Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ Trung Quốc diễn ra dưới hình thức gì

Mục lục

Mục lục

Tên gọiSửa đổi

Các tài liệu chính thức và sử liệu giáo khoa của Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi cuộc chiến là Chiến tranh Giải phóng Nhân dân Trung Quốc [tiếng Trung: 中国人民解放战争], gọi tắt là Chiến tranh Giải phóng, hoặc Nội chiến Cách mạng lần thứ 3 [tiếng Trung: 第三次国内革命战争]. Còn tài liệu tương đương của Trung Hoa Quốc dân đảng và chính quyền Trung Hoa Dân quốc thì coi đây là cuộc nổi loạn của "phỉ quân" Trung Hoa Cộng sản đảng chống lại Nhà nước và chính phủ trung ương, nên gọi là Kham loạn chiến tranh [tiếng Trung: 戡乱战争] [chiến tranh bình loạn] hoặc Chiến tranh kháng Cộng. Sách báo người Hoa hải ngoại thường gọi là Nội chiến Quốc - Cộng. Cộng đồng quốc tế gọi chung là Nội chiến Trung Quốc [Chinese Civil War]. Một ít sử gia Đài Loan gom chung thời kỳ này và gọi là "Chiến tranh kháng Nhật - Cộng".

Bối cảnhSửa đổi

Các tập đoàn lãnh chúa quân phiệt Trung Quốc chính [1925]- các vùng màu hồng

Nhà Thanh, triều đại phong kiến cuối cùng tại Trung Hoa, sụp đổ năm 1911.[5] Trung Quốc rơi vào vòng kiểm soát của một số lãnh chúa quân phiệt lớn nhỏ, gọi là thời kỳ quân phiệt. Để đánh bại các quân phiệt này, vốn nắm quyền kiểm soát phần lớn miền Hoa Bắc và Hoa Nam, lực lượng phản đế và lực lượng quốc gia thuộc Quốc dân đảng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, tiến hành tìm kiếm trợ giúp từ nước ngoài. Tuy nhiên các nỗ lực tìm kiếm ủng hộ từ các quốc gia dân chủ phương Tây của Tôn Trung Sơn thất bại, và tới năm 1921 ông quay sang Liên Xô. Liên Xô vì lý do chính trị, theo đuổi chính sách hỗ trợ cả Tôn Trung Sơn lẫn đảng Cộng sản Trung Quốc mới thành lập. Như vậy cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu.

Năm 1923, Tôn Trung Sơn và đại diện Liên Xô là Adolph Joffe ra thông cáo chung tại Thượng Hải, theo đó Liên Xô hứa sẽ trợ giúp để thống nhất Trung Quốc.[6] Bản thông cáo này là lời tuyên bố hợp tác giữa Quốc tế III, Trung Quốc Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc.[6] Thành viên Quốc tế thứ ba là Mikhail Borodin tới Trung Quốc năm 1923 để hỗ trợ cho việc tái tổ chức và củng cố Quốc dân đảng, theo mô hình Đảng Cộng sản Liên Xô. Đảng Cộng sản Trung Quốc liên kết với Quốc dân đảng và thành lập Mặt trận thống nhất Trung Quốc lần thứ nhất.[3]

Năm 1923, Tôn Dật Tiên điều Tưởng Giới Thạch, một trong những phụ tá của mình từ thời Đồng minh hội, đến Moskva trong vài tháng để nghiên cứu quân sự và chính trị.[7] Tới năm 1924, Tưởng trở thành hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, và nổi lên với tư cách người kế nhiệm Tôn Dật Tiên lãnh đạo Quốc dân đảng.[7]

Phía Liên Xô cung cấp phần lớn tài liệu nghiên cứu, tổ chức và trang thiết bị, bao gồm đạn dược cho học viện.[7] Liên Xô cũng giúp đào tạo kỹ thuật vận động quần chúng. Với sự trợ giúp này, Tôn Dật Tiên đã có thể gây dựng nên một "đội quân của đảng" trung thành, mà ông định sử dụng để đánh bại quân đội của các lãnh chúa quân phiệt. Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng có người trong học viện, nhiều người trở thành giảng viên trong trường, kể cả Chu Ân Lai, với vai trò giảng viên chính trị.[8]

Thành viên đảng Cộng sản cũng được phép gia nhập Quốc dân đảng sau khi xét duyệt.[6] Bản thân đảng Cộng sản khi ấy cũng còn nhỏ yếu, chỉ có 300 thành viên vào năm 1922 và 1.500 thành viên năm 1925,[9] trong khi Quốc dân đảng năm 1923 đã có 50.000 thành viên[9].

Chiến tranh Bắc phạt [1926-1928] và Quốc-Cộng phân liệtSửa đổi

Chỉ vài tháng sau khi Tôn Dật Tiên chết năm 1925, Tưởng Giới Thạch, với vai trò tổng chỉ huy Quân đội cách mạng quốc gia, tiến hành cuộc Bắc phạt.[9] Tuy vậy, tới năm 1926, Quốc dân đảng đã phân hóa thành phái tả và phái hữu.[9] Những người Cộng sản trong hàng ngũ Quốc dân đảng cũng phát triển mạnh. Tới tháng 3 năm 1926, biến cố tàu Trung Sơn xảy ra, Tưởng đã kịp thời phá vỡ âm mưu bắt cóc mình, và áp đặt lệnh cấm thành viên đảng Cộng sản giữ các vị trí lãnh đạo trong Quốc dân đảng.

Quân chính phủ Quốc dân đảng bắt giữ nghi phạm Cộng sản.

Đầu năm 1927, sự tranh chấp Quốc Cộng dẫn tới sự phân liệt trong hàng ngũ cách mạng. Đảng Cộng sản và nhóm cánh tả của Quốc dân đảng quyết định chuyển thủ đô chính phủ Quốc dân từ Quảng Châu về Vũ Hán, nơi đảng Cộng sản có ảnh hưởng mạnh.[9] Nhưng Tưởng Giới Thạch và viên tướng-quân phiệt Lý Tông Nhân, người đánh bại lãnh chúa quân phiệt Tôn Truyền Phương, lại muốn chuyển về Giang Tây. Phe cánh tả bác bỏ đề xuất của Tưởng Giới Thạch, còn Tưởng lên án phe cánh tả "phản bội Chủ nghĩa Tam dân" của Tôn Dật Tiên khi nhận mệnh lệnh từ Quốc tế Cộng sản. Theo Mao Trạch Đông, sự khoan dung của Tưởng Giới Thạch đối với những người cộng sản trong Quốc dân đảng giảm đi khi quyền lực của Tưởng Giới Thạch gia tăng.[10]

Ngày 7 tháng 4, Tưởng và một số lãnh đạo Quốc dân Đảng họp, và đưa ra quan điểm các hoạt động của Đảng Cộng sản làm rối loạn xã hội và kinh tế, và cần phải ngưng lại để cuộc cách mạng quốc gia có thể tiếp tục tiến triển. Kết quả của cuộc họp này là ngày 12 tháng 4, Tưởng Giới Thạch quay ra xử lý những người Cộng sản tại Thượng Hải. Quốc dân Đảng tiến hành thanh trừng khỏi hàng ngũ của mình các thành viên cánh tả, và hàng trăm đảng viên Cộng sản bị bắt giữ hay bị hành quyết.[11]

Công nhân, người lao động phản đối mạnh mẽ chủ trương của Tưởng. Nhưng Tưởng Giới Thạch không dám sử dụng binh sĩ đàn áp công nhân, sợ danh không thuận sẽ xảy ra binh biến. Bởi, binh lính luôn coi công nhân là bè bạn cùng một liên minh. Nhiều chỉ huy các đơn vị đã tỏ ra ngần ngừ, từ chối nhận lệnh đàn áp. Do đó, Tưởng Giới Thạch đã triệu tập Đỗ Nguyệt Sanh, Hoàng Kim Vinh, Trương Tiêu Lâm - 3 đầu lĩnh của Thanh Bang hội đến thành phố cấp huyện Cửu Giang họp kín, bàn mưu "mượn đao giết người". Tưởng nhờ ba ông trùm đưa quân bang hội đi đàn áp công nhân, người biểu tình thay cho quân đội. Lấy danh nghĩa công hội, Đỗ Nguyệt Sênh đã tuyển mộ và vũ trang cho gần 3.000 tên vô lại của Thanh Bang. Đạo quân này được Đỗ Nguyệt Sanh khoác cho những cái tên mỹ miều và ôn hòa là "Hiệp hội Công nhân Thượng Hải" và "Hiệp hội đồng tiến Trung Hoa". Đêm 11/4/1927, mượn danh nghĩa hai tổ chức này, Đỗ Nguyệt Sanh đã mời ủy viên trưởng Tổng công hội Thượng Hải Uông Thọ Hòa đến tư dinh dự tiệc bàn việc hợp tác. Giữa buổi tiệc, Đỗ viện cớ ra ngoài. Thích khách do Đỗ bố trí sẵn thừa cơ đã lẻn vào hạ sát Uông Thọ Hòa ngay tại bàn tiệc. Đúng 1 giờ sáng ngày 12/4/1927, 3.000 tên Thanh Bang, mỗi tên được Đỗ phát cho 10 đồng bạc trắng, mặc đồng phục quần short, áo xanh cộc tay, trên vai có khắc dấu hiệu chữ "công" tỏa đi các nơi đồng loạt tập kích các đội tự vệ của công nhân. Trời vừa sáng, lấy cớ "công nhân xung đột nội bộ, gây mất trị an", Tưởng Giới Thạch đã xua quân đội đi giải giới vũ khí cả hai bên. Thực tế, quân đội được lệnh lập hàng rào ngăn hai bên tấn công và chống trả nhau, tách hai phe giang hồ và công nhân, sau đó lập hành lang bảo vệ cho bọn Thanh Bang rút lui an toàn. Kết quả là 2.700 công nhân vũ trang bị tước vũ khí, 120 người chết, 180 người khác bị thương ngay sau đêm đụng độ đầu tiên. Đến khi trời tối, kịch bản cũ lại lặp lại… Hơn 3 tháng sau đó, Thượng Hải luôn náo loạn bởi hàng trăm vụ tập kích khác của Thanh Bang nhằm tiêu diệt lực lượng công nhân tự vệ. Phong trào công nhân Thượng Hải bị dìm vào bể máu và suy yếu, không còn đủ sức ngáng trở hay phản đối các chủ trương của Tưởng.[12]

Sự kiện này được gọi tên là "chính biến Thượng Hải", "biến cố ngày 12 tháng 4", hay là "cuộc thảm sát Thượng Hải".[13] Cuộc thảm sát đào sâu thêm hố chia cắt Tưởng và phe Vũ Hán của Uông Tinh Vệ. Đảng Cộng sản định tổ chức giành chính quyền tại một số thành phố lớn như Nam Dương, Trường Sa, Sán Đầu, và Quảng Châu. Đảng viên Cộng sản, cùng với nông dân và thợ mỏ tại Hồ Nam dưới sự lãnh đạo của Mao[14] tiến hành một cuộc nổi dậy, nhưng thất bại.[14] Tại Trung Quốc khi đó tồn tại ba thủ đô, thủ đô được quốc tế công nhận tại Bắc Kinh,[15] Phe Cộng sản và phe cánh tả thuộc Quốc dân đảng đóng thủ đô tại Vũ Hán,[16] và phe cánh hữu Quốc dân đảng đóng đô tại Nam Kinh, thành phố này sẽ tiếp tục đóng vai trò thủ đô của Quốc dân đảng trong suốt một thập kỷ kế tiếp.[15]

Đảng Cộng sản Trung Quốc nay bị trục xuất khỏi Vũ Hán bởi đồng minh của mình là phe cánh tả Quốc dân đảng, nhóm này đến lượt mình lại bị Tưởng Giới Thạch lật đổ. Quốc dân đảng tiếp đó tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh bắc phạt diệt lực lượng quân phiệt và đánh chiếm được Bắc Kinh vào tháng 6 năm 1928.[17] Tiếp đó, phần lớn miền đông Trung Quốc dần rơi vào tay chính quyền Nam Kinh, và chính quyền Quốc dân đảng tại Nam Kinh nhận được sự thừa nhận từ cộng đồng quốc tế như chính phủ hợp hiến duy nhất tại Trung Quốc. Quốc dân đảng tuyên bố nguyên tắc ba giai đoạn cách mạng, phù hợp với cương lĩnh của Tôn Dật Tiên: thống nhất vũ trang, bồi dưỡng chính trị, và dân chủ theo hiến pháp.[18]

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN DƯƠNG HÒA TRONG GIAI ĐOẠN 1930 - 1954

I. Quá trình vận động cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân ở Dương Hòa [1930 - 8/1945]

Với vị thế là địa bàn chiến lược quan trọng, điểm tiếp giáp với thành phố Huế - thủ phủ xứ Trung Kỳ bảo hộ, nên chính sách đô hộ của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai ở Dương Hòa[1] rất hà khắc. Bộ máy cai trị từ huyện đến tổng, xã khá hoàn chỉnh. Đứng đầu huyện là Tri huyện. Ở tổng có các Chánh- Phó tổng. Dưới xã, ấp là bọn lý, hương và địa chủ cường hào… chiếm đoạt công điền, công thổ, tham nhũng công quỹ, ức hiếp nông dân. Nhân dân Dương Hòa không có quyền tự do dân chủ nào.

Không thể cam chịu cảnh cùng cực, một số thanh niên có chí hướng ở Dương Hòa đã bắt đầu đi tìm hiểu thời cuộc qua sách báo, qua các cuộc tiếp xúc với những nhà yêu nước tại Huế.

Cuối năm 1929, nội bộ Tân Việt cách mạng Đảng bị phân hóa để chuyển sang Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Việc thành lập Chi bộ đảng Đông Dương Cộng sản liên đoàn có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần vào việc tuyên truyền giác ngộ một số thanh niên yêu nước ở Dương Hòa đi theo con đường cách mạng mới.

Ngày 03/02/1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ở Thừa Thiên Huế, tháng 4/1930, tại Bến Ngự [Huế], dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Hội nghị hợp nhất Đảng bộ tỉnh được tiến hành. Hội nghị tuyên bố hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn thành một tổ chức là Đảng Cộng sản Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên, do đồng chí Lê Viết Lượng làm Bí thư. Đồng chí Lê Bá Dị được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành lâm thời, trực tiếp chỉ đạo 3 huyện phía Nam, trong đó có Hương Thủy.

Sau ngày 01/5/1930, các đồng chí đảng viên chủ chốt trực tiếp đi vào nông thôn, miền núi vận động nông dân, tập hợp họ vào tổ chức nông hội, đấu tranh chống bọn cường hào, ác bá.

Ngày 18/6/1931, nhân kỉ niệm ngày Gia Long lên ngôi, nhiều truyền đơn được rải khắp Dương Hòa để vạch mặt bọn thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột nhân dân, kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi quyền sống.

Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào cách mạng của nhân dân ta. Tháng 10/1939, địch thực hiện cuộc khủng bố trắng ở Thừa Thiên, hầu hết các đảng viên ở Hương Thủy đều bị bắt. Hệ thống cơ sở bị phá vỡ, phong trào cách mạng ở Hương Thủy bị tổn thất nặng nề, còn lại một vài đồng chí và cơ sở phải rút vào hoạt động bí mật để đảm bảo duy trì những hoạt động của Đảng sau này.

Tháng 7/1942, đồng chí Nguyễn Chí Thanh vượt ngục trở về triệu tập Hội nghị cán bộ đảng tại Quảng Điền, triển khai Nghị quyết Trung ương VIII. Hội nghị quyết định củng cố các tổ chức đảng để đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới.

Ngày 23/5/1945, Ban Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị ở Đầm Cầu Hai [Phú Lộc], chuẩn bị khởi nghĩa. Sau Hội nghị, Tỉnh ủy cử các đồng chí Lê Minh, Phạm Quang Thuyết, Phan Bạch Vân về chỉ đạo phong trào ở Hương Thủy.

Được sự tiếp sức của tỉnh, các tổ chức đảng ở các huyện khẩn trương triển khai Nghị quyết Hội nghị Đầm Cầu Hai, tiến hành chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ đến là tổ chức nhân dân vùng lên khởi nghĩa.

