỷ lệ acetylcholinestérase trong các mô là tỷ lệ quyết định độ trầm trọng của sự trúng độc.

Tỉ lệ cholinesterase giảm dưới 30% là ngộ độc  nhẹ.

Tỉ lệ cholinesterase giảm dưới 50% là ngộ độc vừa.

Tỉ lệ cholinesterase giảm trên 70% là nặng.

Chẩn đoán độ trầm trọng

Dựa vào hỏi bệnh

Thể trạng bệnh nhân.

Đường nhiễm độc, nặng nhất là đường uống và bụng đói.

Lượng thuốc đã xâm nhập cơ thể.

Điều kiện trúng độc [tự độc, hay ngộ độc]

Thời gian từ lúc nhiễm độc đến lúc được loại bỏ thuốc ra khỏi cơ thể [súc dạ dày] và được điều trị đúng mức.

Điều trị tuyến dưới tốt hay không

Nói tóm lại, tất cả những điều kiện nào làm cho lượng thuốc ngấm vào cơ thể càng nhiều, điều trị đúng mức càng chậm, càng làm tăng độ trầm trọng.

Chẩn đoán độ trầm trọng còn căn cứ vào dấu lâm sàng, các dấu Nicotine và thần kinh trung ương nặng thì độ trầm trọng càng cao.

Sự giảm tỷ acetylcholinesterase không phản ánh hoàn toàn trung thực độ trầm trọng của trúng độc.

Hỏi bệnh nhân và khám lâm sàng kỹ có thể ước tính độ trầm trọng khá

đúng đắn.

Dựa vào các dấu hiệu lâm sàng

Mức độ nhẹ: dấu Muscarine nhẹ hay đơn thuần.

Mức độ vừa: dấu Muscarine nặng kết hợp với dấu nicotin và dấu thần kinh trung ương vừa.

Mức độ nặng: dấu nicotin và thần kinh trung ương nặng, dấu Muscarine có thể có hay không. Hoặc dấu trúng độc vừa kết hợp với yếu tố nặng do hỏi bệnh.

Tiến triển

Không điều trị

Có thể tự lành nếu trúng độc nhẹ.

Nếu là trúng độc khá nặng thì các dấu chứng sẽ tăng dần đưa đến hôn mê, suy hô hấp và có thể tử vong hoặc để lại di chứng nặng nề.

Có điều trị đúng mức

Các dấu Muscarine giảm và biến mất trước, sau đó hai dấu chứng Nicotine và thần kinh trung ương cũng thuyên giảm dần. Nhưng nếu trúng độc quá trầm trọng hay điều trị chậm, thì ban đầu các dấu chứng Muscarine giảm, bệnh nhân có thể tỉnh lại, nhưng sau đó các dấu Nicotine và thần kinh trung ương ngày càng nặng và đưa đến suy hô hấp và tử vong. Nguyên nhân tử vong chính là suy hô hấp trong hầu hết các trường hợp.

Xử trí

Loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể bằng mọi biện pháp

Tắm rửa gội đầu thay quần áo.

Rửa dạ dày [nếu do thuốc uống] nhiều lần, nhiều nước có pha muối. Sau rửa dạ dày bơm than hoạt vào, cần cho thêm nhuận tràng.

Truyền dịch cho lợi tiểu.

Hồi sức

Bằng biện pháp hút đàm và dịch qua miệng hoặc nội khí quản.

Để bệnh nhân ở tư thế dẫn lưu tốt, cho thở oxy và hô hấp hỗ trợ [nếu cần].

Thuốc kháng độc và kháng triệu chứng

Atropin sulfat: là loại thuốc chống lại các tác dụng của muscarin.

Atropin làm giãn đồng tử, khô dịch ở phế quản, làm hồng và ấm da, mạch nhanh. Vì vậy atropin là thuốc chính điều trị ngộ độc thuốc trừ sâu loại phospho hữu cơ và carbamat.

P.A.M [pyridinealdoxime methylchloride]: là một chất đối kháng hoá học với phospho hữu cơ, P.A.M giải phóng và phục hồi lại men cholinesterase trong máu đã bị phospho hữu cơ ức chế.

Loại bỏ chất độc đã được hấp thu qua đường thận bằng thuốc lợi tiểu: sử dụng dịch truyền và thuốc lợi tiểu qua đường tĩnh mạch.

Dinh dưỡng và chống bội nhiễm:

Dinh dưỡng: đầy đủ năng lượng 2000-3000 calo và giàu vitamin.

