Địa vị pháp lý của chính quyền cấp tỉnh ở việt nam

Vị trí pháp lý, thẩm quyền của chính quyền thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh

11/12/2020

TS. CAO VŨ MINH

Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn

Tóm tắt: Trong lịch sử phát triển của Nhà nước ta, sáp nhập hay chia tách một đơn vị hành chính lãnh thổ là một yêu cầu mang tính khách quan. Tuy nhiên, khi sáp nhập hay chia tách một đơn vị hành chính lãnh thổ thì phải trả lời hai câu hỏi rất quan trọng. Một là, mục đích của việc sáp nhập hay chia tách là để làm gì; và hai là, việc sáp nhập hay chia tách sẽ có những thay đổi như thế nào về thẩm quyền quản lý? Trong phạm vi bài viết này, tác giả phác thảo thẩm quyền chung và một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của chính quyền thành phố Thủ Đức trong bối cảnh Chính phủ đang trình Ủy ban thường vụ Quốc hội Đề án thành lập thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh.

Từ khóa: thẩm quyền, thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

Abstract: In the development history that it is to merge or separate a territorial administrative unit is an objective requirement. However, when it intends to merge or separate a territorial administrative unit, there are two very important questions that must be addressed. First, what is the purpose of the merging or separation; and secondly, how will the merging or separation have changes in management authority? under the scope of this article, the author provides outlines of the general authority and some specific mandates and powers of the administration of Thu Duc city in the context that the proposal for the establishment of Thu Duc city within Ho Chi Minh City is submitted by the Government to the Standing Committee of the National Assembly.

Keywords: Authority, Thu Duc city, Ho Chi Minh city.

Địa vị pháp lý của chính quyền cấp tỉnh ở việt nam

Ảnh minh họa: Nguồn internet

1. Cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn cho việc thành lập thành phố Thủ Đức

Theo khoản 1 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 thì các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:

“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;

Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường.

Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập”.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương) quy định các đơn vị hành chính được gọi chung theo ba cấp: cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. So với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) năm 2003, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã bổ sung thêm đơn vị hành chính: thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.

Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) đang triển khai xây dựng thành phố Thủ Đức. Cụ thể, ngày 12/10/2020, 100% đại biểu HĐND Tp. HCM thông qua Nghị quyết về việc sáp nhập ba quận 2, 9, Thủ Đức và 19 phường vào năm 2021. Ngày 10/11/2020, theo đề nghị của Bộ Xây dựng, Chính phủ công nhận kết quả rà soát, đánh giá khu vực thành lập thành phố Thủ Đức là Đô thị loại 1 trực thuộc Tp. HCM. Ngày 12/11/2020, Chính phủ đã trình Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) Đề án thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Tp. HCM.

Thành phố Thủ Đức được thành lập nhằm mục đích dẫn dắt kinh tế tri thức, trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy Tp. HCM và Đông Nam Bộ phát triển[1].

2. Vị trí pháp lý của thành phố Thủ Đức

Điều 51 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định, chính quyền địa phương ở thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương là cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân (HĐND) thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương và Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Tp. HCM ngày 16/11/2020 cũng khẳng định chính quyền địa phương ở thành phố thuộc Tp. HCM có HĐND và UBND. Như vậy, có thể khẳng định rằng, chính quyền địa phương tại thành phố Thủ Đức sẽ có HĐND và UBND.

Khác với HĐND hoạt động không thường xuyên, UBND là thiết chế hoạt động thường xuyên, liên tục, thực hiện chức năng quản lý theo sự phân cấp[2]. Chính vì vậy, trong mối tương quan với cơ quan dân cử thì cơ quan hành chính luôn thể hiện tính năng động, kịp thời. Với tư duy đó, hoạt động của thành phố Thủ Đức có đạt tính hiệu quả, sáng tạo hay không phải phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của UBND thành phố Thủ Đức. Như vậy, khi thành phố Thủ Đức được thành lập và đi vào hoạt động thì vấn đề trao quyền cho UBND thành phố Thủ Đức đóng vai trò quyết định, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của chính quyền địa phương nơi đây. Trao quyền cho chính quyền thành phố Thủ Đức không chỉ đơn giản là, trao nhiệm vụ và buộc chính quyền thành phố Thủ Đức tuân theo các quy định trong nghị định, thông tư, văn bản hướng dẫn của cấp trên, mà cần phải trao quyền tự do lựa chọn phương pháp, cách thức thực hiện các nhiệm vụ của mình[3]. Nói cách khác, UBND thành phố Thủ Đức cần được trao những quyền hạn cụ thể trên cơ sở phát huy sự chủ động, sáng tạo, xứng tầm với tên gọi thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.

