Đặc trưng quan trọng nhất của giai cấp là

Câu hỏi: Phân tích các đặc trưng cơ bản trong định nghĩa giai cấp của Lênin?

Đáp án: 

• Trước C.Mác, các sử gia tư tưởng tiến bộ Pháp (Chie, Ghidô, Minhê…) đã thừa nhận sự tồn tại của các giai cấp cùng với đấu tranh giai cấp. Hầu hết các học giả tư sản ngày nay cũng không bác bỏ sự tồn tại của các giai cấp. Nhưng trả lời câu hỏi giai cấp là gì? thì các lý thuyết xã hội phi mácxít chỉ đưa ra những định nghĩa mơ hồ, thiếu căn cứ khoa học. Chẳng hạn, giai cấp là tập hợp những người “cùng chức năng xã hội”, hoặc “cùng một lối sống”, “cùng mức sống”, “cùng một địa vị và uy tín xã hội”v.v.. Các lý thuyết đó đều tránh đụng tới các đặc trưng cơ bản của giai cấp, đặc biệt là vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất.

• Khái niệm giai cấp được Lênin định nghĩa một cách toàn diện và sâu sắc trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” như sau: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường các quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với các tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hướng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định” .

• Khái niệm giai cấp vốn hết sức phức tạp, do đó, định nghĩa giai cấp của Lênin cũng phức tạp một cách tương ứng cả về nội dung lẫn hình thức cấu trúc của định nghĩa.

Cách tiếp cận truyền thống định nghĩa này (bằng cách liệt kê 4 sự khác nhau với tư cách là bốn đặc trưng của giai cấp ở mệnh đề thứ nhất) là không thỏa đáng, là chưa lột tả được cả chiều rộng lẫn chiều sâu của tư duy V.I.Lênin trong định nghĩa mang tính kinh điển này.

Phân tích thấu đáo định nghĩa này của V.I.Lênin, chúng ta cần lưu ý một loạt khía cạnh phương pháp luận như sau: Thứ nhất, cần phân biệt đặc trưng về lượng với các đặc trưng về chất của giai cấp; Thứ hai, cần phân biệt đặc trưng tổng quát với các đặc trưng từng mặt quan hệ sản xuất ở mệnh đề thứ nhất; Thứ ba, cần phân biệt các đặc trưng về chất ở mệnh đề thứ nhất với mệnh đề thứ hai; Thứ tư, cần lưu ý cả hai đặc trưng về trình độ ý thức của giai cấp.

Phân tích kỹ ta thấy:

+ Trước khi đề cập tới các đặc trưng về chất của giai cấp, ở cả hai mệnh đề, V.I.Lênin đều lưu ý trước tiên đặc trưng về lượng của giai cấp với tư cách là “những tập đoàn người”, “tập đoàn người to lớn” dù đó là giai cấp thiểu số hay đa số trong dân cư. Điều đó chứng tỏ vấn đề giai cấp cũng như vấn đề đấu tranh giai cấp là vấn đề lớn lao của đời sống xã hội, chứ không phải vấn đề của những nhóm nhỏ hay cá nhân.

+ Ở mệnh đề thứ nhất, chủ ý của V.I.Lênin tiếp cận vấn đề giai cấp trước hết từ lĩnh vực sản xuất kinh tế – đúng như tư tưởng cơ bản thứ nhất của C.Mác về giai cấp đã dạy: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất” .

Theo đó, đặc trưng tổng quát về chất của giai cấp là sự “khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử”, hoặc là thống trị, hoặc là bị trị (đương nhiên có thể có bộ phận nào đó đóng vai trò trung gian) trong kinh tế. Khái quát này của Lênin, thứ nhất, bác bỏ mọi cách giải thích duy tâm về giai cấp từ các nguồn gốc phi kinh tế; thứ hai, chỉ ra tính lịch sử cụ thể của giai cấp ở những điều kiện lịch sử cụ thể; thứ ba, đòi hỏi xem xét giai cấp trong tính chỉnh thể phức tạp vốn có của “một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử”.

