Em hãy nêu chính sách đối nội đối ngoại của pháp

Mục lục bài viết

  • 1. Đảng, Nhà nước Việt Nam có chính sách đối nội gì để bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền?
  • 1.1. Tăng cường và mở rộng dân chủ
  • 1.2. Phát huy nhân tố con người, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội
  • 1.3. Bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc, hoàn thiện khuôn khố pháp lý vê nhân quyền, quyền công dân
  • 1.4. Ngăn ngừa và trừng trị những hành vi vi phạm nhân quyên, quyên công dân
  • 1.5. Tăng cường hoạt động giáo dục, phổ biến về nhân quyền, quyền công dân
  • 2. Đảng, Nhà nước Việt Nam có chính sách đối ngoại gì để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người?

Thưa luật sư, Nhân quyền là một vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia trogn thời kỳ hội nhập. Đảng cộng sản Việt Nam đã có những chính sách đối nội và đối ngoại như thế nào liên quan tới vấn đề Nhân quyền ở Việt Nam? Rất mong nhận được hồi đáp từ luật sư. Xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: Nguyễn Thảo - Nam Định

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê

>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900.6162

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Đảng, Nhà nước Việt Nam có chính sách đối nội gì để bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền?

Từ những quan điểm cơ bản về nhân quyền đã nêu ở trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang xây dựng và thực hiện những chính sách nhằm trực tiếp và gián tiếp bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, về phương diện đối nội, có thể khái quát những chính sách cơ bản của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực này như sau:

1.1. Tăng cường và mở rộng dân chủ

Dân chủ và nhân quyền có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vì vậy, để bảo vệ và thúc đẩy có hiệu quả các quyền con người đòi hỏi phải tăng cường và mở rộng hơn nữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ở đây, mọi tiến bộ đạt được trong việc mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa đều là những tiêu chí để đánh giá việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong thực tế và ngược lại.

>> Xem thêm: Phân tích bản chất, đặc trưng, chức năng của nhà nước CHXHCN Việt Nam

Mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là một mục tiêu và hoạt động xuyên suốt của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam kể từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới. Trong mối quan hệ này, Đảng giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo, Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân đồng thời là chủ thể tổ chức thực hiện cương lĩnh, đường lối, chính sách của của Đảng về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi tư tưởng của Đảng về mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện ở việc hoàn thiện và hiện thực hóa cơ chế bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của mọi tầng lớp nhân dân vào tất cả các quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách và quy định pháp luật của Đảng và Nhà nước trên mọi lĩnh vực.

Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu hơn vào đời sống mọi mặt của cộng đồng quốc tế, yêu cầu mở rộng và phát huy dân chủ ngày càng trở lên quan trọng và cấp thiết. Mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa xem là nhân tố quyết đỊnh thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dần và hội nhập quốc tế có hiệu quả. Chính sách của Đảng, Nhà nước trong vấn đề này hiện nay là tiếp tục hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động theo phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước. Để thực hiện cơ chế này, việc bảo đảm sự công khai, minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan và viên chức nhà nước, xây dựng cơ chế phản biện xã hội và giám sát xã hội, từng bước thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở... có ý nghĩa quan trọng. Tất cả những điều này đều trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần bảo đảm sự tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân.

1.2. Phát huy nhân tố con người, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội

Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kể từ ngày thành lập đến nay đã chúng minh rằng nhân tố có ý nghĩa quyết định tạo nên mọi thắng lợi của cách mạng là con người. Chính vì vậy, Cương lĩnh xây dụng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội".

Trong công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước Việt Nam xác định đặt con người vào vị trí trung tâm của các chính sách phát triển; coi con người là vốn quý nhất, chăm lo cho con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ. Mọi chủ trương, chính sách phát triển đều xuất phát từ con người, lấy con người là trung tâm. Tăng trưởng và phát triển kinh tế vì con người, đi đôi với phát triển các mặt về văn hoá, giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ và cải thiện môi trường. Mục tiêu nhất quán của mọi chính sách xã hội do Đảng và Nhà nước đề ra đều hướng trọng tâm vào con người, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội, bảo đảm những nhu cầu tối thiểu nhất của con người là ăn, ở mặc, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, khám chữa bệnh và nâng cao thể chất của con người Việt Nam. Trong những năm tới, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định các vấn đề ưu tiên là bảo đảm tốt hơn phúc lợi xã hội; giải quyết ngày càng nhiều việc làm cho người lao động; tập trung làm tốt công tác xóa đói giảm nghèo; đẩy mạnh công tác bảo hiểm xã hội, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ, nâng cao thể chất của nhân dân; thực hiện dân số, kế hoạch hoá gia đình; đấu tranh với các tệ nạn xã hội; ngăn chặn và đầy lùi các đại dịch như HIV/AIDS, dịch cúm...; bảo vệ môi trường sinh thái, ứng phó kịp thời vói biến đổi khí hậu, đồng thời chú trọng hoàn thiện cơ chế bảo trợ xã hội.