Tháng 6/1945, Mặt trận Việt Minh huyện Hương Trà được thành lập lấy tên là Việt Minh Bình Sơn. Ban lãnh đạo Việt Minh Bình Sơn gồm các đồng chí: Đặng Cháu, Hoàng Liên, Trần Danh, Lâm Mộng Quang, Nguyễn Thị Út do Lâm Mộng Quang làm chủ nhiệm[2].

Đầu tháng 8/1945, không khí chuẩn bị khởi nghĩa ngày càng khẩn trương, nhân dân xã Dương Hòa cùng với các địa phương trong huyện Hương Thủy đẩy mạnh việc quyên góp thóc, gạo, tiền vào ngân quỹ của Việt Minh để trang cấp cho việc huấn luyện các đội tự vệ chiến đấu, rèn vũ khí, mua vải may cờ chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.

Trước khí thế của quần chúng và thấy rõ nguy cơ bị tiêu diệt của phát xít Nhật đang đến gần, ngày 10/8/1945, Tỉnh ủy họp phiên mở rộng quyết định kế hoạch khởi nghĩa. Sau Hội nghị, các đồng chí Tỉnh ủy viên trực tiếp về chỉ đạo ở các huyện.

Ngày 17/8/945, Việt Minh Bình Sơn [Việt Minh Hương Trà] họp, thành lập Ủy ban khởi nghĩa huyện và khu vực, đề ra kế hoạch khởi nghĩa ở các làng, tổng và tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế.

Dưới sự chỉ đạo của Việt Minh Bình Sơn [Việt Minh Hương Trà], ngay trong đêm 22 rạng sáng ngày 23/8 nhân dân Hương Thọ đã nhất tề nổi dậy đấu tranh giành chính quyền. Tại Dương Hòa đồng chí Ngô Đức Vui đã tập hợp các đoàn biểu tình từ các thôn về tại nhà thờ họ Phan tổ chức mít tinh tuyên bố chính quyền vào tay nhân dân. Bọn hương lý lo sợ đem ấn triện nộp cho chính quyền cách mạng của nhân dân[3].

Ngày 30/8, hàng nghìn nhân dân Dương Hòa đã về Huế cùng nhân dân toàn tỉnh tham dự cuộc mít tinh dưới rừng cờ đỏ sao vàng ở Ngọ Môn trong buổi lễ thoái vị của Bảo Đại và nghe đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xáo bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.

Ngày 02/9/1945, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] cùng nhân dân cả nước chứng kiến thời khắc lịch sử của dân tộc “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do, độc lập”.

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám [1945], nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] được đổi đời từ địa vị nô lệ, làm thuê trở thành người chủ xã hội. Cách mạng tháng Tám chứng minh truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất của nhân dân Dương Hòa. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã tạo ra bước ngoặt mới để xây dựng và phát triển Dương Hòa ngày càng khởi sắc sau này.

II. Xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân ở Dương Hòa [8/1945 - 12/1946]

Sau khi giành được chính quyền, việc xây dựng và giữ vững chính quyền là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức tạp. Với khó khăn về kinh tế tài chính, văn hóa, xã hội và ngoại xâm, tất cả đang đe dọa một cách nghiêm trọng vận mệnh dân tộc nói chung và Dương Hòa nói riêng. Nhưng do vừa thoát khỏi thân phận một người dân mất nước, nô lệ, nhân dân xã Dương Hòa ý thức sâu sắc giá trị của độc lập, tự do và nguyện đem hết khả năng trách nhiệm của mình để bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng vừa giành được.

1. Về chính trị.

Để củng cố nhà nước về mặt pháp lý và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ngày 22/11/1945 Chính phủ ra Sắc lệnh tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp, chuẩn bị Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Phấn khởi, tràn đầy tin tưởng, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên][4] cùng với nhân dân cả nước hăng hái tham gia bầu cử Quốc hội chung cả nước [6/1/1946]. Một không khí sinh hoạt chính trị sôi động đầy khắp thôn xóm. Trước ngày bầu cử các đoàn thể như Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc ngày đêm hăng hái vận động nhân dân tích cực tham gia bầu cử. Lực lượng tự vệ ngày đêm thường xuyên canh gác sẵn sàng đập tan mọi âm ưu phá hoại của kẻ địch, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của xã đã phổ biến quy định bầu cử, đồng thời nhấn mạnh cho nhân dân hiểu rõ tính chất dân chủ của việc phổ thông đầu phiếu. Khẩu hiệu “hoan nghênh ngày bầu cử thống nhất” hòa trong tiếng reo hò của đội cổ động đã làm tăng thêm không khí sôi động của ngày bầu cử. Nhiều loại thơ ca hò vè được nhân dân truyền miệng nhắc nhở nhau bầu cho các đại biểu do Việt Minh đưa ra ứng cử, như:

“Thích Mật Thể, kể cả Hoàng Anh

Cùng Trần Thanh Chữ bạn lành của ta…”

Hòm phiếu được đặt ở đình làng các thôn: Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc. Để tranh giành với ta, bọn Quốc dân đảng đã đưa ra một số ứng cử viên và chúng đã dùng mọi thủ đoạn xấu xa, thâm độc hòng lừa bịp nhân dân, chúng tìm cách nói xấu các đại biểu Việt Minh. Nhưng kết quả cuộc bầu cử đã thắng lợi, hầu hết các ứng cử viên do Việt Minh giới thiệu là Hoàng Anh và Thích Mật Thể đã trúng cử tỉ lệ cao, có người đạt trên 90% số phiếu.

Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chính trị rất to lớn, cho thấy nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] đã đặt hết tin tưởng vào Mặt trận Việt Minh, vào Chính phủ cách mạng.

Sau bầu cử Quốc hội, thực hiện Sắc lệnh 63/SL về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân để cử ra bộ máy chính quyền quản lý xã, thôn. Tại kì họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân xã Hương Nguyên đã bầu ra Ủy ban hành chính xã do đồng chí Hồ Văn Hiến làm Chủ tịch[5].

Để tiếp tục củng cố chính quyền cách mạng các cấp và đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới của cách mạng địa phương, công tác xây dựng Đảng rất được Huyện ủy Hương Trà chú trọng. Tháng 2/1946, tại thôn Hải Cát, đồng chí Đặng Cháu - Bí thư Huyện ủy Hương Trà, đã chủ trì lễ kết nạp 2 quần chúng ưu tú là đồng chí Trần Hữu Thí [quê ở Kim Long] và Đặng Hiền [quê ở Hải Cát]] vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó không lâu kết nạp thêm đồng chí Hồ Văn Hiến [quê ở Đình Môn] hình thành nên Chi bộ ghép đầu tiên, có nhiệm vụ lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng. Chi bộ do đồng chí Trần Hữu Thí làm Bí thư.

Ngay sau khi ra đời, Chi bộ ghép phụ trách 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng đã tích cực hoạt động, chú trọng xây dựng và phát triển lực lượng Đảng viên để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đến các địa bàn thôn, xóm. Tại Hương Thọ, được sự quan tâm của Chi bộ, các quần chúng ưu tú như Nguyễn Công Khanh [La Khê Bải], Trần Quang Hợi [Hải Cát Thượng], Bùi Văn Huyên [tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa], Lê Thương [La Khê Trẹm] đã được kết nạp vào Đảng, trên cơ sở đó Huyện ủy Hương Trà cử các đồng chí Hoàng Liên, Nguyễn Vật, Hồ Văn Hiến về xây dựng Tổ đảng Dương Hòa [Hương Nguyên] do đồng chí Hồ Văn Hiến trực tiếp chỉ đạo[6].

Sự kiện Chi bộ đảng Cộng sản ghép của 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty , Hương Phụng và Tổ đảng Dương Hòa ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong đời sống chính trị của nhân dân các xã. Từ đây dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ, tổ đảng nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] một lòng theo Đảng, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến kiến quốc, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng toàn thắng.

2. Về kinh tế.

Song song với việc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ở địa phương, Ủy ban Nhân dân lâm thời và sau đó là Ủy ban Hành chính đã tiến hành phân cấp lại ruộng đất chia cho dân nghèo. Tất cả nam nữ công dân từ 18 tuổi trở lên đều được cấp phát ruộng đất để cày cấy, sản xuất.

Thực hiện chủ trương của cấp trên, chính quyền địa phương đã tiến hành giảm 25% tô, thuế, giảm nợ cho nông dân, xóa bỏ thuế thân và mọi thứ thuế bất hợp lý khác.

Việc tịch thu ruộng đất của cường hào, của những kẻ có nợ máu, việc cấp phát ruộng đất, giảm tô, tức và các thứ thuế bất hợp lý đã có tác dụng rất lớn trong việc động viên nhân dân hăng hái tham gia sản xuất.

Trong tình thế khó khăn chung của đất nước, Chính quyền Cách mạng Dương Hòa [Hương Nguyên] đã đề ra một số biện pháp cấp bách như ra lệnh cấm dùng gạo vào những công việc không cần thiết như nấu rượu, làm bánh và kêu gọi nhân dân giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức “hũ gạo đồng tâm” để giải quyết nạn đói. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh sản xuất cũng rất được chú trọng. Hưởng ứng lời kêu gọi “tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa” của Đảng và Chính phủ, dưới sự chỉ đạo của Chính quyền và Chi bộ đảng địa phương, nhân dân Dương Hòa đã tích cực canh tác, từ sáng sớm đã có những đoàn người tham gia lao động sản xuất; đẩy mạnh hơn nữa việc khai hoang để mở rộng sản xuất. Nhờ vậy, đã tạo dựng được những tiền đề vững chắc để giải quyết tận gốc nạn đói.

Với quyết tâm của chính quyền cách mạng và sự nỗ lực của nhân dân, nạn đói đã được đẩy lùi, đời sống vật chất của nhân dân được ổn định và góp phần vào việc thực hiện khẩu hiệu “Diệt giặc đói” của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch.

  1. Phong trào xây dựng Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng.

Sau Cách mạng tháng Tám, tài chính Nhà nước hầu như trống rỗng. Để giải quyết khó khăn trên, ngày 04/5/1946 Chính phủ Lâm thời ra Sắc lệnh số 4 - Sắc lệnh xây dựng Quỹ độc lập và tổ chức “Tuần lễ vàng” trong cả nước kể từ ngày 12/9/1946 - 24/9/1946 nhằm động viên nhân dân tự nguyện đóng góp phần mình vào việc xây dựng đất nước và giữ vững nền độc lập.

Hưởng ứng phong trào gây Quỹ độc lập, Tuần lễ vàng ở Dương Hòa [Hương Nguyên], cán bộ cách mạng đã tuyên truyền và giải thích sâu rộng trong quần chúng nhân dân về ý nghĩa chính trị to lớn của việc làm nói trên. Đây không chỉ là việc quyên góp đơn thuần mang tính chất kinh tế mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc. Hiểu được ý nghĩa của hoạt động này, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] người ít kẻ nhiều đã lần lượt đến đình làng tự giác đóng góp vàng, bạc; có nhiều người còn đem cả vật kỷ niệm ngày cưới như đôi hoa tai vàng, nhẫn… đóng góp cho cách mạng không ghi tên tuổi. Tính chung, trong đợt vận động này, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] cùng toàn thể nhân dân Hương Thọ đã góp hơn 15 lượng vàng, 200kg đồng để đóng góp vào công quỹ Nhà nước[7].

Phong trào Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng đã đem lại kết quả tốt đẹp, nhiều người dân đã tham gia đóng góp với các mức độ khác nhau. Điều này đã thể hiện sự giác ngộ cách mạng và tinh thần yêu quê hương, đất nước, thiết tha với độc lập, tự do của nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên].

  1. Về văn hóa giáo dục.

Do hậu quả của chính sách ngu dân mà chế độ thực dân, phong kiến để lại, hơn 90% nhân dân Dương Hòa bị mù chữ. Vì vậy, để nâng cao dân trí, góp phần kiến quốc, công cuộc xóa nạn mù chữ được xem như là một yêu cầu cần kíp đặt ra cho chính quyền cách mạng.

Ngày 06/5/1946, Hội đồng Chính phủ đã họp và quyết định phát động phong trào xóa nạn mù chữ trong cả nước.

Sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, phong trào học chữ quốc ngữ thực sự là một phong trào rộng rãi của quần chúng mang tính chất tự giác cao. Các buổi học thường được tổ chức vào ban đêm tại các đình, các nhà thờ các thôn ở Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc, La Khê Trẹm... Nhân dân lao động trẻ, già, trai, gái không phân biệt lứa tuổi đều tích cực tham gia học tập. Mỗi thôn có từ 3 đến 4 lớp. Với tinh thần người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ, người biết nhiều dạy cho người biết ít, nên có người vừa là thầy vừa là trò[8]. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về dụng cụ học tập như: giấy, bút, dầu đèn... song tiếng ê, a đánh vần vào mỗi buổi tối vẫn vang lên từ đầu đến cuối làng.

Trong các buổi lao động gia đình hoặc hội họp tập thể, hình thức đố bài để giúp nhau ôn lại bài vở đã học đã diễn ra sôi nổi; nhiều bài thơ ca, hò vè đã được sáng tác để kịp thời vận động nhân dân học tập; tại những điểm giao thông có nhiều người qua lại, chính quyền địa phương đã tổ chức giăng dây đố chữ hoặc tổ chức thi hàng tuần, kỳ, tháng hoặc 3, 4 tháng một lần để kiểm tra và kịp thời có những biện pháp thích hợp khuyến khích nhân dân chú trọng hơn nữa đến công tác xóa nạn mù chữ. Từ trong phong trào “diệt giặc dốt”, nhiều cán bộ, đảng viên trở thành những giáo viên giỏi và sau này có những người trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng.

Thắng lợi của phong trào xóa nạn mù chữ không đơn thuần có giá trị về mặt văn hóa - xã hội, mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc.

Nhờ đó mà nhân dân lĩnh hội được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách tương đối dễ dàng, tạo thêm khả năng để nhân dân tham gia đóng góp phần mình vào công cuộc kháng chiến.

5. Về xây dựng lực lượng vũ trang và hỗ trợ phong trào Nam tiến.

  1. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ.

Hầu hết thanh niên tích cực ở Dương Hòa [Hương Nguyên] sau Cách mạng tháng Tám được đưa vào các đội tự vệ. Mỗi thôn có một tiểu đội, vũ khí chủ yếu là dao găm, mã tấu, nhưng tinh thần luyện tập rất hăng hái. Nhiệm vụ của các tiểu đội tự vệ là cảnh giác, tuần tra cho thôn xóm và bảo vệ cơ quan chính quyền xã. Tại Dương Hòa, đội tự vệ thôn có sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, phụ nữ như: Mai Văn Trừng, Lê Phán, Lê Thạc, Võ Thanh Duy, Phan Mông, Bùi Ngọc Tịnh, Võ Thị Mòn, Phan Bá Cừ, Phan Sinh, Phan Thị Hàm, Phan Tự… Do đồng chí Mai Văn Trừng làm đội trưởng [1949 - 1950][9].

Năm 1946, chính quyền nhân dân được thành lập và song song với việc tổ chức, củng cố các tổ chức đoàn thể quần chúng, lực lượng tự vệ được phát triển hơn. Đội trưởng tự vệ lúc này là đồng chí Mai Văn Trừng.

Không khí luyện tập rất hăng hái, sôi nổi hơn trước, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang không chỉ đóng khung trong các thôn xóm mà được mở rộng ra địa bàn xã.

  1. Phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến.

Ba tuần lễ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời [23/9/1945], thực dân Pháp núp bóng quân Anh quay trở lại xâm lược nước ta. Tiếng súng xâm lược nước ta lần thứ hai của thực dân Pháp đã gây nên một làn sóng căm phẫn dữ dội trong toàn thể quốc dân đồng bào cả nước. Nhân dân Nam bộ ngay từ đầu đã nhất tề đứng dậy cầm súng đánh giặc, mở đầu một trang sử vô cùng oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi đồng bào cả nước dốc sức ủng hộ Nam bộ kháng chiến.

