Các đánh giá tài sản của doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp được đo lường bằng giá trị sổ sách, giá trị thị trường...thông qua tài sản hay các khoản thu nhập và tùy thuộc vào chủ thể quan tâm đến giá trị doanh nghiệp là ai. Định giá doanh nghiệp là công việc phức tạp Giá trị doanh nghiệp được đo lường bằng giá trị sổ sách, giá trị thị trường...thông qua tài sản hay các khoản thu nhập và tùy thuộc vào chủ thể quan tâm đến giá trị doanh nghiệp là ai. Định giá doanh nghiệp là công việc phức tạp bởi hàng hóa “doanh nghiệp” là hàng hóa đặc biệt cả về chủ thể định giá và cấu thành của hàng hóa này. Khi định giá cần xem xét các yếu tố tác động đến giá trị doanh nghiệp trong từng bối cảnh cụ thể. Phần 1: Các yếu tố tác động tới giá trị doanh nghiệp Thứ nhất: Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp gồm các yếu tố của môi trường kinh doanh như: kinh tế, chính trị, xã hội....
Thứ 2: Các yếu tố thuộc bản thân doanh nghiệp
Phần 2: Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Hiện nay có hai cách tiếp cận chính khi xác định giá trị doanh nghiệp: một là, trực tiếp đi vào đánh giá giá trị tài sản của doanh nghiệp; hai là, dựa trên việc ước tính dòng lợi ích trong tương lai mà doanh nghiệp mang lại. Với 2 cách tiếp cận như vậy, chúng ta có các phương pháp định giá cơ bản sau: Phương pháp giá trị tài sản thuần
Cách thứ hai: Xác định giá trị tài sản theo giá thị trường. Để xác định giá trị tài sản theo giá thị trường, trước hết người ta loại ra khỏi danh mục đánh giá những tài sản không cần thiết và không có khả năng đáp ứng các yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại theo giá thị trường. + Tài sản cố định hữu hình xác định theo số lượng, chất lượng còn lại của tài sản và giá thị trường. + Chi phí sản xuất dở dang và chi phí đầu tư xây dựng dở dang, tính theo giá trị ghi sổ. + Tài sản đầu tư tài chính: đối với các khoản đầu tư khác xác định theo phương pháp vốn chủ sở hữu hoặc theo giá trị ghi sổ nếu như doanh nghiệp khác đó bị lỗ. + Giá trị quyền sử dụng đất: nếu doanh nghiệp chọn thuê đất trả tiền hàng năm thì không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, nhưng phải tính lợi thế về vị trí địa lý vào giá trị doanh nghiệp. Đối với tiền thuê đất trả trước thì tính lại tiền thuê đất theo số năm trả trước tiền thuê đất còn lại và giá thuê đất tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp; phần chênh lệch tăng so với tiền thuê đất ghi trên sổ kế toán tính vào vốn chủ sở hữu. Trường hợp lựa chọn hình thức giao đất nộp tiền sử dụng đất thì tính vào giá trị doanh nghiệp. Trong đó, nếu trước khi cổ phần hoá, doanh nghiệp cổ phần hoá đã nhận giao đất thì chênh lệch tiền sử dụng đất tính vào vốn nhà nước, nếu trước doanh nghiệp thuê đất thì tiền sử dụng đất không tính vào vốn nhà nước mà tính vào nợ phải trả Ngân sách nhà nước. Giá tính quyền sử dụng đất theo sát giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường. + Nợ phải thu: tính vào giá trị doanh nghiệp các khoản nợ phải thu của doanh nghiệp ngoài trừ các khoản nợ không có khả năng thu hồi. + Lợi thế thương mại: lợi thế kinh doanh có thể tính theo một trong hai phương pháp: tính theo khả năng sinh lời của doanh nghiệp hoặc theo lợi thế vị trí địa lý và giá trị thương hiệu. Trong đó: Lợi thế vị trí địa lý được xác định bằng chênh lệch giữa giá đất chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường với giá đất do UBND cấp tỉnh công bố của năm thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị thương hiệu được tính bằng chi phí thực tế cho việc sáng chế, xây dựng hoặc bảo vệ nhãn mác đối với doanh nghiệp đã có thời gian hoạt động trong 10 năm trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp có thời gian hoạt động ít hơn 10 năm thì tính bào gồm cả chi phí quảng cao, tuyên truyền trong và ngoài nước. - Xác định vốn nhà nước (vốn chủ sở hữu): Vốn nhà nước bằng tổng giá trị tài sản trừ nợ phải trả, số dư hai quỹ khen thưởng, phúc lợi và nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có). Trong đó, nợ phải trả là các khoản nợ thực phải trả. |