Mặt khác, V.I.Lênin đã đi sâu cụ thể hóa đặc trưng tổng quát nói trên của giai cấp thành ba đặc trưng tương ứng với ba mặt cấu thành các quan hệ sản xuất. Đó là ba sự khác nhau: về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; về quan hệ tổ chức lao động xã hội; và về quan hệ phân phối.

Hiển nhiên là sự khác nhau về quan hệ sở hữu tự nó có vai trò quyết định bản chất đối với hai mối quan hệ còn lại, cũng như quyết định cả địa vị các giai cấp trong một hệ thống sản xuất xã hội nói chung. Trong mệnh đề thứ nhất này, V.I.Lênin còn có hai lưu ý vừa tinh tế vừa sâu sắc đối với vấn đề sở hữu và phân phối.

Thứ nhất, như Lênin vạch rõ, quan hệ sở hữu “thường đựơc pháp luật quy định và công nhận”. Điều đó chứng tỏ rằng các quan hệ giai cấp không tách rời quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (kinh tế) với kiến thức thượng tầng (chính trị – pháp lý), bác bỏ mọi luận điệu cho rằng chính trị, nhà nước, pháp quyền “vô tư” đối với sở hữu khác nhau của mọi giai cấp.

Thứ hai, trước khi nói tới sự khác nhau về “phần của cải xã hội ít hoặc nhiều” trong quan hệ phân phối, Lênin đã lưu ý đến sự “khác nhau về cách thứ hưởng thụ” của các giai cấp. Ai cũng biết cách thức hưởng thụ của giai cấp bóc lột thống trị xưa nay là hết sức xa hoa, lãng phí, thậm chí không tính nổi bằng tiền mà bằng bao xương máu của người lao động (ví dụ các kim tự tháp, các lăng tẩm của vua chúa).

+ Với mức độ khái quát sâu nhất và rộng nhất có thể có ở mệnh đề thứ hai, Lênin chỉ nêu hai đặc trưng cơ bản của giai cấp có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau: Một là, “tập đoàn này có thể tước đoạt lao động của tập đoàn khác”; Hai là, “các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.

Ở mệnh đề ngắn gọn và vô cùng súc tích này, Lênin đã thâu tóm cái bản chất sâu xa nhất, cốt lõi nhất, và cũng là phản nhân văn nhất của các quan hệ giai cấp đối kháng xưa nay – đó là vấn đề “chiếm đoạt lao động”. Chính chiếm đoạt lao động là đặc trưng bao trùm và chi phối tất cả các đặc trưng khác của giai cấp ở cả hai mệnh đề, và sâu xa hơn, nó cắt nghĩa cả nguồn gốc của giai cấp và của đấu tranh giai cấp. Hơn nữa, không phải đặc trưng nào ở mệnh đề thứ nhất về giai cấp cũng đồng nghĩa với xung đột, với đối kháng. Nhưng chừng nào và ở đâu còn chiếm đoạt lao động thì tất còn xung đột, còn đối kháng. Trong xã hội phân chia giai cấp, thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ xung đột đối kháng. Nếu hiểu khác đi là mơ hồ về giai cấp. Triết lý nổi tiếng của C.Mác và Ph.Angghen “tước đoạt kẻ đi tước đoạt” không chỉ đúng với quy luật phủ định của phủ định chi phối toàn bộ chu kỳ phát triển trọn vẹn của lịch sử loài người (sở hữu xã hội – sở hữu tư nhân – sở hữu xã hội trên hình thức cao hơn), mà còn hợp với cả đạo lý sống cơ bản nhất của loài người.