Theo quy định của khoản 2 Điều 3 Luật Tổ chức chính quyền địa phương, việc phân loại đơn vị hành chính phải dựa trên các tiêu chí sau: i) Quy mô dân số; ii) Diện tích tự nhiên; iii) Trình độ phát triển kinh tế - xã hội; iv) Số đơn vị hành chính trực thuộc; v) Các yếu tố đặc thù của từng loại đơn vị hành chính ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Tuy nhiên, xét trên thực tế không phải tất cả các đơn vị hành chính khi phân loại đều dựa trên năm tiêu chí này[4]. Trong các tiêu chí trên thì hai tiêu chí là quy mô dân số và diện tích tự nhiên đóng vai trò rất quan trọng.

Cụ thể hóa hai tiêu chí này, UBTVQH ban hành Nghị quyết số1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/05/2016 về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính (Nghị quyết số 1211). Tiêu chí quy mô dân số và diện tích tự nhiên được tính điểm để phân loại đơn vị hành chính tỉnh. Theo đó, nếu dân số từ 500.000 người trở xuống được tính 10 điểm; trên 500.000 người thì cứ thêm 30.000 người được tính thêm 0,5 điểm, nhưng tối đa không quá 30 điểm; diện tích tự nhiên từ 1.000 km2 trở xuống được tính 10 điểm; trên 1.000 km2 thì cứ thêm 200 km2 được tính thêm 0,5 điểm, nhưng tối đa không quá 30 điểm[5].

Đề án thành lập thành phố Thủ Đức xác định sau khi sáp nhập để hình thành đơn vị hành chính thì thành phố Thủ Đức có tiêu chuẩn quy mô dân số hơn 1.013.795 triệu người, diện tích tự nhiên gần 211.56 km2. Nếu chỉ tính về tiêu chí diện tích tự nhiên thì thành phố Thủ Đức không thể sánh với các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Tuy nhiên, nếu so sánh về quy mô dân số thì thành phố Thủ Đức có số dân đông hơn khoảng 20 tỉnh khác[6]. Nếu tính cả hai tiêu chí là quy mô dân số và diện tích tự nhiên thì thành phố Thủ Đức có thể sánh ngang với các đơn vị hành chính cấp tỉnh có diện tích nhỏ và quy mô dân số không đông. Cụ thể, căn cứ theo cách tính điểm về quy mô dân số và diện tích tự nhiên trong Nghị quyết số1211, có thể thấy, điểm số của thành phố Thủ Đức xấp xỉ nhiều đơn vị hành chính cấp tỉnh, thậm chí còn cao điểm hơn so với hai tỉnh là tỉnh Hà Nam và tỉnh Ninh Thuận.

Địa vị pháp lý của chính quyền cấp tỉnh ở việt nam

Do đó, nếu xác định thẩm quyền của thành phố Thủ Đức tương tự như thẩm quyền của chính quyền hành chính cấp tỉnh cũng không phải là khiên cưỡng. Ngoài ra, nếu kết hợp với tiêu chí thứ ba về trình độ phát triển kinh tế - xã hội thì có thể thấy điểm số của thành phố Thủ Đức sẽ được cải thiện rất nhiều. Thông thường, việc đánh giá trình độ phát triển kinh tế - xã hộicủa một đơn vị hành chính cấp huyện sẽ dựa vào các tiêu chí[7]: i) Cân đối thu, chi ngân sách địa phương; ii) Tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; iii) Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp; iv) Tỷ lệ lao động qua đào tạo; v) Tỷ lệ đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc đạt tiêu chí quốc gia về y tế; vi) Diện tích nhà ở bình quân đầu người; vii) Tỷ lệ số hộ dân cư được dùng nước sạch. Đối chiếu với các số liệu trong Đề án thành lập thành phố Thủ Đức sẽ cho thấy những ưu điểm vượt trội của thành phố Thủ Đức một khi được thành lập và đi vào hoạt động.