Ở Dương Hòa [Hương Nguyên], phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú. Thanh niên Dương Hòa [Hương Nguyên] đã nô nức lên đường vào Nam chiến đấu. Nhiều người đã gia nhập giải phóng quân, khẩu hiệu “Đả đảo thực dân Pháp, ủng hộ Nam bộ kháng chiến”, “Thà chết vinh còn hơn sống làm nô lệ” được giương cao khắp thôn xóm, Ủy ban ủng hộ Nam bộ kháng chiến được thành lập, động viên nhân dân ủng hộ nhân tài vật lực cho miền Nam như lúa, gạo, chăn màn, quần áo, tiền bạc để mua sắm vũ khí.

Cùng với cả nước, phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến ở Dương Hòa [Hương Nguyên] thực sự trở thành cuộc vận động chính trị vô cùng rộng lớn kể từ sau Cách mạng tháng Tám. Đã có những đóng góp vật chất, tinh thần xứng đáng cho kháng chiến chống quân xâm lược.

Thời kỳ từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ là thời kỳ mà đất nước nói chung và Dương Hòa [Hương Nguyên] nói riêng gặp vô vàn khó khăn như trong tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm cùng với muôn vàn khó khăn đã đặt đất nước, quê hương trước thử thách nghiêm trọng. Song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ cấp trên và các đảng viên lúc đó như Hồ Văn Hiến [Xạ Hiến người Đình Môn], Nguyễn Công Khanh [Hải Cát] nên chỉ trong một thời gian rất ngắn, chính quyền cách mạng Dương Hòa [Hương Nguyên] đã lãnh đạo nhân dân giải quyết nhiều vấn đề phức tạp, chuẩn bị tiềm lực để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài và hết sức gian khổ.

III. Dương Hòa [Hương Nguyên][10] tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược [19/12/1946 - 20/7/1954]

Đúng như Đảng đã dự đoán, thực dân Pháp tiếp tục chính sách “việc đã rồi” hòng đặt lại ách thống trị của chúng lên đất nước ta. Sau nhiều vụ khiêu khích của thực dân Pháp, ngày 19/12/1946, chiến tranh bắt đầu lan tỏa khắp đất nước. Thời kỳ tạm hòa hoãn đã chấm dứt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, toàn dân Việt Nam đã đứng dậy kháng chiến, kiên quyết giữ vững độc lập, thống nhất tổ quốc.

Ngày 20/12/1946, Hồ Chủ tịch thay mặt Đảng và Chính phủ, kêu gọi đồng bào cả nước: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[11].

Cùng cả nước, cả tỉnh và thành phố Huế nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi kháng chiến của Đảng và Hồ Chủ tịch.

1. Dương Hòa [Hương Nguyên] từ kháng chiến toàn quốc bùng nổ [19/12/1946] đến khi mặt trận Thừa Thiên Huế vỡ [5/2/1947].

Mặc dù đã kí với Chính phủ các Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước ngày 14/9, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ mưu đồ tái xâm chiếm nước ta. Chúng sẵn sàng hành động với sự hậu thuẫn của các nước đồng minh để chiếm lại nước ta bằng mọi giá.

Tại Thừa Thiên Huế, trước những hành động xâm lược trắng trợn của quân đội Pháp, đầu tháng 12/1946, Thường vụ Tỉnh ủy họp đã rà soát kiểm điểm việc chuẩn bị các mặt cho công cuộc kháng chiến và đề ra nhiệm vụ mới cho toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh.

Ngày 19/12/1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngay trong đêm hôm đó, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên thông qua kế hoạch tác chiến của Liên khu 4 và Ủy ban kháng chiến Liên khu. Tỉnh ủy chủ trương dùng lực lượng vũ trang kết hợp sức mạnh của nhân dân tiến công, bao vây và tiêu diệt quân Pháp đóng ở Huế trước khi lực lượng tăng viện của địch đến.

Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy, suốt đêm hôm đó và ngày hôm sau, tất cả các xã trong toàn huyện Hương Thủy đã sôi sục trong bão lửa chiến tranh, quyết đem tinh thần chiến đấu chống thực dân Pháp bảo vệ quê hương.

Trong 50 ngày đêm liền, quân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] đã góp phần cùng quân dân Hương Thủy tấn công liên tục vào những các vị trí của địch có pháo binh yểm trợ lưu động trên trận địa Hương Thủy từ Quảng Tế đến Ngự Bình. Ban ngày từ các vị trí chúng tấn công ta bằng thiết giáp và bộ binh. Ta dựa vào trận địa giao thông mà chiến đấu bằng nhiều hình thức phù hợp như bắn tỉa, bắn đón bằng súng trường. Nhiều lúc đánh giáp lá cà, đánh cháy xe thiết giáp của chúng bằng bom xăng.

Các cuộc tấn công của ta diễn ra bằng những vũ khí thô sơ, có khi còn dùng cả rơm rạ và ớt, dùng lửa và khói đánh vào các tòa nhà chúng dùng làm công sự để chặn ta tấn công. Hầu hết các gia đình trong xã đều có đóng góp ít nhất là một gánh rơm, vài ba lon ớt… Khoảng 7 - 8 giờ tối, tất cả những thứ đó được đưa xuống đò chuyển về Huế tiếp viện cho lực lượng bộ đội đánh địch[12].

Tại chùa Khoai [nơi xưa kia đặt Bộ Chỉ huy của Đoàn Trưng, Đoàn Trực lãnh đạo khởi nghĩa Chày Vôi] chị Tú - cán bộ phụ nữ huyện, báo cáo trước nhân dân trong xã về tình hình diễn biến chiến trận và kêu gọi nhân dân “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hưởng ứng lời kêu gọi của chị

Tú, đồng chí Thân Trọng Một và đồng chí Thạnh ở Dương Hòa [Hương Nguyên] đã tình nguyện tham gia đội quân này, sẵn sàng hy sinh tính mạng cho Tổ quốc. Hôm sau, hai đồng chí vác bộ 10kg bộc phá vào nhà Mác-bớp đánh địch đang cố thủ ở đây. Đồng chí Thạnh hy sinh tại chỗ, đồng chí Thân Trọng Một bị thương[13].

Khi mặt trận tiếp tục mở rộng, địch liên tiếp càn quét. Do chủ quan và chưa nắm được tình hình, nên lúc đầu các cơ sở của ta bị vỡ, chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể phải rút lui, thậm chí các đồng chí cán bộ trong Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến phải phân tán mỗi người một nơi. Sau khi địch rút lui, lực lượng của ta lại tập hợp, củng cố để chuẩn bị đối phó với kế hoạch mới của địch

Nhìn chung, trong khoảng thời gian này, lúc đầu ta có lúng túng, bị động nhưng chỉ sau một thời gian ngắn được sự chỉ đạo của Trung ương, tỉnh, huyện, quân và dân Dương Hòa [Hương Nguyên] vẫn thực hiện cuộc rút lui về tuyến sau an toàn, xây dựng căn cứ địa đảm bảo lực lượng để bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.

2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] từ tháng 2/1947 đến cuối năm 1950.

  1. Âm mưu của thực dân Pháp

Sau khi chiếm được thành phố và các đầu mối giao thông quan trọng, thực dân Pháp tổ chức những cuộc hành quân lớn để càn quét vùng đồng bằng và đánh sâu vào căn cứ của ta ở rừng núi, đặc biệt là Dương Hòa, nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang, phá hoại kho tàng của ta. Đi đôi với chiến thuật càn quét lớn, giặc Pháp dùng chiến thuật cứ điểm nhỏ để kìm chân các hoạt động của ta ở đồng bằng, phong tỏa ta ở miền núi. Địch đánh tới đâu, chúng xây dựng, đóng đồn tới đó để thực hiện chiến thuật “Vết dầu loang”.

Tại Dương Hòa [Hương Nguyên], thực dân Pháp đã hỗ trợ cho Linh mục Nguyễn Ngọc xây dựng Giáo xứ Buồng Tằm. Nhiệm vụ chủ yếu của các đồn, lô cốt là bảo vệ an ninh cho địch, khủng bố nhân dân, xây dựng bộ máy tề - ngụy phản động ở địa phương, lùng bắt cán bộ và phá hoại phong trào.

  1. Chủ trương kháng chiến của ta:

Không để cho thực dân Pháp thực hiện được những ý đồ thâm độc của chúng, nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chi bộ đảng đã lãnh đạo nhân dân dũng cảm đứng lên đấu tranh phá tan các âm mưu của địch.

Một tháng rưỡi sau khi vỡ mặt trận, Hội nghị Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế mở rộng đã họp từ ngày 25 đến 27/3/1947 tại thôn Nam Dương [huyện Quảng Điền] dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị đã kiểm điểm tình hình phong trào cách mạng trong toàn tỉnh từ khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ đến khi mặt trận mở rộng. Đồng thời đề ra nhiệm vụ cần kíp trước mắt để củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Hội nghị chủ trương:

+ Tiếp tục tiếng súng kháng chiến, không để cho giặc ăn ngon, ngủ yên, phá chính sách “bình định” của giặc, cương quyết phá tề, trừ gian, làm cho đồng bào tin tưởng Đảng vẫn còn, bộ đội vẫn còn và nhân dân tiếp tục kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.

+ Tổ chức tăng gia sản xuất, cất giấu của cải, lúa gạo, tổ chức cảnh giác để lúa gạo không rơi vào tay giặc.

+ Xây dựng lại cơ sở, tổ chức đưa cán bộ về lại địa phương cũ để hoạt động, gây dựng lại phong trào, cơ sở, nắm lấy quần chúng để kháng chiến [nhất là 3 huyện phía Nam Thừa Thiên], phải chấn chỉnh lại quân đội, tổ chức lại hệ thống chỉ huy và cơ sở du kích, chỉnh đốn lại Ủy ban, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng[14].

Sau Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng họp ở Nam Dương [3/1947], Huyện ủy Hương Trà đã họp quán triệt chủ trương của cấp trên và đề ra những biện pháp cấp thiết giữ vững chính quyền cách mạng.

Thực hiện chủ trương của Hội nghị cán bộ toàn tỉnh và Huyện ủy Hương Trà, cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa [Hương Nguyên] đã từng bước khôi phục, củng cố phong trào cách mạng, góp phần với huyện, tỉnh làm nên những thắng lợi quan trọng trên các mặt trận: chính trị, kinh tế và quân sự trong giai đoạn 1947 - 1950.

c. Nhân dân Dương Hòa chiến đấu chống lại âm mưu của thực dân Pháp, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc [từ ngày 5/2/1947 đến cuối năm 1950].

- Phong trào đấu tranh của nhân dân Dương Hòa từ ngày 5/2/1947 đến giữa năm 1948.

Sau khi Mặt trận Huế vỡ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lan rộng khắp toàn tỉnh. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi các cơ sở đảng phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo mình đối với phong trào cách mạng của quần chúng. Nhận thức rõ những yêu cầu cấp thiết nói trên, từ năm 1947, việc phát triển đảng viên, xây dựng các hạt nhân nòng cốt để trực tiếp lãnh đạo nhân dân địa phương tiếp thu và thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng rất được các Chi bộ cơ sở chú trọng. Tại Hương Thọ, với những hoạt động tích cực của Chi bộ đảng, số lượng đảng viên của xã cuối năm 1947 đã tăng lên 18 người, gồm các đồng chí: Hồ Văn Hiến [tức Xạ Hiến, Đình Môn], Bùi Văn Huyên [tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa], Lê Thượng [La Khê Trẹm], Nguyễn Công Khanh [La Khê Bãi], Trần Quang Hợi [Hải Cát Thượng], Nguyễn Bạo [Hải Cát Hạ], Trần Quang Bỉnh [Hải Cát Thượng], Đặng Văn Tuân [Hải Cát Thượng], Lê Văn Kế [La Khê Trạm], Mai Văn Trọng [Hải Cát Thượng], Nguyễn Văn Nghệ [La Khê Trẹm], Nguyễn Bách [La Khê Trẹm], Nguyễn Thị Châu [Kim Ngọc], Mai Văn Trừng [Đình Môn], Phan Bá Cừ [Dương Hòa], Mai Văn Sử [Đình Môn], Nguyễn Dương [Kim Ngọc]. Về sau, các đồng chí trên mất liên lạc với tổ chức và không thể tiếp tục hoạt động.

Nhờ sự phát triển mạnh của lực lượng đảng viên đã góp phần quan trọng củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của Chi bộ Hương Thọ và Tổ đảng Dương Hòa trong thực hiện nhiệm vụ đánh địch trên mọi mặt, dưới mọi hình thức để từng bước làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.

Sau khi xây dựng hệ thống đồn bốt tại địa phương, thực dân Pháp bắt đầu xây dựng và củng cố lại bộ máy tề - ngụy, nhằm tạo lập chính quyền tay sai phục vụ cho những chính sách xâm lược của chúng. Trước tình hình đó, ta chủ trương biến hội tề của địch thành lực lượng hoạt động phục vụ cho cách mạng, bằng cách đưa một số người của ta cài vào hoạt động trong các tổ chức của địch để có điều kiện hoạt động công khai và kiên quyết trừng trị những tên phản cách mạng phục vụ đắc lực cho thực dân Pháp. Tại Dương Hòa [Hương Nguyên], mặc dù địch đã thành lập bộ máy hương lí làm tay sai cho chúng nhưng bộ máy này đã bị vô hiệu hóa vì ta đã cài người của mình vào đây.

Thực hiện chủ trương không để địch tăng cường các hoạt động quân sự nhằm chống phá lực lượng cách mạng, ta đã tập trung lực lượng dân quân tiến hành bao vây liên tục không cho địch tiếp xúc với bên ngoài. Kết hợp với bao vây, ta tiến hành binh vận, kêu gọi những binh lính lầm đường lạc lối, thức tỉnh trở về với cách mạng.

Đầu năm 1947, Đội hành động [tổ chức của An ninh Trinh sát vũ trang] về đóng quân tại Đình Môn [khu vực lăng Gia Long]. Để giữ vai trò liên lạc giữa đồng chí lãnh đạo Ty Công an ở Dương Hòa với tổ Minh Khai [các cơ sở, các điệp báo viên cắm trong thành phố], các đội viên đội công an hành động qua cơ sở ở Dương Hòa đã hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo đường dây liên lạc giữa Đội Công an Hành động ở chiến khu Dương Hòa và thành phố.

Tháng 3/1947 tại 2 thôn Dương Hòa và Đình Môn, dựa vào bọn phản động và Linh mục Nguyễn Ngọc chỉ điểm, thực dân Pháp đã bắt 13 cán bộ chủ chốt của xã đem về đồn Nam Giao để khai thác dụ dỗ nhưng không thành. Chính vì vậy, nhiệm vụ trừ gian, diệt tề tại đây được tiến hành khẩn trương nhằm đảm bảo an toàn cho lực lượng kháng chiến và củng cố niềm tin cho nhân dân[15]. Quán triệt tinh thần chỉ đạo trên, tháng 7/1947, đồng chí Thân Trọng Một, Phạm Công Lan phối hợp với đồng chí Hồ Văn Hiến [Xạ Hiến], Chủ tịch xã Hương Nhuyên chỉ huy quyết tử quân, du kích đánh và giải tán bọn phản động tại đây. Linh mục Ngọc phải bỏ giáo xứ chạy về nhà thờ Thần Phù.

Sau chiến thắng này, ta đã làm chủ hoàn toàn con đường liên lạc Bắc - Nam đi qua Dương Hòa, mở ra vành đai bảo vệ từ Le Le lên đến điện Hòn Chén, tạo tiền đề to lớn để năm sau xây dựng chiến khu Dương Hòa[16]. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Dương Hòa từ đây bắt đầu có những bước phát triển mới. Chuyển từ thế phòng ngự sang chiến tranh du kích diệt tề, trừ gian. Từ đó đã tạo dựng được những tiền đề quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của phong trào dân quân du kích ở Dương Hòa.