Ơ đặc trưng còn lại của giai cấp trong mệnh đề thứ hai, V.I.Lênin đã gắn liền đặc trưng chiếm đoạt lao động không phải với “hệ thống sản xuất xã hội” (như định nghĩa thứ nhất) mà với cả “chế độ kinh tế xã hội” – nghĩa là với toàn bộ tòa nhà xã hội, cơ thể xã hội. Vì rằng, với nhiều lý do khác nhau, có những bộ phận xã hội chiếm đoạt lao động không phải do quan hệ sở hữu trong sản xuất kinh tế, mà do lợi dụng trực tiếp địa vị chính trị – xã hội. Đặc quyền đặc lợi của tầng lớp quý tộc dưới chính thể quân chủ – lập hiến là một ví dụ. Nạn hối lộ – tham nhũng xưa nay trong bộ máy nhà nước cũng là một ví dụ.

+ Ngoài các đặc trưng của giai cấp vốn mang tính vật chất đựơc khái quát trong hai mệnh đề trên, Lênin còn nhiều lần nói tới đặc trưng về trình độ ý thức của giai cấp: Một “giai cấp tự nó” hay “tự phát” là chưa ý thức đựơc lợi ích căn bản sống còn của mình. Còn một “giai cấp cho mình” hay “tự giác” là giai cấp đã trưởng thành tới mức ý thức được lợi ích căn bản – sống còn của mình.

Chẳng hạn, trong quá trình đấu tranh chống phong kiến, giai cấp tư sản đã từng trải qua hai trình độ ý thức như vậy. Và đến lượt mình, trong quá trình đấu tranh chống CNTB và xây dựng CNXH, CNCS, giai cấp vô sản cũng không thể không trải qua hai trình độ tự phát và tự giác như vậy.

Tóm lại, phân tích kỹ định nghĩa giai cấp của Lênin, chúng ta hiểu ra rằng quan hệ giai cấp thực chất và trước hết là những quan hệ sản xuất, là “những quan hệ cơ bản, ban đầu, quyết định” – như C.Mác tổng kết – đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Đương nhiên, không vì thế mà có thể giản đơn quy tất cả các quan hệ xã hội khác vào quan hệ giai cấp.

Giai cấp xã hội đề cập đến các thứ bậc khác nhau phân biệt giữa các cá nhân hoặc các nhóm người trong các xã hội hoặc các nền văn hóa. Các sử gia và các nhà xã hội học coi giai cấp là phổ quát (là sự phổ biến), mặc dù những điều xác định giai cấp là rất khác nhau từ xã hội này đến xã hội khác. Thậm chí ngay cả trong một xã hội, các cá nhân khác nhau hoặc những nhóm người khác nhau cũng có rất nhiều ý tưởng khác nhau về những điều gì làm nên thứ bậc cao hay thấp trong trật tự xã hội.

Theo Marx và Lenin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất và phân công lao động, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.

Theo Hồ Chí Minh, tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển. Nhưng đa số người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà thiểu số người không lao động thì lại hưởng thụ thành quả lao động đó. Đó là do một số ít người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội. Họ có tư liệu sản xuất nhưng họ không làm lụng, họ bắt buộc người khác làm cho họ hưởng. Do đó mà có giai cấp. Những người chiếm tư liệu sản xuất không làm mà hưởng là giai cấp bóc lột hay giai cấp tư sản. Những người không sở hữu tư liệu sản xuất là giai cấp vô sản, trong giai cấp đó, những người lao động mà không được hưởng giá trị thặng dư và thành quả lao động là giai cấp bị bóc lột hay giai cấp công nhân.[1]

Thuật ngữ giai cấp dùng "để chỉ một nhóm xã hội mà các thành viên có vị trí tương đương nhau trong một cơ cấu bất bình đẳng khách quan về vật chất do một hệ thống những quan hệ kinh tế đặc trưng cho một phương thức sản xuất cụ thể tạo ra". Nhà xã hội học người Mỹ Rodney Stark định nghĩa: "Giai cấp là nhóm người chia sẻ một vị trí giống nhau trong hệ thống phân tầng xã hội".