Địa vị pháp lý của chính quyền cấp tỉnh ở việt nam

Theo Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/05/2016 của UBTVQH (Nghị quyết số 1210), thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương được phân loại đô thị theo tiêu chí đô thị loại I hoặc loại II hoặc loại III[8]. Việc phân loại đô thị được thực hiện bằng phương pháp tính tổng số điểm đạt được của các tiêu chí[9]. Theo đó, có năm tiêu chí: i) Vị trí, chức năng, vai trò, cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội; ii) Quy mô dân số; iii) Mật độ dân số; iv) Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp toàn đô thị; v) Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan đô thị.

Căn cứ vào điểm số thì khu vực dự kiến thành lập thành phố Thủ Đức đạt 87,18/ 100 điểm, bảo đảm đạt tiêu chí đô thị loại I. Cụ thể, về vị trí chức năng, vai trò cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế xã hội thì khu vực dự kiến thành lập thành phố Thủ Đức đạt 20/ 20 điểm; về quy mô dân số thì khu vực dự kiến thành lập thành phố Thủ Đức đạt 6,69/ 8 điểm; về mật độ dân số thì khu vực dự kiến thành lập thành phố Thủ Đức đạt 5,98/ 6 điểm; về tỷ lệ lao động phi nông nghiệp thì khu vực dự kiến thành lập thành phố Thủ Đức đạt 6/ 6 điểm; về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc cảnh quan đô thị thì khu vực dự kiến thành lập thành phố Thủ Đức đạt 48,51/ 60 điểm.

Địa vị pháp lý của chính quyền cấp tỉnh ở việt nam

Ngày 12/12/2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 93/2001/NĐ-CP về phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho Tp. HCM. Nghị định số 93/2001/NĐ-CP đã phân cấp cho Tp. HCM bốn nội dung lớn.

- Quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư và phát triển kinh tế xã hội;

- Quản lý nhà đất và hạ tầng kỹ thuật đô thị;

- Quản lý ngân sách nhà nước;

- Tổ chức bộ máy và quản lý cán bộ, công chức.

Tiếp nối những tích cực trong phân cấp quản lý, ngày 24/11/2017, Quốc hội khóa XIV ban hành Nghị quyết số 54/2017/QH14 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Tp. HCM. Nghị quyết này được đánh giá là quy định mang tính đột phá, đồng bộ, kịp thời, phù hợp với tình hình của “đầu tàu kinh tế” sau 43 năm thống nhất đất nước. Trong bối cảnh Nghị quyết số 54/2017/QH14 đã có hiệu lực pháp luật và việc thành lập thành phố Thủ Đức đang là một tất yếu thì những vấn đề về thẩm quyền của chính quyền thành phố Thủ Đức cũng cần có những thay đổi nhằm bảo đảm cho việc thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù. Sẽ không thể có những chính sách đặc thù nếu không có những thẩm quyền mang tính đặc thù. Chính vì vậy, thừa nhận những đặc thù trong thẩm quyền của chính quyền thành phố Thủ Đức là lời giải hợp lý nhất cho việc thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù của thành phố Thủ Đức.