Do vậy, vào đầu năm 1948, mặc dù thực dân Pháp thực hiện kế hoạch bình định vùng đồng bằng và bao vây chiến khu miền núi, tiến hành xây dựng đồn bốt, làm chỗ dựa về quân sự cho việc xây dựng chính quyền tề, ngụy của chúng nhưng vẫn không đàn áp được phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Du kích các xã đã ra sức phối hợp với bộ đội chính quy [Trung đoàn 101] đánh địch càn quét, hỗ trợ nhân dân làm chủ thôn xóm. Hoạt động vũ trang được đẩy mạnh khắp toàn huyện.

- Sự ra đời của chiến khu Dương Hòa và các hoạt động đấu tranh cách mạng bảo vệ chiến khu của nhân dân Dương Hòa [từ giữa năm 1948 đến năm 1949].

Vấn đề xây dựng chiến khu, căn cứ kháng chiến được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết hàng đầu góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến. Nhận thức rõ về vấn đề trên, ngay trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, việc chọn địa bàn để xây dựng thành điểm đứng chân cho các ban ngành lãnh đạo kháng chiến của tỉnh và bảo toàn lực lượng cách mạng rất được Tỉnh ủy chú trọng thực hiện. Trên cơ sở đó, từ năm 1947 các chiến khu cách mạng đã lần lượt ra đời: chiến khu Hòa Mỹ [Phong Điền], chiến khu Trò [Hương Trà], Khe Tre - Nam Đông [Phú Lộc]... Tại Hương Thủy chiến khu động Mỏ Tàu [ở đất xóm Hộ, Dương Hòa] đã được thành lập vào năm 1947, đặt tên là chiến khu Phương Hải để tưởng nhớ 2 đồng chí đã hy sinh: đồng chí Lê Trạc [Hải], Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách Huyện ủy Phú Vang và đồng chí Nguyễn Thượng Phương [Hương Thủy].

Đến giữa năm 1948, phong trào cách mạng ở các huyện phía Nam của tỉnh phát triển mạnh nhằm để đáp ứng yêu cầu sự lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, tháng 5/1948, Tỉnh ủy đã quyết định chuyển địa bàn từ chiến khu Hòa Mỹ vào vùng rừng núi phía Tây huyện Hương Thủy để xây dựng chiến khu Dương Hòa, lấy làng Dương Hòa làm trung tâm của chiến khu.

Việc lựa chọn Dương Hòa làm căn cứ đứng chân của lãnh đạo tỉnh không phải được quyết định một cách ngẫu nhiên, mà quyết định này được đưa ra trên cơ sở những phân tích về vị trí địa lí và thực tiễn hoạt động của các tổ chức cách mạng tại đây.

Dương Hòa là vùng đất được bao bọc bởi 2 nhánh sông Tả Trạch và Hữu Trạch, có núi non che chở ở phía Tây, phía Nam gần đô thị Huế [cách Huế 12km], cách trung tâm huyện lị Hương Thủy 11km theo đường chim bay, nằm trên tuyến đường nối liền 2 chiến khu Hòa Mỹ [Phong Điền] và Khe Tre - Nam Đông [Phú Lộc], tạo thế liên hoàn giữa các mặt trận.

Chiến khu bao gồm địa phận xã Hương Thọ [Hương Trà] và các vùng lân cận khu vực rừng núi của dãy Trường Sơn trùng điệp, tiếp giáp với thôn Lương Miêu. Ngoại vi chiến khu bao gồm Bình Điền, An Bằng, Hải Cát và một số thôn thuộc các xã Phú Sơn, Thủy Bằng [Hương Thủy]. Do vậy, từ chiến khu Dương Hòa ta có nhiều thuận lợi để triển khai các hoạt động về các xã đồng bằng: Dương Hòa - Hương Thủy [từ Dương Hòa về Ấp 5, Thủy Phương], Dương Hòa - Hương Hồ [từ Dương Hòa qua đồi “Đất Mẹ” [Thủy Bằng], sau lưng điện Hòn Chén về Hương Hồ], Dương Hòa - Huế [Dương Hòa vượt qua sông đến Thủy Bằng về Huế], Dương Hòa - Liên khu 5 [Dương Hòa băng qua Khe Sòng, Khe Ván đi Nam Đông lên Liên khu 5].

Nhìn chung,“đặc điểm của chiến khu Dương Hòa là dễ thủ khó công. Tiếp tế lên về có nhiều đường, nhiều phía. Đánh địch cũng dễ vì chỉ cần vận động trong thời gian ngắn là có thể đến được nơi cần đến”[17] nên có nhiều ưu thế để cơ quan đầu não kháng chiến tỉnh chọn đây làm nơi đứng chân của mình để lãnh đạo kháng chiến.

*Bệnh viện, cơ quan thông tin văn hóa, cơ quan Thành ủy Huế đóng ở Khe Cống, đồi 815.

Chiến khu Dương Hòa được thành lập một mặt vừa tạo điều kiện cho Đảng bộ và nhân dân Dương Hòa tiếp nhận sự chỉ đạo sát sao của Ban Lãnh đạo kháng chiến của Tỉnh ủy, Huyện ủy, mặt khác cũng đặt ra cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa những nhiệm vụ hết sức nặng nề, đó là phải trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối cho chiến khu và phải tổ chức các hoạt động đảm bảo việc vận chuyển, tiếp tế lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm cho chiến khu.

Trong những ngày đầu mới thành lập, Chiến khu Dương Hòa dựa vào sự che chở, tiếp tế của nhân dân các làng khắp Hương Thủy, Hương Trà cũng như thị xã Huế để duy trì hoạt động.

Hàng hóa trung chuyển từ đồng bằng lên Chiến khu Dương Hòa để chi viện cho các cơ quan cách mạng đều tập kết cạnh miếu Ngũ Hành, ở thôn Hạ [một thôn của Dương Hòa]. Với vai trò, vị trí trọng yếu như vậy đối với chiến khu, khu vực này được xem như là chợ kháng chiến của ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp xâm lược[18]. Hoạt động của chợ kháng chiến Dương Hòa thời kì này rất tấp nập. Gần như mọi thứ hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu cho đời sống cán bộ, nhân dân đều có ở đây. Ngay cả khi địch tiến hành ngăn chặn, cô lập Chiến khu Dương Hòa khốc liệt, chợ kháng chiến Dương Hòa vẫn tiếp tục duy trì hoạt động. Nhiều đoàn dân công từ Dương Hòa lên, về thành phố tiếp tế lương thực, thực phẩm để nuôi cán bộ, bộ đội; nhiều con em Dương Hòa đã phải hi sinh vì bom đạn của địch hoặc bị bắt bớ tù đày trong quá trình vận chuyển các nhu yếu phẩm tiếp tế cho chiến khu, song vẫn một lòng trung thành với cách mạng; có nhiều chị; nhiều mẹ tháng tháng, ngày ngày nuôi giấu cán bộ, nuôi dưỡng thương binh, không một chút suy tính[19].

HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ, CẢI TẠO XÂY DỰNG CNXH [ 1954- 1965]

Đăng lúc: 09/03/2021 [GMT+7]
100%

CHƯƠNG V

HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ, CẢI TẠO XÂY DỰNG CNXH [ 1954- 1965]

Với chiến thắng lịch sử Điên Biên Phủ [7- 5- 1954] miền Bắc hoàn toàn giải phóng bước vào xây dựng CNXH. Nhưng ở miền Nam đế quốc Mỹ đã nhảy vào đặt ách cai trị bằng chủ nghĩa thực dân mới nhằm uy hiếp CamPuChia và

khống chế Lào.

Trước tình hình đó, Đảng ta khẳng định: Dân tộc Việt Nam đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong suốt 9 năm kháng chiến [1945 - 1954], Thanh Hoá là vùng hậu phương vững chắc chi viện cao nhất,nhiều nhất sức người, sức của cho tiền tuyến. Sau hoà bình lập lại dưới sự lãnh đạo của Đàng bộ tỉnh các tầng lớp nhân dân trong tỉnh phấn khởi tự hào và khẩn trương triền khai thực hiện Nghị quyết 6 và 7 của Trung ương Đảng về việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chù, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế văn hoá, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà.

Song vào thời kỳ này cũng như các địa phương khác trong cả nước, tỉnh Thanh phải đối mặt với những khó khăn phức tạp do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gây ra nhằm chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH của nhân dân miền Bắc, trong đóThanh Hoá là một trọng điểm.

Tại miền Tây Thanh Hoá, địch đã cho máy bay lén lút tiếp tế vũ khí, lương thực, thực phẩm và quân trang cho bọn gián điệp, thổ phỉ ở vùng Tam Chung, Quang Chiểu [Quan Hoá], tăng cường tuyên truyền xuyên tạc với các luận điệu : “ Đầu năm hoà bình, cuối năm chiến tranh”, “ chế độmiền Bắc sưu cao, thuế nặng", “bên Lào hàng hoá rẻ và dễ mua” nhằm làm giảm niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Chính phủ, hạ thấp ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bằng biện pháp kíchđộng, lung lạc, hăm doạ, cưỡng ép, chúng đã đưa một số đồng bào các dân tộc di cư sang Lào, phá hoại sự đoàn kết chiến đấu của hai dân tộc Việt - Lào.

Ở một số vùng có dân cư theo đạo Thiên chúa, trước khi rút khỏi miền Bắc, bọn địch đã cài cắm gián điệp nhằm tạo cơ sở phá hoại lâu dài. Dựa vào Điểu 14D của Hiệp định Giơnevơ, bọn phản động đã tung ra luận điệu “miền Bắc sẽ chết đói”, “miền Bắc không được tự do tín ngưỡng”, “chúa đã vào Nam”, “Mỹ sẽ ném bom nguyên tử xuống miền Bắc”. Bằng những thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp và sự cưỡng ép tàn bạo của địch, hàng ngàn giáodân đã lìa bỏ quê hương di cư vào Nam. Ởhuyện Nga Sơn, Tĩnh Gia, bọn phản động lợi dụng tôn giáo tập hợp bọn côn đồ chống đối, vu cáochính quyền cách mạng. Ở các huyện Quảng Xương, Nông Cống, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hoá, bọn phản động đã len lỏi vào nhà thờ vào các khu vực tập trung dân theo đạo Thiên chúa để tuyên truyền, kích động và tổ chức di cư....

Cùng với khó khăn phức tạp do địch gây ra là những khó khăn về sự nghèo nàn lạc hậu vốn có của nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc lại bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề. Tuyến đê sông Mã, Sông Chu bị vỡ, mất mùa xẩy ra liên tiếp, năm 1954 nạn đói diễn ra nghiêm trọng trên địa bàn toàn tỉnh, các loại dịch bệnh đồng thời phát sinh.

Đứng trước tình hình khó khăn đó, Đảng bộ Thanh Hoá vẫn bình tĩnh sáng suốt, kịp thời đề ra chủ trương biện pháp đúng đắn, tổ chức lãnh đạo toàn dân khắc phục khó khăn, trở ngại đưa sự nghiệp cách mạng tỉnh nhà tiến lên cùng cách mạng cả nước.

Là một huyện trọng điểm của tinh, sau ngày giải phóng Thọ Xuân cũng phải đối mặt trực tiếp vài những khó khăn phức tạp do địch và thiên tai gây ra.

Tại các nhà thờ và khu vực tập trung dân cư theo đạo Thiên chúa, bọn phản động đội lốt tôn giáo đã ráo riết hoạt động, tung tin bịa đặt, tuyên truyền kích động tập hợp dân chuẩn bị di cư.

Tháng 9 - 1954, mưa lớn kéo dài nước từ thượng nguổn đổ về dữ dội, mực nước sông Chu dâng cao, một số đoạn đê ở Liên Phô [xã Thọ Nguyên] bị vỡ gây ra ngập úng hàng ngàn ha lúa sắp đến ngày thu hoạch. Đặc biệt ở các xã Thọ Thế, Thọ Tân, Thọ Dân, Thọ Cường, Xuân Thịnh, Xuân Lộc... có vùng nhân dân phải lên mái nhà ngồi, nước rút chậm, mùa màng hầu như mất trắng, bệnh tật phát sinh, nạn đói diễn biến gay gắt.

Bên tả đoạn đê Căng Hạ [Thọ Trường] vừa bị vỡ, vừa bị nước sông Cầu Chày dâng cao, các xã Phú Yên, Xuân Tín, Xuân Minh [cũ], Thọ Trường [cũ] đều bị ngập lụt. Cả huyện gần hàng ngàn ha lúa màu bị ngập úng.

Cuối năm 1954 đầu năm 1955 nạn đói diễn ra nghiêm trọng trên địa bàn huyện, hàng trăm người bị đói lả, rải rác ở các làng đã có người bị chết đói, dịch bệnh diễn ra. Tình hình đó đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân toàn huyện bình tĩnh sáng suốt phát huy truyền thống cách mạng giải quyết khó khăn đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

I- HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH VÀ THIÊN TAI KHÔI PHỤC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - VĂN HOÁ [1954-1960]

Chống âm mưu, thủ đoạn thâm độc của địch cưỡng ép đổng bào giáo dân di cư vào Nam, sang Lào. Ngay sau khi nhận được chỉ thị của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ Thọ Xuân đã có những biện pháp chỉ đạo sát thực kịp thời, tăng cường một số đồng chí huyện uỷ viên và cán bô Dân vận về vùng giáo ởxứ đạo Phúc Địa [Quảng Phú], tứ xứ Hữu Lê [Thọ Xương], xứ đạo Bích Phương, Ngọc Lạp [Xuân Sơn] cùng với bộ phận bám sát nắm tình hình từng gia đình, ngõ xóm, vận động quần chúng không mắc mưu địch.Với tinh thần: Chúa có ở khắp mọi nơi, mọi nhà, chỉ cần kính chúa yêu nước, đồng bào hãy yên tâm ở lại quê hương làm ăn sinh sống.

Huyện Đoàn Thọ Xuân chịu trách nhiệm trước Đảng bộ tổ chức thanh thiếu niên cắm trại, liên hoan văn nghệ, lấy lại không khí đầm ấm phấn khởi đến từng gia đình.Đảng bộ còn mở các lớp tập huấn cho cán bộ cơ sở nhằm triển khai chỉthị của Liên khu uỷ IV, của Tỉnh ủy Thanh Hoá vận động giáo dân đấu tranh đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của dịch và tranh thủ các linh mục thuyết phục đồng bào ở lại quê hương, cử cán bộ cơ sở bám làng, bám dân giải thích giác ngộcho mọi người hiểu và thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Chính phủ, vạch trần âm mưu, hành động phản cách mạng của địch.

Nhờ làm tốt chính sách tuyên truyền vận động nên đã kịp thời làm cho những người có ý định di cư quay trở lại quê nhà. Một số giáo dân do được giác ngộ đã viết đơn thư gửi Uỷ ban Quốc tế tố cáo bọn phản động tay sai đế quốc, vi phạm Hiệp định Giơnevơ, cưỡng ép họ và gia đình di cư vào Nam, làm cho nhiều gia đình ly tán khốn khổ, họ kiến nghị Ủy ban Quốc tế giám sát can thiệp để gia đình được đoàn tụ.

Khi nhận được đơn, thưTổ chức Quốc tế giám sát thi hành Hiệp định Giơnevơ ở Việt Nam đã đến vùng giáo xã Quảng Phú [Thọ Xuân] kiểm tra sự thật. Tại đây đồng bào đã vạch trần sự bịa đặt xuyên tạc của bọn phản động vu khống chính quyền địa phương ngăn cản việc tự do chọn nơi cư trú của giáo dân theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, làm thất bại âm mưu nham hiểm của địch.

Tại xã Xuân Bái [Thọ Xuân], khi Tổ chức Quốc tế vào chùa Bái Thượng gặp sư Tráng, nhà sư đã tố cáo việc ném bom, bắn phá vào chùa của thực dânPháp cho đến nay vẫn còn gây tâm lý hoang mang lo lắng trong giáo dân.

Qua đợt kiểm tra tra của Tổ chức Quốc tế tại các vùng giáo dân [Thọ Xuân] đã làm cho tình hình chính trị trở lại ổn định. Đông đảo giáo dân tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước yên tâm ở lại quê hương làm ăn sinh sống.