Trong Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện nhân quyền ở Việt Nam, Chính phủ Việt Nam xác định việc thúc đẩy các chính sách xã hội như xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, chăm sóc y tế, giáo dục đào tạo và củng cố hệ thống an sinh xã hội là những ưu tiên quốc gia trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong thời gian tới , trong đó đưa ra những cam kết cụ thê’ về những vấn đề này, bao gồm :

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, chú trọng tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, quan tâm phát triển mạng lưới an sinh xã hội, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo và các nhóm người dễ bị tổn thương, cho các vùng sâu vùng xa;

- Phấn đấu đạt phổ cập trung học cơ sở;

- Chú trọng phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em; đẩy mạnh công tác tuyên truyền chống phân biệt đối xử với nạn nhân của tệ buôn bán phụ nữ, trẻ em, và tạo việc làm, thu nhập cho nạn nhân cúa việc buôn bán phụ nữ, trẻ em chú trọng giải quyết vấn đề lao động trẻ em, đặc biệt là vấn đê’ trẻ em đường phố, bạo hành trẻ em; hợp tác chặt chẽ với các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực trong công tác chống buôn bán phụ nữ, trẻ em, chống tội phạm xuyên quốc gia;

- Tiếp tục chương trình tiêm chủng vắc xin phòng chống 7 bệnh cho trẻ em, chú trọng công tác tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS; quan tâm công tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, sức khoe sinh sản, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng;

>> Xem thêm: Bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

- Đẩy mạnh thực hiện chính sách bình đẳng giới, tuyên truyền xóa bỏ phân biệt đối xử vì lý do giới tính; tạo cơ hội bình đẳng về giáo dục, việc làm và thu nhập cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, phụ nữ người dân tộc thiểu số, đẩy mạnh công tác phòng chống bạo lực gia đình, cộng tác tuyên truyền nhằm thay đổi nhận thức trọng nam khinh nữ.

1.3. Bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc, hoàn thiện khuôn khố pháp lý vê nhân quyền, quyền công dân

Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc cùng sinh sống. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hoá riêng, tạo nên nét đẹp truyền thống trong sự đa dạng, phong phú của nền văn hoá Việt Nam. Trải qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau. Trong công cuộc đổi mới ngày nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách nhất quán là bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, coi đó là một trong những nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng CNXH và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính sách này được thể hiện rõ trong các cương lĩnh, văn kiện của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Đơn cử, Điều 5 Hiến pháp 1992 quy định: "Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số".

Cùng với chủ trương thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân tộc, Nhà nước không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về nhân quyền, quyền công dân. Từ năm 1986 đến nay, Nhà nước đã ban hành hơn 13.000 văn bản pháp luật về mọi lĩnh vực trong đó có nhiều văn bản có ý nghĩa quan trọng với việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Hiện tại, Chính phủ đang triển khai thực hiện các Chiến Iược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Chiến lược cải cách tư pháp, Chương trình cải cách hành chính... nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, bảo đảm có hiệu quả các quyền con người, quyền công dân của mọi người dân. về vấn đề này, trong Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện nhân quyền ở Việt Nam, Chính phủ Việt Nam cam kết tiếp tục chương trình cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế nhằm củng cố Nhà nước pháp quyền đảm bảo tốt hơn quyền làm chủ của công dân, đồng thời xác định việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về nhân quyền, quyền công dân là một trong những ưu tiên quốc gia trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong thời gian tới.