Thực tế, xã hội phân hóa thành các giai cấp khác nhau, nhưng cách hiểu về giai cấp lại không giống nhau. Người ta thường hiểu giai cấp là một nhóm xã hội có vị trí kinh tế, chính trị và xã hội giống nhau nhưng không được quy định chính thức, không được thể chế hóa mà do sự nhận diện theo những chuẩn mực xã hội nhất định như giàu - nghèo, chủ - thợ, thống trị - bị trị,...

Theo Marx, chuẩn mực chủ yếu của sự phân chia giai cấp xã hội là quan hệ đối với tư liệu sản xuất, có sở hữu về tư liệu sản xuất hay không, là vai trò đối với quá trình sản xuất - quản lý quá trình đó hay bị quản lý quá trình đó, là cách phân chia kết quả sản xuất - cách phân phối và hưởng thụ sản phẩm xã hội. Với những chuẩn mực kinh tế ấy, các giai cấp có những dấu hiệu xã hội và chính trị khác nhau như lối sống, địa vị xã hội, văn hóa, ý thức, v.v...

Khác với Marx, nhà xã hội học Max Weber vẫn lấy chuẩn mực kinh tế để phân chia giai cấp, nhưng Weber cho rằng mối liên hệ nhân quả giữa kinh tế và xã hội, chính trị, ý thức phức tạp hơn nhiều. Vị trí kinh tế quy định ý thức và hành động, nhưng địa vị xã hội cũng dẫn tới một quy chế trong cơ cấu kinh tế.

Lý thuyết giai cấp và danh tiếng của Warner

Lý thuyết của Warner được gọi là lý thuyết danh tiếng vì trong đó ông xác định giai cấp của cá nhân bằng cách hỏi những người khác xem họ sắp xếp thứ tự cộng đồng thế nào theo "danh tiếng" của cá nhân đó. Dựa theo kết quả thống kê đó, Warner chia ra 6 nhóm giai cấp khác nhau trong xã hội:

  1. Thượng lưu trên;
  2. Thượng lưu dưới;
  3. Trung lưu trên;
  4. Trung lưu dưới;
  5. Hạ lưu trên;
  6. Hạ lưu dưới.

Lý thuyết đẳng cấp và giai cấp

Các nhà xã hội học theo thuyết này phân biệt hai cấp độ khác nhau giữa đẳng cấp và giai cấp.

  • Đẳng cấp là những vị trí, trong đó con người sinh ra và cuộc đời họ tồn tại ở đó. Các thành viên trong cùng đẳng cấp có một địa vị được có sẵn, chứ không phải là một địa vị phải phấn đấu mới đạt được. Phân chia đẳng cấp là một dạng của phân tầng xã hội đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử loài người. Ví dụ, Trung Hoa cổ đại có quân tử và tiểu nhân, thứ dân (sĩ, nông, công, thương). Hy Lạp cổ đại có dân tự do và dân nô lệ. Ấn Độ cổ đại có bốn đẳng cấp: tăng lữ, chiến binh, thợ thủ công, và người làm ruộng và đầy tớ.
  • Giai cấp, cũng giống như đẳng cấp, giai cấp cũng là tầng lớp xã hội nhưng dựa trên tiêu chuẩn kinh tế như nghề nghiệp, thu nhập và của cải. Giai cấp nhìn chung là "mở" và ít nhiều có những khoảng trống để người mới đến có thể gia nhập. Trong xã hội hiện đại có xu hướng liên hệ mật thiết giữa giai cấp và di động xã hội.

Quan niệm của Karl Heinrich Marx về giai cấp nhằm mục đích giải thích sự biến đổi xã hội và xây dựng một lý thuyết về lịch sử phát triển xã hội, ông đưa ra câu hỏi:

  • Tại sao xã hội lại biến đổi?
  • Xã hội biến đổi như thế nào?
  • Tương lai xã hội sẽ ra sao?