Cùng với ngăn chặn sự quấy phá của các tổ chức phản động, Đảng bộ, Chính quyền chỉ đạo nhân dân tiến hành các biện pháp chống đói.

Huyện chủ trương bước đầu động viên từng xã, từng làng giúp đỡ tương trợ nhau nhường cơm sẻ áo, lá lành đùm lá rách. Các vùng gặp khó khăn ít giúp các vùng khó khăn nặng hàng tấn gạo, ngô, khoai, sắn và hàng trăm ngàn đồng.

Do nạn đói kéo dài, số người đói ngày càng tăng. Đứng trước tình hình cấp bách đó, Huyện uỷ chỉ đạo thành lập “Ban cứu đói” do đồng chí Trịnh Ngọc Bích, Chủ tịch UBHC huyện làm Trưởng ban. Ban vận động đã cùng kết hợp cán bộ chủ chốt của các xã kiểm tra thực tế tình hình ờ từng làng, báo cáo với Ban chỉ đạo cứu đói cấp tỉnh bàn biện pháp hỗ trợ, Huyện uỷ - UBHC phát động phong trào toàn dân đoàn kết tương trợ cứu đói tại chỗ, phòng chống dịch bệnh, tích cực trồng rau xanh ngắn ngày. Thau giếng, khôi phục nguồn nước sinh hoạt, dọn vệ sinh ở từng giađình, thôn xóm, làng xã. Huyện đã huy động hàng ngàn lượt người đem theo trâu, bò và các loại giống đến các vùng bị đói để giúp nhân dân phục hồi sản xuất.

Ban chỉ đạo cứu đói huyện đã báo cáo kịp thời, Tỉnh đã trợ cấp nhân dân bị đói 800 tấn gạo [chia làm 3 đợi].

Nhờ sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo huyện và nhân dân, giữa năm 1955 nạn đói được đẩy lùi, đời sống nhân dân trở lại bình thường và được ổn định dần.

Ngay sau khi hoà bình vừa lập lại, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo Uỷ ban hành chính tỉnh lập kế hoạch sửa chữa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sôngChu để trình Chính phủ. Được Chính phủ phê duyệt, Tỉnh uỷ quyết định mở công trường tu sửa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sông Chu và ra quyết định thành lập Ban chỉ đạodo đồng chí Phó Chủ tịch tỉnh trực tiếp phụ trách. Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh quyết định huy động 22 ngàn dân công ở các huyện, một trung đoàn bộ đội, 700 thợ kỹ thuật và công nhân cùng hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm, các loại nguyên vật liệu cần thiêt phục vụ công trường.

Để cung cấp đá, tỉnh thành lập 2 công trường khai thác đá ở Mục Sơn và Hang Ma. Thành lập đội xe thồ và huy động dân công vận chuyển nguyên liệu, lương thực, thực phẩm. Các huyện miền núi cung cấp gỗ, luồng.... Với tinh thần chuẩn bị khẩn trương, ngày 1 - 9-1954 việc khởi công tu sửa đập Bái Thượng và hệ thống thuỷ nông sông Chu được tiến hành. Việc tu sửa đập Bái Thượng được chia ra nhiều công đoạn. Vào thời điểm này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư động viên cổ vũ mọi người trên công trường. Bác viết: “Các cô, các chú phải làm mau, làm tốt và đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Chúc các cô, các chú lập nhiểu thành tích”

Cùng với Đảng bộ Thanh Hoá và nhân dân trong tỉnh. Đảng bộ huyện Thọ Xuân đã vận động nhân dân địa phương đóng góp sức người, sức của cho công trường sửa chữa đập Bái Thượng. Huyện đã huy động hơn 5.000 lượt dân công tham gia công trường. Nhân dân các xã Xuân Bái, Thọ Xương, Thọ Thanh, Xuân Dương đã trực tiếp ủng hộ công nhân công trường nhiều tấn thịt lợn, gà, cá, rau, cùng vật liệu làm lán trại, bố trí nơi ăn ở cho cán bộ, công nhân xây dựng đập. Thời gian hàn khẩu đê quai sanh cả công trường tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công. Nhiều tấm gương điển hình xuất hiện. Chị Mai Thị Hược thôn Xá Lê [Xuân Minh] đã vác tảng đá 70 kg đầu tiên đặt lên đập quai sanh được bầu là Chiến sỹ thi đua.

Sau 3 tháng khẩn trương thi công, ngày 19 - 12-1954 nước từ hộ thông nông giang sông Chu [Thọ Xuân] đã bắt đầu chảy về các cánh đồng, phục vụ sản xuấtvụ chiêm xuân năm 1955. Trung tuần tháng 3 - 1955 toàn bộ hộ thống nông giang sông Chu đã được khôi phục, 50.000 ha ruộng đất của 6 huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Triệu Sơn, Nông Cống, Quảng Xương được tưới nước cả 2 vụ.

Cùng với việc vận động nhân dân tham gia sữa chữa đập Bái Thượng, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo các huyện, nâng cấp, tu bổ hệ thống đê điều đẩy mạnh công tác thuỷ lợi và tích cực khai hoang phục hoá mở rộng diện tích canh tác.Tỉnh chủ trương miễn thuế cho tất cả các loại ruộng đất khai hoang phục hoá để phát triển sản xuất và quy định các huyện nhỏ như Vĩnh Lộc, Hậu Lộc phải đạt 250 mẫu ruộng đất canh tác, các huyện lớn như Thọ Xuân, Nông Cống phải đạt 1.000 mẫu. Phong trào khai hoang phục hoá diễn ra sôi động, rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh. Bộ đội dân quân được huy động vào việc tháo gỡ bom mìn, đảm bảo an toàn chonhân dân sản xuất. Trong 2 năm 1955 - 1956 toàn huyện đã khai hoang 1.000 ha ruộng đất để trồng cây rau màu và câylương thực. Nhờ đó, nông nghiệp phát triển thêm một bước, khó khăn về lương thực giảm dần.

Sau chiến tranh, việc khôi phục và phát triển giao thông vận tải phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá là yêu cầu cần thiết. Tỉnh uỷ đã chỉ đạo Ty Giao thông và các huyện trong tỉnh sửa chữa và mở rộng đường sá, cầu cống, mở rộng giao lưu giữa các miền trong tỉnh và với các tỉnh bạn, theo phương châm: phát huy sử dụng năng lực sẵn có của địa phương, tranh thủ sự chỉ đạo kỹ thuật và cấp vốn của Trung ương, vừa kiến thiết khôi phục, vừa bảo dưỡng thường xuyên.

Nhân dân Thọ Xuân đã tích cực tham gia tu sửa nâng cấp các tuyến đường huyện, xã và mở đường: Mục Sơn - Vạn Mai, Bái Thượng - Cửa Đạt, huy động dân công tham gia mở đường 217 A.

Hàng trăm công nhân là lực lượng lao động của huyện đã tham gia sản xuất công nghiệp và thủcông nghiệp ở Nhà máy giấyLam Son, ở các cơ sở sản xuất đồ gỗ, đan lát. Góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.

Cùng với việc khôi phục phát triển kinh tế, các mặt văn hoá, giáo dục, y tế và các hoạt động xã hội được cấp uỷ quan tâm chỉ đạo.

Ngay sau khi hoà bình lập lại, Thọ Xuân đã sắp xếp lại hệ thống trường lớp, hoàn thành việc xoá nạn mù chữ cho nhân dân lao động.

Theo chủ trương của Bộ Giáo dục, huyện Thọ Xuân bỏ chương trình giáo dục 9 năm, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 10 năm .

Năm 1955 các trường học ở Thọ Xuân có thêm học kỳ 3, các trường cấp 2 ở một số nơi dồn về huyên lỵ Thọ Xuân thành lập trường cấp II Thọ Xuân.

Thực hiện Chỉ thị số 57 của Tỉnh uỷ về tăng cường công tác y tế, huyện củng cố, phát triển mở rộng các bệnh xá huyện, trạm xá xã, các tổ đông y, hộ sản, các tổ y tế lưu động phòng trừ các bệnh sốt rét, đau mắt hột và một số bệnh xã hội khác.

Toàn huyên tích cực hưởng ứng phong trào “Sạch làng, tốt ruộng, sạch bản, tốt nưong” do Ty Y tế phát động.

Phong trào văn hoá, văn nghê, thể thao được đông đảo nhân dân tham gia nhiệt tình, phàn ánh khí thế sôi nổi của toàn dân trong sản xuất và xây dựng, góp phần vạch trần tội ác của Mỹ ngụyở miền Nam.

Ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ [7 - 5-1954] thực hiên đường lối nhân đạo của Đảng, Thọ Xuân được tỉnh giao nhiệm vụ quản lý nuôi giữ 5.000 tù binh Pháp, một tiểu đoàn ngụy quân, 3 đại đội Tây trắng, lập thành các trại ở Thịnh Mỹ [Thọ Diên], Quần Kênh [Xuân Giang], làng Hón [Thọ Hải]... Cơ quan Huyên đội đã cùng lực lượng quản giáo tuyên truyền giáo dục giác ngộ nhiều tù binh, giúp họ nhận rõ lỗi lầm cải tạo thành người tốt.

Sau khi tiến hành trao trả tù binh Pháp, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá tiếp tục tổ chức đón tiếp cán bộ, chiến sĩ, đồng bào miền Nam tập kết tại Sầm Sơn.

Huyện Thọ Xuân đã cùng với các huyện Quảng Xương, Nga Sơn, Đông Sơn, Hoàng Hoá, Nông Công, Thiệu Hoá, Yên Định cung cấp hàng ngàn con trâu, bò, lợn, hàng vạn gà vịt, hàng chục ngàn bộ quần ấo, màn, chăn, áo âm đảm bảo cho đồng bào, chiến sĩ, cán bộ miổn Nam có điều kiện sinh hoạt bình thường.

Tiếp tục hoàn thành triệt để nhiệm vụ dân chủ, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng “, Thọ Xuân thực hiện Luật cải cách ruộng đất của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban bố ngày 4 - 12-1953.

Cải cách ruộng đất ở Thọ Xuân được tiến hành 2 đợt. Đợt đầu [đợt thí điểm] được tiến hành ở 7 xã: Xuân Tân, Xuân Vinh, Thọ Trường, Thọ Nguyên, Xuân Khánh, Xuân Phong, Thọ Lộc [3 xã vùng tả ngạn, 4 xã vùng hữu ngạn sông Chu]. Dưới sự chỉ đạo của Đoàn uỷ cải cách ruộng đất, các đội cải cách ruộng đất phụ trách các xã, đã cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nông dân, tiến hành ôn nghèo kể khổ, xây dựng rễ chuỗi phátđộng nông dân vạch mặt bọn địa chủ cường hào gian ác. Với phương châm dựa hẳn vào bần - cố nông, đoàn kết với trung nông, liên kết với phú nông đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến tịch thu. trưng thu, trưng mua ruộng đất tài sản chia cho nông dân lao động... Đợt đầu đã quy 350 địa chủ, tịch thu 12.000 mẫu ruộng, 3.000 trâu bò, 55.000 công cụ sản xuất và nhiều tài sản khác chia cho bần, cố, trung nông [đợt đầu cải cách ruộng đấtở Thọ Xuân nằm trong đợt 3 toàn tỉnh].

Đợt 2 cải cách ruộng đất được tiến hành ở các xã còn lại trên địa bàn toàn huyện [đợt này nằm trong cải cách ruộng đất đợt 4 toàn tỉnh]. Hai đợt cải cách ruộng đất, Thọ Xuân đã xoá bỏ triệt đểquan hệ sản xuất phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất, đem lại quyền lợi cho nông dân lao động, mở đường cho sản xuất nông nghiệp phát triển. Nhưng cải cách ruộng đất kết hợp chỉnh đốn tổ chức đã phạm những sai lầm nghiêm trọng. Doquy định 5% tổng số hộ nông dân là địa chủ nênhàng loạt gia đình không đủ tiêu chuẩn cũng bịquy lên địa chủ. Nhiều gia đình cán bộ, đảng viên có công với cách mạng cũng bị quy lên địa chủ cường hào gian ác. Nhiều cán bộ chủ chốt trong huyện bị tình nghi là phản động, nhiều người bị khai trừ khỏi Đảng, bị bắt tù đầy... Tình hình đó đã ảnh hưởng đến khối đoàn kết trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong nhân dân. Quân thù lợi dụng vào những sai lầm đó tuyên truyền xuyên tạc ảnh hưởng uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng...

Trước tình hình nghiêm trọng đó Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời phát hiện sai lầm, đề ra chính sách sửa sai, Đảng bộ và quần chúng được tổ chức học tập Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch - thực hiện cuộc vận động sửa saitrong cải cách ruộng đất.Công việc tuy phức tạp nhưng được sự chỉ đạo chặt chẽ Tỉnh uỷ, Đảng bộThọ Xuân đã tiến hành sửa sai đạt kết quả tốt. Toàn huyện có 1.338 gia đình quy lên địa chủ, trong sửa sai còn lại 597 địa chủ. Hơn 60% giađình bị quy sai được trảlại ruộng đất, tài sản. Cánbộ, đảng viên bị quy sai được trả lại chức vụ vàĐảng tịch, khối đoàn kết toàn dân được củng cố, an ninh chính trị xã hội ổn định.

Sau khi hoàn thành công tác cải cách ruộng đất, khắc phục được một phần hậu quả chiến tranh và thiên tai. Đảng bộ tỉnh chỉ đạo các Đảng bộ cơ sở tiến hành chỉnh đốn tổ chức Đảng.

Đối với Đảng bộ Thọ Xuân, Tỉnh uỷ triệu tập đại biểu của các cơ sở Đảng về Hậu Hiền [xã Thiệu Tâm] để chỉnh huấn chính trị, kiện toàn tổ chức, Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 17 đồng chí và 2 đồng chí dự khuyết. Đồng chí Lê Văn Lữ được bầu làm Bí thư Huyện uỷ, đồng chí Nguyên Thị Nhẫn làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện.

Hội nghị xác định nhiệm vụ chính trị trọng tâm của huyện là: Phát huy thắng lợi của cải cách ruộng đất, động viên nông dân làm chủ ruộng đồng, hăng hái tăng gia lao động sản xuất, phục hóa tăng vụ, mở rộng diện tích phát triển kinh tế, phát động toàn dân tham gia xóa nạn mù chữ và tham gia các lớp học bổ túc văn hoá trong toàn huyện. Phátđộng phong tràobồi đắp đê sông Chu, phòng chống lụt bão và mở các chi giang, tiểu câu, mương máng, đưa nước về đồng...

Tiếp đến tháng 10 năm 1956, hội nghị Huyện ủy mở rộng được tổ chức tại xã Thọ Ngọc [thuộc Triệu Sơn hiên nay], đồng chí Trịnh Ngọc Điệt Phó Bí thư Tỉnh ủy về dự và chỉ đạo. Hội nghị xácđịnh nhiệm vụ chính của thời kỳ này là: Thực hiên Nghị quyết 10 của Trung ương Đảng và Thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cuộc vận động sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất. Động viên chính trị tư tưởng, minh oan cho những cán bộ bị quy sai thành phần, hoàn trả lại tài sản, bố trí lại chức danh lãnh đạo, nhanh chóng ổn định lại tình hình, ổn định tổ chức, đồng thời phát động nhân dân đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế,hàn gắn vết thương chiến tranh, tiếp tục đẩy mạnh công tác tu bổ đê điều phòng chống lụt bão, làmthuỷ lợi, chống hạn, mở rộng diện tích cấy lúa, nông dân vào các tổ đổi công, củng cố xây dựng cơ sở giáo dục, y tế , văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng tin tưởng và thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 17 đồng chí chính thức và 2 đồng chí dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Hồ được bầu làm Bí thư Huyên uỷ. Đồng chí Phạm Tường, Phó Bí thư làm Chủ tịch UBHC huyện.