3. Thẩm quyền của chính quyền thành phố Thủ Đức

Hoạt động quản lý của chính quyền địa phương ở thành phố Thủ Đức chắc chắn sẽ tác động đến toàn bộ dân cư và tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước trong phạm vi thành phố Thủ Đức. Mặc dù, Đề án thành lập xác định thành phố Thủ Đức là đơn vị hành chính cấp huyện. Tuy nhiên, với những thế mạnh và sự kỳ vọng của chính quyền Tp. HCM cũng như cả nước, không thể xác định thẩm quyền của chính quyền thành phố Thủ Đức chỉ ngang tầm với các đơn vị hành chính cấp huyện. Hiện nay, quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương đều không tạo ra sự khác biệt trong thẩm quyền của thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Do đó, dựa vào các quy định pháp luật hiện hành cũng như những thế mạnh về kinh tế, văn hóa, xã hội, có thể xác định thẩm quyền của thành phố Thủ Đức thuộc Tp. HCM như sau:

Thứ nhất, về thẩm quyền chung.

Như đã trình bày ở trên, xét về quy mô dân số và diện tích tự nhiên thì thành phố Thủ Đức có điểm số cao hơn một số tỉnh nhưng việc xác định thẩm quyền chung phải căn cứ vào nhiều tiêu chí bởi xác định đúng thẩm quyền của các chủ thể sẽ tạo điều kiện cho bộ máy nhà nước hoạt động chính xác, nhịp nhàng và đạt hiệu quả. “Sự phân công lao động” nghĩa là phân định thẩm quyền trong bộ máy công quyền phải thỏa mãn yêu cầu sao cho mỗi cơ quan, mỗi nhà chức trách có một khối lượng “công việc nhà nước” hợp lý, tương xứng với vị trí và khả năng của chủ thể đó, sao cho không có công việc nhà nước quan trọng đáng kể nào bị bỏ sót và không có công việc nào bị giao chồng chéo, trùng lắp[10]. Nếu xác định thẩm quyền của thành phố Thủ Đức ngang với thẩm quyền của đơn vị hành chính cấp tỉnh thì dẫn đến sự chồng chéo với thẩm quyền của Tp. HCM. Ngoài ra, thẩm quyền của “tập hợp con” - thành phố Thủ Đức mà ngang với thẩm quyền của “tập hợp mẹ” - Tp. HCM là một điều rất vô lý. Điều này có thể dẫn đến tình trạng cục bộ, cát cứ, xa rời nguyên tắc quản lý tập trung - dân chủ. Do đó, chúng tôi cho rằng, thẩm quyền của thành phố Thủ Đức dù có được mạnh dạn trao cho lớn đến đâu thì cũng không thể ngang với thẩm quyền của đơn vị hành chính cấp tỉnh. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc đầu tiên cần lưu ý.

Theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2020 (Luật Ban hành VBQPPL), HĐND thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật với tên gọi là nghị quyết và UBND thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật với tên gọi là quyết định[11]. Dưới góc độ pháp lý, văn bản quy phạm pháp luật là biểu hiện thẩm quyền của một cơ quan nhà nước. PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt thật có lý khi cho rằng: quan hệ văn bản pháp luật giữa các cơ quan, tổ chức chính là tấm gương phản ánh vị trí, vai trò cơ quan, tổ chức trong thang bậc của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị[12]. Điều đó có nghĩa mối quan hệ trên phương diện văn bản pháp luật phản ánh thứ bậc và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước. Xét về vị trí thang bậc pháp lý, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương xếp sau văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Do đó, thẩm quyền của thành phố Thủ Đức cũng không thể ngang với thẩm quyền của đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Ngoài ra, một đơn vị hành chính do UBTVQH thành lập (thành phố Thủ Đức) cũng không thể có thẩm quyền vượt hơn so với một đơn vị hành chính do Quốc hội thành lập[13]. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc thứ hai cần lưu ý.