Vệ sinh thân thể, tắm gội và thay quần áo phòng thuốc ngấm qua da.

Cho kháng sinh nếu: sốt, đàm đặc trắng, viêm nhiễm ở phổi, bàng quang.

Phòng nhiễm độc

Bảo quản và quản lý thuốc theo chế độ bảo quản hoá chất gây độc.

Với những nhân viên tiếp xúc với hoá chất trừ sâu, kể cả nhân viên y tế cấp cứu bệnh nhân ngộ khẩu trang, ủng nilon, áo bảo hộ... khi phun thuốc, người phun phải đứng xuôi chiều gió.độc, giai đoạn xử trí cấp cứu [rửa dạ dày]. Phải có đủ phương tiện phòng chống như:

Nhận định tình trạng bệnh nhân

Nhận định bằng cách hỏi bệnh

Hỏi xem bệnh nhân ngộ độc thuốc gì?

Số lượng, đường trúng độc.

Nồng độ đậm đặc hay pha loãng

Uống lúc đói hay lúc no.

Thời gian, lý do?

Các bệnh lý đã mắc trước đây.

Tình trạng nôn sau khi trúng độc.

Thời gian từ khi trúng độc đến khi được cấp cứu.

Đã được điều trị gì trước đó?

Nhận định bằng cách quan sát

Tình trạng tinh thần?

Nước tiểu: số lượng, màu sắc.

Quan sát da, móng tay, móng chân tím.

Tình trạng tăng tiết.

Tình trạng hô hấp

Đánh giá dấu hiệu thấm atropin.

Nhận định bằng cách thăm khám

Đếm mạch

Đo huyết áp

Nhiệt độ

Đếm nhịp thở

Mùi hôi trên áo quần, trên da, tóc, hơi thở

Đồng tử to nhỏ hay giãn, kích thước?

Đo độ bão hoà oxy máu

Nhận định bằng cách thu thập các vấn đề khác có liên quan

Hoàn cảnh gia đình

Tình trạng trước khi vào viện: được xử trí gì?

Chẩn đoán và chăm sóc của tuyến trước

Chẩn đoán điều dưỡng

Một số chẩn đoán điều dưỡng chính có thể có ở bệnh nhân ngộ độc thuốc trừ sâu:

Nôn, buồn nôn do tăng nhu động ruột.

Khó thở do co thắt cơ trơn phế quản.

Ho do tăng tiết dịch gây kích thích phế quản.

Lập kế hoạch chăm sóc

Bảo đảm hô hấp

Duy trì tuần hoàn

Thực hiện các y lệnh của bác sĩ

Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn

Loại trừ chất độc của cơ thể:

Rửa dạ dày đúng kỹ thuật

Thay áo quần, tắm rửa

Thụt tháo, rửa sạch bằng nước xà phòng

Nuôi dưỡng duy trì các chức năng sống

Giáo dục cách phòng bệnh

Thực hiện kế hoạch chăm sóc

Thực hiện chăm sóc cơ bản

Nhanh chóng loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể: súc rửa dạ dày, thay áo quần sạch, tắm rửa, gội đầu cho bệnh nhân

Đặt bệnh nhân ở tư thế nằm nghiêng an toàn.

Đặt canun đè lưỡi sau khi đã móc đàm dãi hoặc dị vật.

Bóp bóng Ambu nếu có cơn ngừng thở.

Cho thở oxy theo chỉ định của bác sĩ.

Chuẩn bị dụng cụ, thuốc men để phụ giúp bác sĩ đặt nội khí quản.

Theo dõi nhịp thở, tình trạng tăng tiết, da, môi, móng tay, chân.

Hút đàm dãi.

Đề phòng hít phải chất nôn.

Đề phòng tụt lưỡi.

Lấy mạch, đo huyết áp ngay khi tiếp nhận bệnh nhân và báo cáo bác sĩ.

Chuẩn bị ngay dụng cụ truyền dịch, dịch đẳng trương, thuốc nâng huyết áp [nếu bệnh nhân tụt huyết áp].

Chuẩn bị bộ cathete tĩnh mạch trung tâm và phụ giúp bác sĩ tiến hành đặt cathete tĩnh mạch trung tâm nhằm truyền khối lượng dịch lớn và theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm.

Theo dõi mạch, huyết áp, nhịp thở thường xuyên mỗi 15 phút hoặc theo chỉ định của bác sĩ điều trị.

Đặt bệnh nhân ở tư thế thích hợp, sớm sử dụng các phương tiện phòng chống loét nếu bệnh nhân hôn mê.