1.4. Ngăn ngừa và trừng trị những hành vi vi phạm nhân quyên, quyên công dân

Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người là mục tiêu và chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, một bộ phận cán bộ nhà nước, kể cả đảng viên, chưa thực sự gương mẫu, tôn trọng và phát huy quyền dân chủ của nhân dân; thậm chí còn một bộ phận lớn có những hành động tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Để củng cố mối quan hệ và tạo lòng tin của nhân dân đối vói Đảng, Nhà nước; chính sách của Đảng; Nhà nước là xử lý nghiêm những hiện tượng vi phạm, kiên quyết cho ra khỏi Đảng và bộ máy Nhà nước những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Để thực hiện được chủ trương này, một trong những mục tiêu của các chiến lược và chương trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật kể trên là hoàn thiện chế độ và trách nhiệm công vụ, thực hiện nguyên tắc cán bộ nhà nước chỉ được phép làm những gì pháp luật quy định, đồng thời xác định cơ chế đền bù thiệt hại/bồi thường nhà nước cho những người bị oan, sai do hoạt động công vụ gây ra.

Song song với việc ngăn ngừa và trừng trị những hành vi vi phạm nhân quyền, quyền công dân, xuất phát từ nhận thức rằng: "Giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước trong mọi tình huống là nhiệm vụ số một, là yêu cầu sống còn của mọi quốc gia. Có ổn định chính trị - xã hội, mới có thể phát triển" , Đảng, Nhà nước Việt Nam đồng thời chủ trương kiên quyết chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, dân chủ quá khích; ngăn chặn mọi mưu toan lợi dụng vấn đề dân chủ và nhân quyền để gây rối, chống phá chế độ.

1.5. Tăng cường hoạt động giáo dục, phổ biến về nhân quyền, quyền công dân

Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, giáo dục, phổ biến về kiến thức về nhân quyền, quyền công dân được coi là biện pháp đầu tiên và có tính chất bền vững, lâu dài để bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Ở Việt Nam, giáo dục, phổ biến về kiến thức về nhân quyền, quyền công dân từ lâu đã được lồng ghép vào chương trình giảng dạy về đạo đức và giáo dục công dân ờ các cấp học phổ thông yà hiện đang được triêh khai ở một số trường đại học. Mặc dù vậy, thực tế cho thấy hoạt động này cần được tiếp tục thúc đẩy để đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của Nhà nước và xã hội.

Trong Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện nhân quyền ở Việt Nam, Chính phủ Việt Nam nhận định: "Mỗi người dân là một chủ thể thụ hưởng các quyền con người và cũng là chủ thể thực hiện các quyền đó. Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng việc nâng cao y thức người dân trong việc thụ hưởng các quyền con người trên cơ sở tuân thủ pháp luật". Cũng trong Báo cáo này, Chính phủ cũng thẳng thắn thừa nhận: "Trình độ và nhận thức của một bộ phận cán bộ Nhà nước, kể cả ở Trung ương và địa phương về nhân quyền còn nhiều hạn chế: không những không nắm được các quy định của luật pháp quốc tế, nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên của các công ước quốc tế về nhân quyền, mà đôi khi còn nắm không chắc các quy định của luật pháp và chủ trương chính sách của Nhà nước, do vậy có nơi có lúc còn để xảy ra các vụ việc vi phạm, làm hạn chế và ảnh hưởng đến việc thụ hưởng quyền của người dân" .

>> Xem thêm: M&A là gì ? Những thương vụ M&A lớn tại Việt Nam

Trên cơ sở những nhận định kể trên, trong Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện nhân quyền ở Việt Nam, Chính phủ Việt Nam cam kết tăng cường năng lực và nâng cao nhận thức về vấn đề nhân quyền cho cán bộ và nhân dân, đồng thời mong muốn các nước và các tổ chức quốc tế tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ Việt Nam trong vấn đề này.

2. Đảng, Nhà nước Việt Nam có chính sách đối ngoại gì để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người?

Bên cạnh chính sách đối nội, Đảng và Nhà nước Việt Nam đồng thời đề ra chính sách đối ngoại nhằm thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam và góp phần thúc đẩy các quyền con người trên thế giới.