Karl Marx tin rằng câu trả lời nằm trong mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội. Những cuộc đấu tranh giai cấp tạo ra động lực thúc đẩy lịch sử phát triển xã hội, hình thành nên những hình thái kinh tế, xã hội mới. Lịch sử loài người là một lịch sử của sự thay thế giai cấp cũ bằng giai cấp mới. Marx cho rằng không có sẵn câu trả lời đơn giản cho vấn đề có bao nhiêu giai cấp được hiện diện trong xã hội; ngược lại, câu trả lời này phụ thuộc vào xã hội đó là gì và đang ở giai đoạn lịch sử nào. Bởi vậy, Marx xác định có 4 giai cấp trong xã hội La Mã cổ đại là quý tộc, hiệp sĩ, bình dân và nô lệ, và một số lượng giai cấp lớn hơn trong xã hội thời Trung cổ ở châu Âu. Marx cho rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa chỉ có 2 giai cấp chính: tư sản và vô sản.

Yếu tố kinh tế của giai cấp

Đặc trưng quan trọng nhất của quan niệm của Marx về giai cấp là vai trò quyết định của yếu tố kinh tế. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất quy định việc phân chia xã hội thành hai giai cấp cơ bản, hai phe - những người có tư liệu sản xuất và những người không có tư liệu sản xuất. Ông cho rằng, mối quan hệ với tư liệu sản xuất là "bí mật cuối cùng, được che giấu cho sự giải thích toàn bộ xã hội".

Yếu tố tư tưởng, tâm lý, ý thức của giai cấp

Trong khi nhấn mạnh vai trò của yếu tố kinh tế, vật chất trong phân chia giai cấp; Marx cũng khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố tư tưởng, tâm lý, ý thức trong việc hình thành giai cấp. Để thực sự là một giai cấp, các cá nhân không phải chỉ có một vị trí giống nhau trong xã hội và cùng chung bối cảnh kinh tế xã hội, mà họ còn phải có một nhận thức chung về hoàn cảnh của mình, về những lợi ích của mình và kẻ thù giai cấp - đó là, giai cấp tự ý thức về mình.

Ngoài hai giai cấp cơ bản, đối địch nhau, trong xã hội tư bản chủ nghĩa còn có các nhóm xã hội khác, gọi là tầng lớp trung gian - đó là các nhóm xã hội giữ địa vị trung gian giữa giai cấp tư sản và vô sản. Cùng với sự phát triển của xã hội, các tầng lớp, giai cấp trung gian không bị teo lại mà phát triển. Một mặt, một bộ phận tư sản bị phá sản trở thành vô sản; một bộ phận người lao động có kiến thức chuyển sang làm việc trong lĩnh vực hoạt động trí óc. Mặt khác, xã hội phát triển theo hướng mở rộng khu vực kinh tế dịch vụ (thương mại, khoa học, quản lý, văn hóa, dịch vụ xã hội,...) làm tăng số người tham gia các hoạt động này.

Weber cho rằng các yếu tố vật chất không phải là những đặc điểm cơ bản duy nhất của các hệ thống phân tầng xã hội trong xã hội hiện đại; ông lưu ý rằng, địa vị xã hội không phải lúc nào cũng liên quan tới vấn đề sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Weber cho rằng, quan niệm phân chia giai cấp của Marx là quá giản đơn. Weber đề xuất sự phân tầng xã hội dựa trên những yếu tố độc lập khác. Đó là ba yếu tố giai cấp, địa vịđảng phái - theo cách gọi của Weber, tương ứng với thuật ngữ xã hội học hiện đại là của cải, uy tínquyền lực.

Của cải và giai cấp

Theo Weber, giai cấp là nhóm người có "cơ may sống" giống nhau, được xác định bởi vị trí kinh tế trong xã hội, những sản phẩm mà họ sở hữu và những cơ hội đối với thu nhập của họ. Theo xã hội học hiện đại, đó là tất cả những gì thuộc về tài sản, của cải. Định nghĩa của Weber nhấn mạnh tới yếu tố kinh tế của giai cấp; nhưng khác với Marx, Weber không sử dụng thuật ngữ giai cấp với nghĩa là nhóm các cá nhân đã phát triển ý thức giai cấp và đã tổ chức nhau lại vì mục đích giai cấp chung. Thay vào đó, Weber chủ yếu nói tới mối liên hệ giữa các cá nhân có chung địa vị kinh tế. Do đó, một vấn đề then chốt đối với Weber là khi nào và tại sao xung đột giai cấp xuất hiện. Weber không chú trọng vấn đề tư hữu về của cải. Thực tế trong một số tình huống, việc kiểm soát của cải có thể độc lập với sở hữu.