Sau hội nghị, Huyện đã phát động chiến dịch “Toàn dân ra quân đắp đê”. Hàng ngày có từ 3.500 đến 5.000 người, đợt cao điểm có tới 10.000 lao động trên công trường. Ngoài lực lượng thanh niên, dân công, còn có các cụ trên 60 tuổi cũng xung phong tham gia đắp đê, nhiều phụ nữ trực tiếp gánh đất đắp đê, hoặc phục vụ công trường. Các xã Phú Yên, Xuân Tín, Xuân Lai, Xuân Khánh, Xuân Thành, Hạnh Phúc, Thọ Hải... đã ủng hộ hàng ngàn tấn gạo, thịt cho dân công. Các lực lượng quân đội [Sư đoàn 330] đóng trên địa bàn huyện cũng tích cực tham gia đắp đê.

Sau hơn một năm, tuyến đê sông Chu với chiều dài 20 km được bồi trúcvà nâng cao, hai bờ tả ngạn [từ Thọ Lập đến xã Thọ Trường], hữu ngạn [từ Thọ Diên xuống đến Xuân Khánh] thành đê to, vững chắc được kè hàng triệu mét khối đất đá, những nơi xung yếu hay sạt lở được xử lý triệt để. Nhờ làm tốt công tác đắp đê, hàng chục trận lụt lớn xảy ra, tính mạng, tài sản, mùa màng của nhân dân vẫn được bảo vệ an toàn.

Trong kháng chiến chống Pháp, huyện Thọ Xuân đã xây dựng hàng trăm tổ đổicông. Những năm hoà bình lập lại việc xây dựng tổ đổi công đã trở thành phong trào rộng khắp trong toàn huyện. Nông dân đã đoàn kết sản xuất, áp dụng kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất cây trồng, tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất. Những năm 1957 - 1958, phong trào xây dựng tổ đổi công lan rộng; toàn huyện đã xây dựng được 1.987 tổ đổi công, chiếm 80% tổng số hộ gia đình nông dân tham gia. Tổ đổi công Trịnh Xuân Bái, xã Xuân Thành có nhiều thành tích thâm canh, tăng vụ nâng caonăng suất, sản lượng lúa và hoa màu. Ông Trịnh Xuân Bái được tham dự Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc và được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động vào năm 1958.

Trên cơ sở nền móng các tổ đổi công, một số nơi chuyển lên xây dựng hợp tác nông nghiêp. Năm 1958 HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] ở Thọ Xuân được xây dựng để rút kinh nghiệm nhân rộng ra các điểm khác. Đây là HTX nông nghiệp đầu tiên ở Thọ Xuân.

Đi đôi với việc thành lập HTX nông nghiệp, HTX mua bán, tín dụng cũng được xác lập ở một số cơ sở.

Năm 1957 do yêu cầu của phát triển kinh tế và đời sống nhân dân, HTX mua bán huyện được hình thành ở ba khu vực trung tâm: thị trấn Thọ Xuân, Tứ Trụ, Neo do hàng ngàn hộ nông dân đóng góp cổ phần.

Sự nghiệp giáo dục cũng được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Năm 1958 giáo viên cấp I tập trung về tỉnh, giáo viên cấp II, III tập trung vềHà Nội học tập chủ trương xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.

Quyết tâm của Huyện uỷ, UBHC huyện là đẩy manh công tác xoá mù, mở rộng Bình dân học vụ trong toàn huyện. Nhiều xã trong huyện đã làm tốt. Xã Xuân Thành, Xuân Minh, Xuân Bái được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động về thành tích chống mù chữ. Toàn huyện có 108 cán bộ xã, 2.480 giáo viên được tặng Huy hiệu chiến sỹ Bình dân học vụ.

Để nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, tỉnh tăng cường cho huyện Thọ Xuân 70 giáo viên chuyên trách Bổ túc văn hoá. Ban đầu tập trung mở lớp ở các xã Xuân Thành, Thọ Nguyên, Bắc Lương, Xuân Lai, Xuân Minh, Xuân Vinh. Đến năm 1958 huyện mở trường Văn hoá tập trung tại xã Nam Giang, sau này chuyển vềHạnh Phúc. Trường đã đào tạo hàng trăm cán bộ chủ chốt cho huyện và xã.

Tháng 5 - 1958 Đại hội đại biểuĐảng bộ huyện Thọ Xuân lần thứ V được tổ chức tại đình làng Thôn A, xã Xuân Quang, đồng chí Ngô Đức, Phó Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đã biểu dương những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân trong huyện giành được, tâp trung bàn định nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ trong nhiêm kỳ là: cải cách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và thợ thủ công, đưa nông dân từ làm ăn riêng lẻ đi dần vào tổ đổi công, rồi tiến lên HTX nông nghiệp bậc thấp, tiến lên HTX nông nghiệp bậc cao, hợp tác hoá phải gắn liền với cơ giới hoá và thủy lợi hoá.

Đối với thương nghiệp, Đảng bộ đề ra chủ trương thành lập các HTX mua bán và HTX tín dụng, thành lập các HTX tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho thợ thủ công.

Đại hội xác định nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ chính trị là : Đảng bộ phải tập trung xây dựng cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể và đội ngũ cánbộ,đảng viên vững mạnh, Đại hội đãbầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá V, gồm 19 đồng chí, đồng chí Phạm Tường được bầu làm Bí thư, đồng chí Hồ Sĩ Nhân làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch UBHC huyện.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện. Cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp ở Thọ Xuân trở thành phong trào rộng lớn đều khắp. Từng xã tiến hành tổ chức cho nông dân học tập Điều lệ Hợp tác xã và đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về hợp tác hoá nông nghiệp.

Huyện thành lập Ban chỉ đạo để tuyên truyền giáo dục hướng dẫn nông dân gia nhập HTX, chọn HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] và HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc] làm điểm chỉ đạo chính và 4 điểm phụ: Đông Phương Hồng [Thọ Hải], Đại Long [Xuân Quang], Hồng Kỳ [Xuân Thọ], Thu Đông [Xuân Thịnh].

Qua hai đợt phát động, đợt 1 từ cuối năm 1958 đến đầu năm 1959 ở 6 xã đã có 621 hộ nông dântự nguyện nộp đơn vào HTX. Đợt 2 vào cuối năm 1959 ở 12 xã có 4.281 hộ nông dân vào HTX.

Để thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hộì chủ nghĩa, từ ngày 5 đến ngày 15 - 4 -1959 Tỉnh uỷ tiến hành tổ chức Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh. Nghị quyết Hội nghị ghi rõ : tiếp tục đẩy mạnh công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, người buôn bán nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị đại biểu Đảngbộ tỉnh, tháng 12 năm1959, Đại hội đại biểu Đảngbộ huyện lần thứ VI được khai mạc tại thôn Cộng
Hoà xã Thọ Ngọc [Triệu Sơn], đồng chí Lê ThếSơn, Phó Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đề ra nhiệm vụ trọng tâm của huyện là: Tĩếp tục đẩy mạnh phong trào xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp, đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, phấn đấu đến năm 1960 - 1961 có từ 90% số hộ nông dân tự nguyên gia nhập HTX nông nghiệp.

Đại hội được nghe một số háo cáo điển hình vê xây dựng HTX của HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc], Thắng Lợi [Xuân Thành], Bát Căng [Thọ Nguyôn], Đại Long [Xuân Quang], HTX Cộng Hoà [Thọ Ngọc] có phong trào sản xuất giỏi và các mặt văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao của quần chúng phát triển khá tốt, được nhiều đơn vị trong huyện và các huyện bạn đến tham quan học tập. Hợp tác xã Cộng Hoà đã được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.

Đại hội đề cập vấn đề đẩy mạnh phát triển sản xuất, phục hóa tăng vụ, chú trọng công tác thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng, cải tiến công cụ sản xuất, phát động nhân dân đóng góp cổ phần xây dựng hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng, đẩy mạnh công tác giáo dục, y tế, văn hoá, văn nghệ, thể dục - thể thao...

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ huyện gồm 17 Ủy viên chính thức và 2 Ủyviên dự khuyết.Đồng chí Phạm Tường được bầu làm Bí thư, đồng chí Trịnh Xuân Lưỡng làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch huyện.

Thấm nhuần tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng hộ huyện lần thứ VI, năm 1960 phong trào thi đua, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp đã diễn ra sôi nổi trên địa bàn huyện.

Phong trào xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp phát triển rộng khắp ở 36 xã. 100% gia đình cán bộ, đảng viên tự nguyện làm đơn gia nhập HTX.

Trong cải tạo công thương nghiệp, Đảng bộ chỉ đạo các ngành tập trung ở 3 khu vực: thị trấn Thọ Xuân, phố Đầm [Xuân Thiên], Bái Thượng [Xuân Bái] đưa gần 2.000 lao động tiểu thương nghèo vào HTX và thành lập 5 HTX thủ công nghiệp: HTX Tương Lai làm thảm xuất khẩu, HTX Nông cụ, HTX may Trường Xuân, HTX Đông Xuân làm mành xuất khẩu, HTX Minh Tiến [sau chia thành 2 HTX là Minh Thành và Quyết Thắng].

Năm 1960, 3 cơ sở Nông - Bắc - Dược được nhập thành HTX mua bán huyện. Với tổng số cán bộ, nhân viên là 280 người, đảm nhiệm việc thu mua nông - lâm sản - thực phẩm - rau đậu của nông dân ở các vùng và bán phân phối các mặt hàng thương nghiệp phục vụ sản xuất, tiêu dùng.

Sự nghiệp giáo dục ở Thọ Xuân trong những năm 1959 - 1960 phát triển mạnh. Toàn huyện đã thanh toán xong nạn mù chữ. Phong trào thi đua dạy tốt - học tốt, xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa, phong trào học tập và làm theo Bắc Lý diễn ra sôi nổi. Tiêu biểu là trường Phổ thông cấp II Bắc Lương có phong trào làm đồ dùng phục vụ tốt cho việc dạy và học, giáo viên có nhiều giờ dạy tốt, học sinh có phong trào "Hàng cây em nuôi" và "Đường làng em sạch ", trường Thọ Nguyên với phong trào" Đội học tốt làm tốt ", trường Xuân Thành nhiều năm liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến, trường cấp I Thọ Hải điển hình về vở sạch, chữ đẹp, về lao động thể dục - vệ sinh, thường xuyên nề nếp.

Thời kỳ này Phòng Giáo dục huyện Thọ Xuân được thành lập, có sự tổ chức quản lý chuyên ngành giáo dục phát triển lên những đỉnh cao mới.

Năm học 1960 - 1961 hầu hết các xã mở lớp học Bổ túc văn hóa cấp I, cấp II, có hàng ngàn học viên được theo học. Trong đó đa số là cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên.

Cùng với học văn hóa , Đảng bộ chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng cho bộ, đảng viên và quần chúng. Nâng cao nhận thức về Cách mạng xã hội chủ nghĩa, và xây dựng quyết tâm chống Mỹ cứu nước.

Đảng bộ đã tích cực đấu tranh với những tư tưởng lệch lạc, triển khai thực hiện triệt để các cuộc vận động lớn của tỉnh như: “Ba xây - Ba chống”, “Cải tiến quản lý hợp xã”, “Đẩy mạnh các biện pháp khoa học thủy lợi ".

Bằng sự Đàng sự nỗ lực phấn đấu, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã thực hiện thắng lợi kế hoạch 3 năm lần thứ nhất và lần thứ hai [1955 - 1957, 1958 - 1960] hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục, phát triển kinh tế, văn hoá, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Với thành tích đạt được, Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân vững bước chuyển sang thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

II- ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THI ĐUA THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT [1961 - 1965]

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 05 đến 10 - 9 - 1960, định ra đường lối Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất đất nước.

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đôi với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.

Muốn đạt được mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng và văn hoá, về khoa học kỹ thuật, biến nước ta thành một nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến.

Đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, Tỉnh uỷ Thanh Hoá tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V [từ ngày 25-2 đến 5-3-1961]. Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch 3 năm [1958 - 1960], đề ra chủ trương biện pháp thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965] và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã khẳng định: Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân trong tỉnh đã căn bản hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra nhiều khả năng mới, các ngành kinh tế, văn hoá bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh và có chiều hướng ngày càng tiến bộ, khối đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố, chính quyền các cấp ngày càng được tăng cường, Đảng bộ được rèn luyện là yếu tố quyết định mọi thắng lợi.

Từ thực tế cách mạng trong tỉnh, Đại hội đã quán triệt sâu sắc đường lối Cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra. Chuyển hướng mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng bộ, xây dựng Đảng bộ mạnh về chính trị - tư tưởng - tổ chức.

- Củng cố khối đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh đấu tranh giữa 2 con đường, củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp trên cả 3 vùng, chú trọng khu vực miền núi, nâng cao tổng sản lượng lương thực, thực phẩm, tạo điều kiện để phát triển sản xuất công nghiệp, đảm bảo đủ hàng tiêu dùng cho nhân dân. Đồng thời tích cực phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, hoàn thành từng bước mục tiêu kinh tế, vãn hoá, xã hội của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

- Ra sức củng cố quốc phòng, sẵn sàng đập tan âm mưu thủ đoạn thâm độc của Mỹ - Diệm, bảo vệ miền Bắc, đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

Đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V đã được triển khai kịp thời rộng khắp. Toàn tỉnh dấy lên phong trào thi đua sôi nổi mạnh mẽ nhằm thực hiện 3 cuộc cách mạng “Cách mạng về quan hệ sản xuất, Cách mạng khoa học kỹ thuật, Cách mạng tư tưởng văn hoᔠtrong đó Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.

Ngày19-5-1961 Ban thường vụ Tỉnh uỷ ra Nghị quyết phát động phong trào “Thi đua đuổi kịp và vượt Hợp tác xã Đại Phong” nhằm thúc đẩy các HTX trong tỉnh tiến nhanh - mạnh trên mọi lĩnh vực.

Hưởng ứng phong trào thi đua sôi nổi của nhân dân trong tỉnh, Đảng bộ và nhân dân huyên Thọ Xuân đã cố gắng vượt bậc trong việc thực hiên hợp tác hoá nông nghiệp.

Cuối năm 1961, việc cải tạo nông nghiệp theo hình thức HTX bậc thấp ở Thọ Xuân đã căn bản hoàn thành, toàn huyện xây dựng được 293 HTX với 98,2% số hộ vào HTX. Đầu năm 1962 có 98,69% số hộ vào HTX, 96% đất đai đưa vào làm ăn tập thể, xây dựng 116 HTX từ bậc thấp lên bậc cao [tức là HTX liên xóm liên thôn]. Thực hiên công hữu hoá toàn diện trâu, bò, ruộng đất. Nhiều HTX đã công hữu vườn cây, ao cá, vườn chè, đồi luồng...

Việc xây dựng HTX bậc cao thực sự tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư khoa học kỹ thuật, xác lập quan hệ sản xuất và quan hê xã hội mới ở nông thôn. Tạo ra bướcchuyển biến tiến bộ trong đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương.

Tại hội nghị sơ kết phong trào thi đua đuổi kịp và vượt Đại Phong do UBHC tỉnh tổ chức ngày 16-10-1961, HTX Xuân Lai đã được công nhận là “ Lá cờ đầu” về cải tiến nông cụ, chứng tỏ sự trưởng thành và tiến bộ của nhân dân huyện nhà.

Cùng với phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, nông dân Thọ Xuân hưởng ứng chủ trương của Đảng, hăng hái tham gia mua cổ phần gia nhập HTX mua bán và HTX vay mượn tín dụng đạt 90%.

Năm 1961, nhờ sự chuyển đổi nhiều mặt trong sản xuất nông nghiệp nên cả 3 vụ lúa [màu] đều được mùa, bình quân mức thu nhập lương thực của nông dân toàn huyện đạt trên 300 kg/đầu người, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện, diện hộ thiếu đói được thu hẹp, đời sống văn hoá, tinh thần đang dần được nâng cao. Quan hệ sảnxuất [mới] cơ bản được xác lập. Chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Tạo ra những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hoá của nhân dân.

Đặc biệt: Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, Đảng bộ nhân dân Thọ xuân đã tạo ra sự biến đổi căn bản trên các lĩnh vực: giáo dục, y tế, thể dục thể thao.