Nhìn chung, chính sách đối ngoại của Việt Nam trong lĩnh vực này được dựa trên các nguyên tắc chỉ đạo là việc giải quyết các vấn đề nhân quyền cần thông qua đối thoại hòa bình và trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không áp đặt và đặt điều kiện, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Phương châm hành động mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đề ra là chủ động, tích cực trong các hoạt động hợp tác quốc tế và mờ rộng đối thoại trong lĩnh vực nhân quyền. Cụ thể, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định, cần: "Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì nhân quyền, sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền". Trong Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện nhân quyền ở Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã xác định cần "... kết hợp hài hòa giữa các giá trị phổ quát của các quyền con người và hoàn cảnh đặc thù riêng của quốc gia, tăng cường họp tác quốc tế và mở rộng đối thoại trong lĩnh vực nhân quyền" là một trong những bài học thành công của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Báo cáo nêu rằng: "Việt Nam hết sức coi trọng đối thoại và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền.

Đối thoại và hợp tác quốc tế vừa là đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, vừa giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau; qua đối thoại và hợp tác quốc tế Việt Nam đã giúp bạn bè và cộng đồng quốc tế hiểu hơn về tình hình và hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, vừa là cơ hội để Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, bảo đảm tốt hơn các quyền con người ở Việt Nam và đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ nhân quyền trong khu vực và trên thế giới".

Cũng trong Báo cáo này, Việt Nam cam kết: "... tiếp tục hợp tác với các quốc gia khác, với Liên Hợp Quốc và các cơ quan của tô’ chức này để đảm bảo ngày càng tốt hơn việc thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản của con người trên lãnh thổ Việt Nam và trên toàn thế giới". Cụ thể, Việt Nam cam kết xem xét và rút bảo lưu Điều 5 Nghị định thư về Buôn bán Trẻ em, Mại dâm Trẻ em và Văn hóa phẩm Khiêu dâm Trẻ em của Công ước Quyền Trẻ em; nghiên cứu gia nhập thêm một số công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế, Công ước Chống tra tấn; phê chuẩn Công ước về quyền của Người khuyết tật; Công ước Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung về Trấn áp, Trừng trị tội Buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Thêm vào đó, Việt Nam cũng cam kết thực hiện các nghĩa vụ của các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tham gia tích cực vào hoạt động của một số cơ chế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền như Hội đồng nhân quyền, ủy ban 3 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Hội đồng Kinh tế - Xã hội; tiếp tục đối thoại về nhân quyền vói các nước và các tổ chức quốc tế; xem xét mời các Báo cáo viên đặc biệt về Quyền Lương thực, Chuyên gia Độc lập về Nhân quyền và Đói nghèo, Báo cáo viên về Giáo dục, Chuyên gia Độc lập về Tác động của Nợ nước ngoài đối với việc hưởng thụ quyền vào thăm Việt Nam trong thời gian tới để hiểu thêm về tình hình Việt Nam và hỗ trợ Việt Nam đảm bảo tốt hơn nhân quyền trong các lĩnh vực này . Cuối cùng, như đã đề cập ở trên, Việt Nam bày tỏ sự mong muốn các nước và các tổ chức quốc tế tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ Việt Nam tăng cường năng lực cho cán bộ và người dân, nâng cao nhận thức về vấn đề nhân quyền .

Bên cạnh những hoạt động trong khuôn khổ diễn đàn Liên Hợp Quốc với tư cách là thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam còn tích cực tham gia xây dựng cơ chế nhân quyền khu vực, bao gồm việc thành lập ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền vào tháng 8/2009 và soạn thảo Tuyên ngôn nhân quyền khu vực trên cơ sở Điều 14 Hiến chương ASEAN. Thêm vào đó, trong một số năm gần đây, Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc đối thoại cả song phương và đa phương cấp chính phủ với các nước, các tổ chức quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền, cụ thể như với Hoa Kỳ, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Úc, Liên minh châu Âu... Mục đích của các cuộc đối thoại là giúp các nước có hiểu sâu sắc hơn về hoàn cảnh lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hoá, cũng như hệ thống chính sách, pháp luật và các điều kiện cụ thể’ của Việt Nam, qua đó tìm kiếm đồng thuận, hạn chế bất đồng trong vấn đề nhân quyền. Cũng với mục đích này, trong những năm gần đây, Nhà nước Việt Nam đã tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, vận động ngoại giao nhằm đề cao các thành tựu nhân quyền ở Việt Nam, trong đó bao gồm việc chủ động đăng cai các hội nghị, hội thảo quốc tế về nhân quyền.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

>> Xem thêm: Tìm hiểu về tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp ?

Trân trọng./.

Luật Minh Khuê - Sưu tầm & biên tập