Việc thành lập, phân loại, thay đổi các đơn vị hành chính lãnh thổ là tiền đề để một quốc gia tiến hành các biện pháp phát triển kinh tế và quản lý xã hội. Thông thường, nếu có xu hướng sáp nhập các đơn vị hành chính lãnh thổ nhỏ lại thành một đơn vị lớn hơn, tạo tiền đề cho việc quản lý kinh tế, quy hoạch đô thị được thuận lợi thì cần tăng thẩm quyền tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao[14]. Với tư duy đó, thẩm quyền của chính quyền thành phố Thủ Đức cần được tăng hơn so với các đơn vị hành chính cấp huyện. Theo chúng tôi, sẽ là không hợp lý nếu thẩm quyền thành phố Thủ Đức với cấu thành từ 36 phường, có quy mô dân số 1.013.795 người và diện tích 211.56 km2 cũng được “đánh đồng” với chính quyền Quận 4 với cấu thành từ 15 phường[15], có quy mô dân số 200.000 người và diện tích 4.18 km2. Ngoài ra, với các thế mạnh về quy mô dân cư và diện tích, trình độ phát triển kinh tế - xã hộicủa thành phố Thủ Đức, cần mạnh dạn trao thêm quyền cho thành phố Thủ Đức. Vấn đề trao thêm quyền cho thành phố Thủ Đức đến đâu phụ thuộc vào chính quyền trung ương. Theo đó, việc trao quyền cho thành phố Thủ Đức phải hướng đến mục đích tạo ra sự chủ động, sáng tạo trong thu hút các nguồn đầu tư cũng như giảm thiểu mọi hàng rào ngăn cản các nguồn lực phát triển thành phố Thủ Đức. Cụ thể, các chính sách, biện pháp ưu đãi, khuyến khích đặc biệt mà thành phố Thủ Đức hướng đến có thể là:

i) Đơn giản hóa các thủ tục thành lập doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầutạo ra môi trường khởi nghiệp, kinh doanh và kinh tế sáng tạo, xứng đáng là Trung tâm khởi nghiệp lớn nhất Việt Nam.

ii) Áp dụng các chính sách khuyến khích về tài chính, miễn, giảm các loại thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập, thuế tài sản nhằm phát triển khu công nghệ cao - Trung tâm sản xuất tự động hóa và Khu công viên khoa học.

iii) Đơn giản hóa các thủ tục hải quan nhằm phát huy thế mạnh của Cảng Cát Lái.

iv) Tự do hóa các dòng chảy vốn đầu tư, lợi nhuận nhằm thu hút các hoạt động công nghệ tài chính tại Khu đô thị mới Thủ Thiêm.

v) Tạo thuận lợi trong việc sử dụng kết cấu hạ tầng, giao thông, đất đai nhằm phát triển khuTam Đa, Long Phước bởi khu vực này cung cấp một cơ hội cho sự sáng tạo trong thiết kế và vận hành, vừa kết nối với các hạ tầng giao thông quan trọng bao gồm cả tuyến đường cao tốc và đường sắt nối với sân bay quốc tế mới.

Có ý kiến cho rằng việc tăng thẩm quyền cho chính quyền địa phương nói chung và chính quyền thành phố Thủ Đức nói riêng sẽ có thể dẫn đến tình trạng thoát ly, địa phương cục bộ[16]. Chúng tôi cho rằng, vấn đề này không đáng lo ngại bởi các thẩm quyền mang tính chất đặc thù, có tính đột phá được đề xuất áp dụng cho thành phố Thủ Đức sẽ phải được đánh giá tác động một cách toàn diện, khoa học, khách quan. Sự cào bằng trong cơ chế trao quyền sẽ không thể giúp cho thành phố Thủ Đức phát triển mạnh mẽ. Trong khi các nước đang phát triển rất cần thu hút vốn để tạo nhiều công ăn việc làm và thực hiện công nghiệp hóa thì các công ty, tập đoàn kinh doanh lại cần đến những nơi hội đủ những ưu thế tổng hợp mang tính toàn cầu[17]. Theo xu hướng đó, các đơn vị hành chính hội đủ những ưu thế tổng hợp được hình thành vì mục đích khai thác hợp lý tiềm năng tự nhiên cho nhu cầu phát triển kinh tế vùng miền và của cả nước thì nên được hưởng quy chế hành chính đặc thù[18]. Với các thế mạnh mang tính tổng hợp, thành phố Thủ Đức hoàn toàn có thể thúc đẩy kinh tế phát triển nếu được trao quyền tương xứng.