Uy tín (địa vị)

Weber công nhận rằng địa vị kinh tế có thể dựa trên sự kiểm soát mà không có sự sở hữu, mà dựa vào uy tín, địa vị; quyền lực không phải là tổng thể các quan hệ vật chất. Chẳng hạn, khi một ngôi sao thể thao bước vào sản xuất kinh doanh thì họ có thể đã trao uy tín, danh tiếng của họ để đổi lấy các điều kiện thuận lợi về kinh tế. Hơn nữa, con người thường thích uy tín cao trong một xã hội, trong khi có rất ít hoặc không có của cải. Ví dụ, nhà văn, nhà khoa học có thể có uy tín và ảnh hưởng rất sâu rộng trong xã hội nhưng điều kiện sống về kinh tế của họ thì rất khó khăn.

Quyền lực (đảng phái)

Weber định nghĩa quyền lực là khả năng đạt được mục đích mong muốn bất chấp sự kháng cự của những người khác. Con người có thể có rất nhiều quyền lực mà không cần có nhiều của cải hay sở hữu tư liệu sản xuất. Weber viết: "quyền lực là cơ may của một người, hay là của một số người, thực hiện ý chí của họ trong một hành động chung thậm chí bất chấp sự phản kháng của những người khác không tham gia vào hành động. Quyền lực do kinh tế quyết định cố nhiên không đồng nhất với quyền lực như tồn tại. Trái lại sự xuất hiện của quyền lực kinh tế có thể là hậu quả của quyền lực tồn tại trên cơ sở khác. Con người đấu tranh vì quyền lực không phải để chỉ làm giàu cho bản thân mình về mặt kinh tế. Quyền lực bao gồm cả quyền lực kinh tế có thể được đánh giá là "vì lợi ích của riêng nó" mà thôi."

  • Tổ chức xã hội
  • Quyền lực xã hội
  • Trật tự xã hội
  • Bất bình đẳng xã hội
  • Phân tầng xã hội
  • A Great Beginning
  • Ralph Raico. Classical Liberal Exploitation Theory (PDF file)
  • Mark Weinburg, The Social Analysis of Three Early 19th century French liberals: Say, Comte, and Dunoyer by Journal of Libertarian Studies, 2 no. 1 (1978): 45-63.
  • Nguyễn Đình Tấn, Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nhà xuất bản. Chính trị Quốc gia - Hà Nội, 1999.
  • Đào Duy Tính, Cơ cấu xã hội và giai cấp ở Việt Nam. Nhà xuất bản. Thông tin lý luận - Hà Nội, 1996.

  1. ^ Bài viết của Hồ Chí Minh http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/4lanhtu/details.asp?topic=3&subtopic=91&leader_topic=9&id=BT150341128

  • Class Action:
  • Dictionary of the history of ideas: Lưu trữ 2011-05-06 tại Wayback Machine Class
  • Charles Dunoyer And The Theory Of Industrialism and Comte And Dunoyer After The 1830 Revolution: The Impact Of Their Ideas in The Radical Liberalism Of Charles Comte And Charles Dunoyer by David M. Hart.
  • Marxist and Austrian Class Analysis (PDF) by Hans-Hermann Hoppe
  • Classical Liberal Roots of Marxist Class Analysis Lưu trữ 2005-12-24 tại Wayback Machine (MP3 audio file), lecture by Ralph Raico.
  • Rethinking Cultural and Economic Capital Lưu trữ 2005-03-20 tại Wayback Machine - Jan Rupp

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Giai_cấp&oldid=67119427”