Toàn huyện đã xây dựng mở rộng hệ thống trường lớp [mỗi xã xây dựng 1 trường cấp I, trường cấp II, toàn huyện xây dựng mở rộng trường cấp III] đảm bảo cho con em đồng bào các dân tộc học tập. Phong trào thi đua xây dựng trường lớp và giảng dạy học tập đạt chất lượng cao được tỉnh đánh giá là một trong những huyện dẫn đầu. Hệ thống bệnh viện, bệnh xá trong huyện được đầu tư xây dựng mới, được trang bị thuốc men và phương tiện chữa bệnh chăm lo sức khoẻ cho toàn xã hội. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển rộng và chất lượng cao: toàn huyện xây dựng 6 đội bóng chân giày, 23 đội bóng chân đất, 18 đội bóng chuyền. Các đội bóng chân giày Thọ Xuân đã từng thi đấu với các đội bóng của tỉnh trình độ chiến kỹ thuật không thua kém.

Các môn điền kinh: chạy, bơi lội đã từng đoạt giải cao trong các kỳ hội thao do tỉnh tổ chức. Sự nghiệp văn hoá - xã hội phát triển đã góp phần đưa thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN.

Trong không khí phấn khởi của nhân dân huyện nhà, tháng 12-1962 Đại hội đại biểu Đảng bộ Thọ Xuân lần thứ VII đã diễn ra. Đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh Bí thư Tỉnh uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII đề ra nhiệm vụ trọng tâm những năm tiếp theo là: xây dựng củng cố tổ chức Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường sự đoàn kết trong Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn, thành lập các Đảng uỷ xã và mở các lớp đối tượngkết nạp đảng viên 6/1 nhằm trẻ hóa đội ngũ đảng viên...

Về nông nghiệp, Đại hội chỉ rõ: Củng cố HTX, phát triển toàn diện, vững chắc, chú trọng cải tiến quản lý HTX đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích canh tác, tích cực thâm canh tăng vụ nâng cao năng suất và tổng sản lượng lúa và cây trồng. Tổ chức làm ruộng thí điểm [cấy thẳng hàng], đưa giống lúa có năng suất cao [như Mộc Tuyền, Quyết Thắng, Quyết Tiến, Nam Ninh] vào gieo trồng... Đẩy mạnh phong trào thi đua làm phân bùn ao, phân bắc, phân xanh, bèo hoa dâu. Thực hiện “sạch làng tốt ruộng”. Tổ chức phong trào làm thuỷ lợi, đào đắp kênh mương tưới tiêu khoa học, chủ động chống úng chống hạn. Cải tiến công cụ sản xuất [cày cải tiến, cày 51, bừa trục, bừa cỏ Nghệ An, xe cải tiến]. Phát triển chăn nuôi bảo vệ đàn gia súc, đảm bảo sức kéo và sinh sản. Thành lập xưởng Công nông [nông cụ] có mộc, rèn, cơ khí, sản xuất công cụ cầm tay, xe cải tiến phục vụ sản xuất cho nông dân... Tích cực phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, hoàn thành từng bước mục tiêu kinh tế, văn hoá xã hội của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Về an ninh - quốc phòng: Nâng cao cảnh giác cách mạng, củng cố an ninh quốc phòng, sẵn sàng đập tan âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động, góp phần đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 19 đồng chí [có 2 đồng chí là Ủy viên dự khuyết], 9 đồng chí là uỷ viênThường vụ. Đồng chí Trịnh Xuân Lưỡng được bầu làm Bí thư Huyện uỷ. Đồng chí Lê Văn Lữ, Phó Bí thư kiêm Chủ tịch UBND huyện. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII đã có tác dụng to lớn, thúc đẩy các phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Tháng 7 - 1963, Đảng bộ tỉnh tiến hành Đại hội lần thứ VI tiếp tục chỉ đạo toàn dân thi đua hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Tháng 11-1963, Thường vụ Tỉnh uỷ ra Nghi quyết về “Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi”.

Triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ các cấp, Huyện ủy Thọ Xuân đã tổ chức chỉ đạo nhân dân toàn huyện tiến hành các phong trào thi đua sôi nổi rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị, quân sự...

Từ đầu năm 1962 Huyện uỷ đã chọn HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] làm đơn vị chỉ đạo điểm về cải tiến quản lý HTX nông nghiệp. Quá trình tiến hành HTX Thắng Lợi đã thực hiện cải tiến quản lý sản xuất, quản lý tài vụ, xác định đúng mức khoán, thực hiện phân phối sản phẩm theo lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến công cụ sản xuất, đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, tưới tiêu chủ động khoa học, đẩy mạnh làm phân bón, nâng cao trình độ thâm canh tăng năng suất cây trồng và giải phóng đôi vai [bằng các xe cải tiến]. Do cải tiến quản lý, HTX Thắng Lợi đã trở thành đơn vị dẫn đầu toàn huyện và được Huyện uỷ đúc kếtkinh nghiệm chỉ đạo phong trào cải tiến quản lý HTX nông nghiệp trên địa hàn toàn huyện.

Giữa lúc phong trào thi đua sôi nổi đang diễn ra trên mọi lĩnh vực, tháng 6-1962 Đảng bộ và nhân dân huvện Thọ Xuân vinh dự được đón đồng chí Lê Duẩn về thăm. Đồng chí đến thăm đồng ruộng, làng xóm HTX Thắng Lợi [Xuân Thành], biểu dương thành tích trong lao động sản xuất và thực hiện cải tiến quản lý HTX. Đồng chí mong rằng Thọ Xuân sẽ có nhiều điểm sáng như Thắng Lợi [Xuân Thành] và phấn đấu đưa năng suất lúa, hoa màu cao hơn nữa...

Đáp ứng niềm mong muốn của đồng chí Lê Duẩn, những năm 1962 - 1965 HTX Thắng Lợi [Xuân Thành] đã phấn đấu đi lên toàn diện trở thành đơn vị Anh hùng Lao động.

Từ sau trận lụt lớn năm 1954 đến đầu năm 1960, Thọ Xuân đào đắp hàng triệu mét khối đất đá, tu sửa nâng cấp hoàn thiện các tuyến đê sông Chu, sông Cầu Chày và sông Hoàng. Nhân dân các địa phương, chuẩn bị đất dự trữ, phương tiện, lực lượngphòng chống lụt bão. Nhờ vậy, trận lụt lớn năm 1962 các tuyến đê không hề bị sụt lở, mùa màng, tài sản, tính mạng của nhân dân trong huyện được an toàn.

Cùng với đắp đê, phòng chống thiên tai, Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân không ngừng tiến công mạnh mẽ trên mặt trận thuỷ lợi. Nhiều công trình thuỷ lợi trọng điểm được tập trung xây dựng, tu bổ, hàng trăm con mương tiểu câu được đào đắp đưa nước vào đồng ruộng. Trạm bơm Xuân Vinh xây dựng hoàn thành đã tưới nước cho các xã Thọ Trường, Xuân Vinh, Xuân Tân, Xuân Lập, Xuân Lai, Xuân Minh. Đào đắp hệ thống kênh mương [mới] dẫn nước tưới cho các xã Thọ Tân, Thọ Dân, Xuân Lộc, Xuân Thịnh. Xây dựng hệ thống thuỷ nông Cầu Nha phục vụ nước tưới cho các xã vùng tả ngạn [sông Chu]. Đào đắp hệ thống mương tiêu thuỷ chống úng, đào kênh Trường Giang ra đồng Ba Chạ. Đắp tiểu câu dẫn nước tưới cho vùng Thọ Xương. Xẻ tiểu câu đưa nước tưới cho vùng giáo Bích Phương, Ngọc Lạp.

Chỉ tính trong năm 1962, toàn huyện đã động viên 1.5 triệu ngày công, hoàn thành đào đắp 2 triệu mét khối đất đá trên các công trường nông giang, chi giang 6, đê sông Chu, sông Mực...

Do làm tốt công tác thuỷ lợi, Thọ Xuân đã chuyển được 1.000 ha đất hoa màu sang sản xuất lúa [2 vụ], chủ động tưới tiêu cho cây trồng.

Năm 1963 Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba về công tác thuỷ lợi.

Năm 1964 - 1965 Thọ Xuân tiếp tục huy động lực lượng lớn [với hàng ngàn lượt dân công, vật tư kỹ thuật, lực lượng cơ giới] tập trung vào đắp thêm 2 km đê bao quanh thị trấn Thọ Xuân phòng tránh lũ. Xây lắp cống ba cửa, cùng cống tiêu thuỷ, rút nước ngập úng từ cánh đồng Ba Chạ. Tuy phải hy sinh cục bộ một phần diện tích đất đai của xã Xuân Trường, Thọ Hải, thị trấn Thọ Xuân nhưng đã có tác dụng cứu úng cho hàng ngàn ha đồng ruộng của vùng Triệu Sơn

Nhờ làm tốt công tác đắp đê phòng chống lũ lut, xây dựng mở mang công trình thuỷ lợi, Tho Xuân đã giải quyết tốt việc chống úng, chống hạn, góp phần vào việc cải tạo đồng ruộng, nâng cao trình độ thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, bảo vệ an toàn mùa màng, tài sản, tính mạnh nhân dân. Góp phần đẩy lùi đói nghèo, hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hôi.

Để tiếp tục chỉ đạo nhân dân toàn huyện phấn đấu hoàn thành thắng lợi Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965]. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VIII được tiến hành trong 3 ngày: từ ngày 21 đến ngày 23-3-1963. Đồng chí Nguyễn Trong Vĩnh, Bí thư Tinh Uỷ về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đại hội đã đánh giá các mặt thành công và hạn chế trong phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, trong xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị, đời sống xã hội... Công bố việc Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.

Đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích canh tác, tăng trưởng, đẩy mạnh chăn nuôi, phát triển tiểu thủ công nghiệp, chuyển một số HTX nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao, bồi dưỡng đội ngũ bộ phận sản xuất, cán bộ HTX, củng cố phong trào hợp tác sử dụng, thực hiện 3 khoán: Khoán cho nhóm, công việc, công ty điểm. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công việc thương mại, tài chính, ngân hàng.Nâng cao trình độ, dân trí, sức khỏe, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, vệ sinh, thể dục thể thao. Nâng cao giác ngộ chính trị cho bộ phận và nhân dân, mài sắc tinh thần cảnh giác cách mạng, xây dựng lực lượng vững chắc, sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến.

Tăng cường giáo dục và nâng cao chất lượng, chú ý phát triển trẻ, xây dựng chi bộ Đảng ở nông thôn phát triển toàn diện và vững chắc.Nâng cấp đời sống nhân dân nhằm mục đích hoàn thành lợi ích của Đảng và Nhà nước trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961 - 1965]. Đại hội bầu Ban chấp hành đảng bộ gồm 21 ủy viên chính thức, 2 Ủy viên dự khuyết, 9 Ủy viên thường vụ, đồng chí Nghiêm Quý Ngãi được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lê Văn Lữ làm Phó Bí thư Chủ tịch huyện.

Trong những năm 1963 - 1964, cuộc vận động cải tiến công việc quản lý HTX,cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp bước vào giai đoạn củng cố và đưa HTX nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao. Cải tiến hệ thống thủy lợi, tưới tiêu khoa học, đắp bờ vùng, bờ thửa, đưa giống mới có năng suất cao vào sản xuất [Nông nghiệp 8, Nông nghiệp 5, Khe nam lùn], thay vụ chiêm bằng vụ lúa xuân, thêm vụ màu, mở rộng dịch vụ, tích cực phòng trừ sâu bệnh, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng. HTX Đông Phương Hồng là một trong những đơn vị có trình độ thâm canh tăng năng suất lúa đã được bác học Lương Đình Của chọn làm điểm chỉ đạo sản xuất các loại lúa mới để nhân rộng trên địa bàn nhiều tỉnh.

Nhờ áp dụng tốt các biện pháp khoa học kỳ thuật vào sản xuất, Thọ Xuân đã thành hình điển hình của tỉnh trong phong trào thi đua 5 tấn vàHTX Thắng Lợi [Xuân Thành] và HTX Đông Phương Hồng [Thọ Hải] ngọn cờ tiêu biểu về thâm canh tăng năng suất lúa. Năm 1964 đạt 6,6 - 6,8 tấn thóc/ha.

Tại Thọ Xuân, trong 3 ngày [từ 15 đến 17-6-1964] Tỉnh ủy, UBHC tỉnh mở hội nghị tổng kết kinh nghiệm thâm canh, tăng năng suất của HTX Đông Phương Hồng.Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương và các đại biểu tỉnh bạn, các nhà khoa học đã tham gia Hội nghị.

Tổng hội nghị, đồng chí Nguyễn Chí Thanh khen ngợi Đông Phương Hồng có một chi bộ mạnh, với 24 đảng viên, tỷ lệ nữ khá [8 đồng chí] đội ngũ cán bộ hái nhiệt tình, có tinh thần cách mạng tiến công.Đồng ruộng của Đông Phương Hồng có hệ thống kênh mương máng hoàn chỉnh, chủ động tưới tiêu khoa học, bờ vùng, bờ thửa thẳng hàng vững chắc trông đẹp mắt.Từ kinh nghiệm thực tế sinh động sáng tạo này, mong rằng Đông Phương Hồng sẽ còn tiến mạnh hơn nữa ...

Từ sau hội nghị tổng kết tại Thọ Xuân, phong trào nhanh chóng và vượt qua Đông Phương Hồng đã trở thành phong trào thi đua sâu rộng trong toàn tỉnh.

Năm 1963 - 1965 thực hiện Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy về "Cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi", năm 1962 Đảng bộ đã phát động nhân dân ở một số xã đi khai hoang xây dựng quê hương mới ở vùng trung du của huyện.

Ở Thọ Xuân có 54 xã với 293 HTX nông nghiệp, ruộng đất bình quân trên dưới 2 sào/khẩu. Một số xã dân số đông, đất sản xuất nông nghiệp ít nhưXuân Yên, Phú Yên, Tây Hồ, Xuân Thành, Xuân Khánh, Hạnh Phúc bình quân chỉ trên dưới 1 sào/khẩu.Vì thế nhiều vùng dân cư phải chợ búa ngược xuôi.Trong khi ở vùng trung du dân cư thưa thớt, đất đai màu mỡ, diện tích bỏ hoang nhiều.Vì thế tổ chức cho nhân dân một số xã mật độ dân số cao xây dựng vùng kinh tế mới là việc làm cần thiết để thể hiện sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ.Với phương châm: Vừa tiến hành thực hiện vừa mở rộng diện tích sản xuất, bố trí lại dân cư, phân bổ lao động phù hợp giữa các vùng kinh tế trong huyện, vừa xây dựng quê hương mới, phát triển kinh tế - văn hóa vùng trung du của huyện và đi xây dựng kinh tế mới ở các huyện miền núi Thanh Hóa. The Thực hiện tốt chủ trương trên, Đảng bộ chỉ đạo các cấp, các tổ chức ngành cho nhân dân học tập, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc "khai hoang xây dựng phát triển vùng kinh tế mới"

Buớc đầu đưa ra thanh niên đi khai phá, sau đó đưa các hộ gia đình đến làm nhà cửa, tiếp tục khai phá đất đai tổ chức sản xuất.Thực hiện chính sách khuyến khích giúp đỡ đồng bào đi khai hoang, đồng thời phát động nhân dân ở địa phương đoàn kết giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn buổi đầu.

Đồng chí Chủ tịch xã Tây Hồ đã cùng gia đình và 20 hộ vào Đồng Cáo xã Thọ Bình khai hoang xây dựng HTX mới. Đồng chí Chủ tịch xã Xuân Yên cùng gia đình và 19 hộ gia đình ở làng Mác, làng Quảng [Thọ Bình] khai hoang thành lập HTX. Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Phú Yên cùng gia đình và 25 hộ gia đình đến Đồng Chó xā Xuân Cẩm, Xuân Dương khai hoang thành lập làng mới. Đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy xã Xuân Thành cùng gia đình và 25 hộđến xã Ngọc Phụng khai hoang thành lập HTX [nay thuộc huyện Ngọc Lặc]. Đồng chí chủ nhiệm HTX Hồng Kỳ xã Xuân Bái tình nguyện đem 32 hộ sang Thường Xuân khaihoang thành lập HTX Tân Lập [trong đó có 8 hộ thương nghiệp ở Bái Thượng]. Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Thọ Diên cùng 22 hộ đivề 2 xã Cao Thịnh và Thái Sơn [Ngọc Lặc] khai hoang phát triển kinh tế. Xã Thọ Nguyên đã tích cực vận động được 68 hộ = 237 nhân khẩu đi định cư khai hoang tại Thường Xuân và Ngọc Lặc.