Thứ hai, về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.

* Đối với HĐND thành phố Thủ Đức: Cần tập trung vào hoạt động giám sát việc tuân theo Hiến pháp,pháp luậtcủa UBND thành phố Thủ Đức. Theo logic pháp lý, khi tăng thẩm quyền cho UBND thành phố Thủ Đức càng lớn bao nhiêu thì càng phải thực hiện hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND thành phố Thủ Đức bấy nhiêu để hạn chế tình trạng lạm quyền, tùy tiện. Ngoài ra, theo Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tạiTp. HCM, tại các phường thuộc thành phố Thủ Đức sẽ không tổ chức HĐND. Chính vì vậy, việc HĐND thành phố Thủ Đức thực hiện chức năng giám sát hoạt độngcủa UBND, Chủ tịch UBND phường trực thuộc cũng phải được quy định cụ thể về trình tự, cách thức thực hiện. Việc giám sát hoạt động của cả UBND thành phố Thủ Đức lẫn UBND các phường trực thuộc là không đơn giản bởi nội dung, phương thức, thủ tục tổ chức giám sát sẽ có rất nhiều những khác biệt.

* Đối với UBND, Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức: Pháp luật hiện hành trao cho HĐND “quyền bầu”, mà lại trao “quyền phê chuẩn” kết quả bầu đó, quyền điều động và miễn nhiệm cho Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp là mâu thuẫn[19]. Do đó, nhằm bảo đảm cơ chế đặc thù cho thành phố Thủ Đức, cần mạnh dạn trao quyền bổ nhiệm Chủ tịch UBND phường trực thuộc cho Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức. Bước đi này sẽ khắc phục được một cách cơ bản tình trạng “tính hai mặt” trong cơ chế hoạt động của Chủ tịch UBND phường. Hơn nữa, khi Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức bổ nhiệm Chủ tịch UBND phường trực thuộc, một mặt sẽ “bảo đảm thẩm quyền hành chính theo hướng dân chủ pháp quyền mà ưu thế thuộc về người đứng đầu cơ quan hành chính cấp trên”; mặt khác, sẽ tăng cường tính tự chịu trách nhiệm của người đứng đầu UBND phường trực thuộc, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang chủ trương phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền địa phương nói chung và cho chính quyền thành phố Thủ Đức nói riêng.

* Đối với UBND, Chủ tịch UBND các phường trực thuộc: Khi đã thừa nhận tăng quyền cho UBND, Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức thì việc tăng quyền cho UBND, Chủ tịch UBND các phường trực thuộc cũng là một việc cần được quan tâm xem xét kỹ lưỡng. Việc quản lý phải được thực hiện một cách đồng bộ, thông suốt. Do đó, việc tăng quyền phải mang tính hệ thống bởi không thể có trạng thái các bộ phận cấu thành hoạt động không tốt mà lại tạo thuận lợi cho máy chủ hoạt động hiệu quả. Các bộ phận cấu thành (UBND, Chủ tịch UBND các phường trực thuộc) phải có thực quyền thì cỗ máy cái (UBND, Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức) mới có thể thực hiện tốt chức năng quản lý. Hiện nay, Nghị quyết về tổ chức chính quyền đô thị tại Tp. HCM tuy có đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn của UBND phường ở thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương nhưng các quy định này chưa cụ thể, rõ ràng và vẫn mang tính chất cào bằng với UBND ở đơn vị hành chính cấp xã. Thậm chí, có những quyền vốn dĩ thuộc về UBND cấp xã nhưng Nghị quyết lại không thừa nhận cho UBND phường ở thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Đơn cử, theo quy định của Điều 4 Luật Ban hành VBQPPL, UBND cấp xã có quyền ban hành VBQPPL với tên gọi là quyết định. Thậm chí Điều 144, Điều 145 Luật Ban hành VBQPPL còn quy định rất cụ thể thủ tục soạn thảo và ban hành VBQPPL của UBND cấp xã.