Vệ sinh hàng ngày: bệnh nhân tỉnh tự phục vụ được chỉ cần giúp bệnh nhân. Nếu bệnh nhân hôn mê: cần chăm sóc răng miệng ít nhất ngày 3 lần. Rửa mặt bằng khăn riêng và nhỏ mắt bằng cloramphenicol 4%. Phần hậu môn, sinh dục cần được lau rửa thường xuyên sau mỗi lần đại tiện. Khăn, giường chiếu luôn giữ khô và phẳng. Hút đàm dãi thường xuyên.

Ăn uống: lượng nước uống của bệnh nhân phải nhiều hơn bình thường để chất độc được đào thải nhanh. Tuy nhiên lượng nước đó cũng phải tính toán trên cơ sở cân bằng lượng nước vào cơ thể. Thức ăn kiêng mỡ, sữa và rượu ít nhất là 10 ngày.

Nhiều bệnh nhân ngộ độc thuốc sâu khi dùng atropin bị kích thích vật vã nên dễ ngã, đề phòng ngã bằng cách nằm giường có thành chắn.

Nhỏ thuốc mắt nhiều lần trong ngày đề phòng khô giác mạc, nhiễm khuẩn mắt.

Thực hiện y lệnh của bác sĩ

Thuốc: thực hiện chính xác, đầy đủ, khẩn trương.

Atropin: trước khi tiêm cần lấy mạch, xem đồng  tử,  da,  tình  trạng tinh thần kinh. Nếu có dấu hiệu thấm atropin hoặc mạch trên 120 lần /phút, kích thích vật vã phải báo cáo ngay với bác sĩ để điều chỉnh liều thuốc.

P.A.M 1 ống 0, 5g tiêm tĩnh mạch thật chậm trong 5 phút.

Dịch truyền, kháng sinh...

Các xét nghiệm

Các thủ thuật can thiệp trên bệnh nhân.

Phụ giúp đặt nội khí quản, mở khí quản để dẫn lưu đàm và bảo đảm  thông khí.

Phụ giúp đặt catete tĩnh mạch trung tâm để truyền dịch với khối lượng lớn và theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm.

Đặt thông tiểu, dẫn lưu nước tiểu theo dõi lượng nước tiểu 24 giờ.

Đặt thông dạ dày.

Tuỳ từng loại thủ thuật người điều dưỡng phụ giúp bác sĩ làm hoặc  trực  tiếp tiến hành và sau đó chăm sóc theo quy trình, nhằm mục đích điều trị và chăm sóc không có tai biến, không có nhiễm khuẩn và có hiệu quả.

Theo dõi

Mạch, độ ấm của da

Đồng tử: kích thước, mức độ đáp ứng ánh sáng

Trạng thái tinh thần

Huyết áp

Nhịp thở

Theo dõi dấu hiệu no atropin

Màu sắc số lượng nước tiểu 24 giờ

Theo dõi lượng dịch vào, ra để đảm bảo cân bằng dịch

Theo dõi tình trạng hô hấp

Các dấu hiệu loét da và các bất thường khác.

Giáo dục sức khoẻ

Phân tích cho họ thấy được tác hại của thuốc, cách bảo quản thuốc, đề phòng ngộ độc và cách sử dụng thuốc dùng.

Nếu bệnh nhân ngộ độc do tự tử, điều dưỡng giúp bệnh nhân và gia đình họ giải quyết mâu thuẫn gây ra ngộ độc là điều cần thiết ngay trong khi bệnh nhân đang điều trị để ngăn ngừa lần ngộ độc tiếp theo.

Đánh giá

Bệnh nhân được đánh giá chăm sóc tốt nếu đạt các tiêu chuẩn:

Đầu, tóc, da, dịch dạ dày, giường chiếu không có mùi thuốc sâu

Các y lệnh điều trị được thực hiện đầy đủ, chính xác

Các xét nghiệm được làm và thu thập đầy đủ, sớm

Các dấu hiệu sinh tồn dần dần trở về mức bình thường và ổn định

Bệnh nhân hiểu được nguy cơ của thuốc và biết được cách phòng trúng độc

Không có biến chứng xảy ra. Trong quá trình điều trị bệnh nhân không bị trợt loét, không mắc thêm nhiễm khuẩn nhất là nhiễm khuẩn hô hấp.

Nếu được điều trị bằng atropin, bệnh nhân có dấu hiệu thấm atropin vừa phải.

Các chỉ số theo dõi và chăm sóc được ghi chép đầy đủ.

Video liên quan

Chủ Đề