Từ năm 1962 đến năm 1964, 18 xã đông dân cư như Xuân Yên, Phú Yên, Xuân Thiên, Xuân Khánh, Hạnh Phúc, Tây Hổ, Xuân Lai, Thọ Trường, Thọ Nguyên ... đã vận động gần 500 hộ, gồm 1.680 khẩu đi xây dựng quê hương mới tại các xã Phùng Giáo, Kiên Thọ [Ngọc Lặc], Khe Hạ, Xuân Cao, Xuân Cẩm [Thường Xuân], Thọ Bình, Thọ Sơn [Triệu Sơn], Xuân Thắng, Xuân Phú [Thọ Xuân]. Đã khai hoang đưa vào sản xuất 560 ha đất, bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế khá tốt. Riêng xã Thọ Nguyên đã vận động 68 hộ gồm 237 khẩu đi khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới.

Các gia đình đi khai hoang xây dựng quê hươngmới tích cực phấn đấu được chính quyền và nhân dân địa phương giúp đỡ tận tình, nhờ đó đời sống kinh tế,văn hóa dần dần phát triển, nhiều khu vực khai hoang lập làng mới trở thành vùng kinh tế trù phú.Nhiều HTX khai hoang trở thành mô hình tốt về tổ chức sản xuất.

Năm 1961-1962 ngành Thương mại phát triển mạnh, Huyện chủ trương phân chia thành các cửa hàng ăn uống, thực phẩm, bách hóa và mua bán tập thể. Mở thêm một số quầy, cụm thu mua nông sản, thực phẩm làm đại lý cho Mậu dịch quốc doanh.

Năm 1963, nhân dân trong huyện đã bán cho Nhà nước trên 800 tấn nông sản các loại, cung cấp nguyên liệu cho một số nhà máy, xí nghiệp đóng trên địa bàn huyện, xuất khẩu một số mặt hàng. Khai thác trên 9.000 mét khối gỗ và hơn 1,5 triệu cây luồng, nứa cung cấp cho các công ty trong huyện ...

Huyện chỉ đạo ngành Tài chính, Thương nghiệpthực hiện cuộc vận động “Ba xây, Ba chống”. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức cần kiệm, nâng cao năng lực quản lý kinh tế, ý thức tổ chức kỷ luật trong lao động sản xuất và công tác. Kiên quyết định chống tham ô và lãng phí, quan liêu. Nâng cao quan điểm phục vụ. Khắc phục xu hướng kinh doanh đơn thuần, thiếu tính hợp tác xã hội chủ nghĩa.

Huyện chủ trương đào tạo tổ chức bố trí từ 25 đến 30% lao động trong các HTX nông nghiệp làm các ngành nghề tiểu thủ, hướng tới xây dựng các HTX tiểu thủ công nghiệp vào đầu năm 1970. Nhằm giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định xã hội.

Năm 1962 ngành Giáo dục Thọ Xuân được vinh dự đón Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên. Bộ trưởng đã đi thăm một số trường tiêu biểu: Thọ Hải, Thọ Nguyên, Thọ Lâm, Phú Yên, Xuân Minh, Xuân Hoà, Bắc Lương, và khen ngợi sự nghiệpgiáo dụcở Thọ Xuân đã xây dựng được nhiều trường tiên tiến, làm cho sự nghiệp giáo dục trở thành sự nghiệp chung của Đảng bộ, nhân dân toàn huyện. Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã đầu tư xây dựng mở rộng lớp hệ thống trường lớp, mua sắm trang thiết bị học tập đảm bảo cho thanh thiếu niên trong huyện có điều kiện học tập phát triển tài năng.Số lượng học sinh năm sau cao hơn năm trước.

Tính đến năm 1962, toàn huyện có 9.617 học sinh vỡ lòng, có 20.022 học sinh cấp I với 56 trường 482 lớp, có 2.011 học sinh cấp II với 7 trường 62 lớp, có 597 học sinh cấp III với 12 lớp. Bổ túc văn hóa cấp I có 5.371 học viên, cấp II có 1.709 học viên, cấp III có 180 học viên. Năm 1962, huyện thành lập thêm 3 trường phổ thông chức năng ở Xuân Lập, Thọ Hải, Xuân Thịnh. Học viên được học văn hóa hết cấp II, vừa học văn hóa, vừa thực hiện kỹ thuật sản xuất nông nghiệp.

Cùng với sự phát triển của sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp y tế, văn hóa, thể dục thể thao được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức các hoạt động.

Hệ thống bệnh viện huyện, tạm xá xã cung cấp đầy đủ thuốc men và phương tiện chữa bệnh. Đội ngũ thầy thuốc được tăng cường về số lượng và được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn; khả năng chữa bệnh. Trạm xá xã trồng 45 loại thuốc nam chữa bệnh thông thường và kết hợp đông - tây y trong chuẩn đoán và điều trị bệnh tật.

Huyện chỉ đạo xây dựng, cùng cố và đầu tư kinh phí hoạt động cho các đội văn nghệ, bóng đá, bóng chuyền. Nhờ đó phong trào văn hóa nghệ thuật quần chúng phát triển mạnh, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân tích cực xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên què hương thân yêu của mình.

Kiên quyết đập tan âm mưu chống đối của các thế lực thù địch, dưới sự chỉ đạo của Huyện Ủy, quân và dânThọ Xuân đã kết hợp công an đập tan tổ chức phản động do Lường Mạnh Huân cầm đầu.

Lường Mạnh Huân quê xã Hoàng Lưu, huyện Hoằng Hóa.Trong kháng chiến chống Pháp, y tham gia tổ chức phản động "Liên tôn diệt cộng", cải cách ruộng đất bị quy thành phần địa chủ phản động, bị kết án 5 năm. Y đã trốn ra Hà Nội, lên Sơn La chui vào cơ quan Nhà nước, sau đó trở về Hoằng Hóa tiếp tục con đường chống phá cách mạng. Y đã liên hệ với phản động tổ chức cái gọi là “Đảng Cách mạng quốc gia Việt Nam” xây dựng chân rết tổ chức ở các huyện: Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Thường Xuân, Lang Chánh, Yên Định, Hoằng hóa, Thiệu Hóa, Vĩnh Lộc ...

Tại Thọ Xuân: Năm 1959, Huân đến xứ đạo Phúc Địa [Quảng Phú] liên hệ với một số phần từ phản động gây dựng cơ sở. Sau đó sang khu Hữu Lễ liên lạc Lý Xuân xây dựng cơ sở ở khu vực đồng bào Mường thuộc các xã giáp ranh 2 huyện Thọ Xuân - Ngọc Lặc. Sau đó mở rộng các lớp nói trên.

Đến tháng 4 - 1962 tổ chức phản hồi Lường Mạnh Huân đã xây dựng được 1l chi bộ, gồm 157 cấp viên, sau đó phát triển lên 347 đảng viên và mở rộng hoạt động ở khu vực miền núi Thanh Hóa. Riêng Thọ Xuân và Ngọc Lặc tay chân của họ đã được bầu vào Ban chấp hành của huyện.

Chủ trương của chúng thời kỳ đầu không hoạt động vũ trang mà chỉ xây dựng tổ chức và tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo, tìm cách mua chuộc, cưỡng ép, tha hoá cán bộ ... Chúng cấu kết Mỹ - ngụy ở Sài Gòn thông qua con đường liên hệ với quán sứ của Diệm ở Viên Chăn [Lào] xin vũ khí, phương tiện chiến tranh và người chỉ đạo.

Được nhân dân địa chỉ theo dõi phát hiện và trình báo,Ty Công an tỉnh đã điều tranắm bắ âm mưu thủ đoạn và hoạt động của chúng. Ngày 26-3-1962 quyết định thành lập chuyên án T 236 ", cử đồng chí Tống Xuân Nhuận, Phó ty trực tiếp chỉ đạo thực hiện chuyên án.

Ngày 25-4-1962 Thường vụ Tỉnh Ủy chỉ thị Ty Công an phá án với chiến thuật nhanh chóng. Lường Mạnh Huân và Nguyễn Tiến Sinh, Nguyễn Vân Chức dã bị bắt tại cầu Thiều [trên đất Nông Cống, nay thuộc Triệu Sơn], cùng 109 tên đầu sỏ khác.

Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án, tuyên phạt Lường Mạnh Huân tử hình, 25 tên tòng phạm nguy hiểm lĩnh án tù giam từ 3 đến 20 năm. Năm 1963 Tòa án tối cao phê duyệt y án tử hình Lường Mạnh Huân và tổ chức thi hành án tại Sân vận động Bái Thượng [Thọ Xuân].

Giữa lúc nhân dân cả nước đang hăng hái thi đua phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất [1961-1965], vào tháng 3-1964, Tổng thống Mỹ L. Giôn Xơm đã phê chuẩn kế hoạch ném bom miền Bắc [thông qua 94 mục tiêu, trong đó Thanh Hóa là một trọng điểm đánh phá lớn] hòng phá hoại sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, ngăn chặn việc tiếp tế cho cách mạng miền Nam, nhằm cứu nguy cho chiến lược chiến tranh đặc biệt đang có nguy cơ bị sụp đổ.

Trước tình hình đó, ngày 27 và 28 tháng 4 năm 1964 Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt và cất tiếng gọi "Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt".

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 6-5-1964, Ban Thư ký Tỉnh ủy ra chi thị cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đề cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi hành độngkhiêu khích phá hoại của giặc Mỹ và ngăn chặn kịp thới hành động chống phá của bọn phản động.

Cũng như Đảng bộ và nhân dân các huyện, thị trong tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân kịp thời chuyển hướng từ thời bình sang thời chiến, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường côngtác quốc phòng, sẵn sàng đối phó với tình hình địch mở rộng quy mô trên toàn miền Bắc.

Huyện chỉ đạo hướng dẫn tổ chức nhân dân ở mỗi gia đình, ngõ xóm, làng xã, trong toàn huyện đào hào trú ẩn, tích cực bảo mật phòng gian. Cùng với các ban, ngành chuyên môn lập phương án bảo vệ vùng trọng điểm như: Đập Bái Thượng, Nhà máy Điện Bàn Thạch, các kho hàng, lương thực, sân bay Sao Vàng, mở đường giao thông chiến lược, đẩy mạnh công tác củng cố, huấn luyện, trang bị cho lực lượng dân quân, tiến hành đăng ký quân dự bị ...

Nhận rõ vai trò quan trọng của lực lượng quân đội đóng trên địa bàn, Đảng bộ huyện đã tích cực, động viên nhân dân đóng góp công sức, cùng với bộ đội đào đắp công sự, ụ pháo ra đa, làm lán trại, đào hầm hào đóng góp vật liệu [luồng, gỗ, tranh, tre, nứa, lá]. Nhân dân ở các xã Xuân Phú, Xuân Thắng, Thọ Lâm, Xuân Hưng, Xuân Bái, Xuân Hoà, Thọ Hải ... đã ủng hộ bộ đội số lượng vật liệu lớn. Các chi đoàn, xã đoàn, các đội thiếu niên đã tổ chức kết nghĩa với các đơn vị bộ, xây dựng tình cảm "Quân dân thắm thiết".

Sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến, ngay trong năm 1964, huyện đã tổ chức tiểu đoàn gồm 300 chiến sĩ tình nguyện đi tiền phương, trang bị lương thực, thực phẩm 10 ngày và long trọng làm lễ xuất quân bàn giao cho tỉnh tại 2 xã Xuân Phú, Xuân Thành.

Với tinh thần "Tất cả vì miền Nam ruột thịt, mỗi người làm việc bằng hai". Nhiều hợp tác đã phát động phong trào thi đua "5 tấn thắng Mỹ" điển hình là HTX Thắng Lợi, HTX Đông Phương Hồng ... Nhiều “Cánh đồng 5 tấn” xuất hiện trên địa bàn huyện.

Huyện chỉ đạo toàn dân làm đường giao thông liên hương, liên xã, tích cực làm nghĩa vụ lương thực, thực phẩm cho Nhà nước. Sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến với tinh thần"Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", thi đua sản xuất xây dựng quê hương, góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội được Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đặc biệt quan tâm. Hai trung đoàn thuộc Sư đoàn 330 và một số đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn đã được Đảng bộ, nhân dân huyện nhà cung cấp lương thực, thực phẩm, cho mượn nhà, mượn đất để xây dựng doanh trại đóng quân và tập luyện.Cán bộ, chiến sĩ ốm đau, các mẹ, các chị thăm nuôi giúp đỡ.Thanh niên các địa phương kết nghĩa với từng đơn vị, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và huấn luyện quân sự. Bằng tình cảm dân quân cá nước, Sư đoàn đã được xây dựng cho con em xã Tây Hồ trường cấp I và cấp II gồm hàng chục phòng học. Sư đoàn đã tham gia xây dựng Nhà máy Thuỷ điện Bàn Thạch, đắp đê, chống úng, chống hạn.Sư đoàn đã tham gia xây dựng các Lâm trường Sông Âm, Lam Sơn, Thống Nhất ... Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 330 đã để lại hình tượng cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ trong trái tim nhân dân Thọ Xuân. Tình cảm cao quý của Đảng bộ và nhân dân Thọ Xuân tiếp thêm sức mạnh cho Sư đoàn chiến đấu và chiến thắng.

Việc thực hiện chính sách đối với các gia đình bộ đội, thương binh, liệt sĩ được cụ thể chi tiết hóa. Giải quyết việc làm cho các chiến sĩ còn sức khỏe, phân công chăm nuôi thương binh nặng, giúp đỡ tạo điều kiện cho con em thương binh, liệt sĩ học tập, thăm hỏi giúp đỡ các gia đình neo đơn khó khăn ...Thanh thiếu niên tổ chức các phong trào đền ơn đáp nghĩa các gia đình chính sách, phụ nữ chăm lo cho thương binh, các gia đình liệt sĩ, HTX thực hiện chính sách điều hoà lương thực, giúp đỡ cày cấy, xây dựng nhà cửa, chăm sóc lúc ốm đau ... Việc thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội đã tạo ra động lực cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ công tác chiến đấu trên các chiến trường lập công xuất sắc

Xây dựng Đảng bộvà hệ thống vững mạnh, nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi cho việc tổ chức lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Trong những năm 1961 - 1965 Đảng bộ tập trung vào nhiệm vụ tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận. Đồng thời tích cực bồi dưỡng kết nạp đảng viên, đặc biệt là đảng viên nữ trẻ khỏe, có năng lực trình độ, đào tạo đội ngũ nữ sẵn sàng thay thế nam giới ... xây dựng hệ thống tổ chức mạnh từ Đảng bộ xã đến chi bộ HTX.

Hội đồng nhân dân, UBHC và đoàn thể quần chúng: Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ... đã thực hiện tốt chức năng, tổ chức đoàn kết chỉ đạo toàn dân xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, góp phần đấu tranh thống nhất Tổ quốc Các nội chính ngành: Tòa án, Công an, Kiểm sát không ngừng củng cố về tổ chức và nghiệp vụ, tích cực đi về cơ sở [HTX] để tuyên truyền, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần củng cố HTX, đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ quyền lợi tinh thần, vật chất cho nhân dân.

10 năm hòa bình xây dựng quê hương, bằng sự phấn đấu nỗ lực, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thọ Xuân đã kiên cường dũng cảm và sáng tạo, khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, khôi phục phát triển kinh tế, văn hóa, hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, tạo ra thực lực to lớn góp phần cùng quân dân cả tỉnh, cả nước đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của giặc Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Video liên quan

Chủ Đề