Khi Quốc hội thảo luận thông qua Luật Ban hành VBQPPL, có ý kiến cho rằng, “do phạm vi địa giới của xã, phường, thị trấn khá nhỏ và sự khác biệt về các vấn đề tự nhiên, xã hội của các xã, phường, thị trấn trong một huyện, quận không nhiều nên gần như không có yếu tố đặc thù cần có những quy định riêng. Mặt khác, để tránh sự tản mạn của pháp luật, việc quy định thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính quyền cấp xã (gồm HĐND cấp xã và UBND cấp xã) là không cần thiết”[20]. Tuy nhiên, khi thông qua Luật Ban hành VBQPPL, Quốc hội vẫn quy định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp xã (trong đó có UBND phường). Đối chiếu với các quy định này thì UBND phường ở thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đương nhiên có quyền ban hành VBQPPL. Tuy nhiên, Nghị quyết về tổ chức chính quyền đô thị tại Tp. HCM lại “tước đi” quyền này của UBND phường ở thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy, quy định này không những không tăng quyền cho UBND các phường trực thuộc mà vô hình trung còn làm giảm thẩm quyền của chủ thể này. Đây là một điều cần được sửa đổi nhằm thúc đẩy sự phát triển của thành phố Thủ Đức./.


[1] Xem thêm Đề án thành lập thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Vũ Thư, “Phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Quản lý pháp luật, số 222, năm 2014.

[3] Võ Trí Hảo, “Từ triết lý thiết kế chính quyền địa phương đến những gợi mở cho Dự thảo Luật Tổ chức chính quyền địa phương”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3+4, năm 2015.

[4] Nguyễn Đặng Phương Truyền, “Hoàn thiện pháp luật về tiêu chuẩn, thẩm quyền, thủ tục phân loại đơn vị hành chính ở nước ta”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6, năm 2019.

[5] Điều 12Nghị quyết số1211/2016/UBTVQH13 về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính.

[6] Bạc Liêu (900.000 người), Bắc Kạn (327.900 người), Bình Phước (994.679 người), Cao Bằng (530.341 người), Đắc Nông (622.168 người), Điện Biên (598.856 người), Hà Giang (854.679 người), Hậu Giang (733.017 người), Hòa Bình (854.131 người), Kon Tum (520.048 người), Lai Châu (460.196 người), Lạng Sơn (781.655 người), Lào Cai (705.600 người), Ninh Bình (982.487 người), Ninh Thuận (590.467 người), Phú Yên (961.152 người), Quảng Bình (895.430 người), Quảng Trị (632.375 người), Trà Vinh (1.009.168 người), Tuyên Quang (784.811 người), Yên Bái (821.030 người).

[7] Nguyễn Đặng Phương Truyền, “Hoàn thiện pháp luật về tiêu chuẩn, thẩm quyền, thủ tục phân loại đơn vị hành chính ở nước ta”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6, năm 2019.

[8] Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[9] Khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[10] Nguyễn Cửu Việt, “Cải cách hành chính: về khái niệm thẩm quyền”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8, năm 2005.

[11] Khoản 12 và 13 Điều 4 Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).

[12] Nguyễn Cửu Việt, “Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật (tiếp theo) và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 51, năm 2005.

[13] Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập”.

[14] Nguyễn Hoàng Anh, “Tổ chức đơn vị hành chính ở Cộng hòa Pháp”,Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19, năm 2019.

[15] Cục Thống kê Tp. HCM, Niên giám thống kê năm 2015.

[16] Bùi Thị Phương Liên - Vũ Đình Lâm, “Kiểm soát quyền lực ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2, năm 2018.

[17] Nguyễn Thúy Hà, “Chính sách ưu đãi của một số quốc gia đối với đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và những nội dung có thể tham khảo”, Tạp chí Nghiên cứu lập phápsố 10, năm 2018.

[18] Nguyễn Thị Thiện Trí, “Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt: Vấn đề đặt ra và vận dụng ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10, năm 2014.

[19] Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2013, tr.183.

[20] Bùi Thị Đào, “Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp huyện, cấp xã”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5, năm 2015.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 22 (422), tháng 11/2020.)