Các chỉ tiêu đánh giá xuất khẩu

[LSVN] - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo đó, dự thảo đề xuất Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài gồm 36 chỉ tiêu. Trong đó có 25 chỉ tiêu về kinh tế, 7 chỉ tiêu về xã hội và 4 chỉ tiêu về môi trường.

Cụ thể, căn cứ các yêu cầu đối với bộ tiêu chí, kinh nghiệm quốc tế, thực trạng số liệu, tính khả thi của việc tính toán các chỉ tiêu và ý kiến góp ý của các bộ, ngành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài gồm 36 chỉ tiêu. Trong đó có 25 chỉ tiêu về kinh tế, 7 chỉ tiêu về xã hội và 4 chỉ tiêu về môi trường. Các chỉ tiêu cụ thể như sau:

Căn cứ vào tác động của khu vực đầu tư nước ngoài [ĐTNN] đối với sự phát triển kinh tế và các yếu tố tác động như vốn, tăng trưởng, hiệu quả hoạt động, công nghệ, nộp ngân sách, tác động lan tỏa, liên kết với doanh nghiệp trong nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất 25 chỉ tiêu đánh giá về kinh tế, chia thành 05 nhóm gồm:

- Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô, đóng góp vào sự phát triển của khu vực ĐTNN [6 chỉ tiêu], gồm: Tốc độ tăng trưởng GDP khu vực ĐTNN; Tỷ trọng khu vực ĐTNN trong GDP; Tốc độ tăng trưởng vốn ĐTNN đăng ký; Tỷ lệ dự án tăng vốn, mở rộng đầu tư; Tốc độ tăng trưởng vốn ĐTNN thực hiện; Tỷ trọng vốn ĐTNN thực hiện trong tổng đầu tư toàn xã hội; Tỷ trọng vốn chủ sở hữu của nhà ĐTNN trong tổng vốn ĐTNN thực hiện; Tỷ trọng vốn ĐTNN trên tổng nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam trong cán cân thanh toán quốc tế [BOP].

- Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp [10 chỉ tiêu], gồm: Lợi nhuận trước thuế; Tỷ suất lợi nhuận ròng trên tổng tài sản của doanh nghiệp ĐTNN; Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ĐTNN; Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần của doanh nghiệp ĐTNN; Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp ĐTNN; Tỷ trọng nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp ĐTNN; Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu của doanh nghiệp ĐTNN; Tỷ trọng nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu của doanh nghiệp ĐTNN; Tăng trưởng xuất khẩu của doanh nghiệp ĐTNN; Tăng trưởng nhập khẩu của doanh nghiệp ĐTNN.

- Nhóm chỉ tiêu về đóng góp ngân sách [03 chỉ tiêu], gồm: Số nộp ngân sách nhà nước của doanh nghiệp ĐTNN; Tốc độ tăng trưởng nộp ngân sách; Tỷ trọng nộp ngân sách của doanh nghiệp ĐTNN/tổng thu ngân sách nhà nước.

- Nhóm chỉ tiêu về tác động lan tỏa của ĐTNN [02 chỉ tiêu]: Tỷ lệ sử dụng nguyên vật liệu đầu vào trong nước của doanh nghiệp ĐTNN và Tỷ lệ doanh nghiệp ĐTNN có liên kết với doanh nghiệp trong nước.

- Nhóm chỉ tiêu về công nghệ [02 chỉ tiêu]: Tỷ lệ các doanh nghiệp ĐTNN sử dụng công nghệ thuộc Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ; Tỷ lệ doanh nghiệp ĐTNN ứng dụng công nghệ cao.

Các chỉ tiêu về xã hội [7 chỉ tiêu] nhằm đánh giá trên khía cạnh tạo việc làm, thu nhập cho người lao động và bình đẳng giới, cụ thể như sau:

- Nhóm về tạo việc làm và thu nhập cho người lao động [6 chỉ tiêu], gồm: Số lao động làm việc trong doanh nghiệp ĐTNN; Tỷ lệ lao động làm việc trong doanh nghiệp ĐTNN/ tổng số lao động khu vực doanh nghiệp; Tốc độ gia tăng lao động mới trong doanh nghiệp ĐTNN; Tỷ lệ thu nhập bình quân người lao động làm việc trong doanh nghiệp ĐTNN so với thu nhập bình quân người lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp; Tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân người lao động làm việc trong doanh nghiệp ĐTNN; Tỷ lệ lao động đóng bảo hiểm xã hội trong khu vực ĐTNN.

- Nhóm chỉ tiêu về bình đẳng giới [1 chỉ tiêu]: Tỷ lệ lao động nữ trong doanh nghiệp ĐTNN.

Chỉ tiêu về môi trường nhằm đánh giá tác động của dự án ĐTNN đối với môi trường và các biện pháp doanh nghiệp bảo vệ môi trường. Gồm 4 chỉ tiêu sau:

- Tỷ lệ doanh nghiệp ĐTNN áp dụng các biện pháp tiết kiệm năng lượng

- Tỷ lệ doanh nghiệp ĐTNN áp dụng tiêu chuẩn ISO về hệ thống quản lý chất lượng.

- Tỷ lệ cơ sở sản xuất, kinh doanh của nhà ĐTNN phát sinh nước thải thuộc đối tượng phải có giấy phép môi trường hoặc đăng ký môi trường có hệ thống xử lý nước thải đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường.

- Tỷ lệ doanh nghiệp ĐTNN đã thực hiện kiểm kê khí nhà kính trong danh mục cơ sở phát thải khí nhà kính phải kiểm kê.

HÀ ANH

Yêu cầu thí sinh cam kết đặt nguyện vọng 1 hay ‘đặt cọc’ là vi phạm quy chế

2. Luật sư không được xúi giục khách hàng khai sai sự thật, cung cấp tài liệu chứng cứ giả

[LSVN] - Tôi và chồng tôi muốn ly hôn nên chúng tôi đã tìm đến Luật sư X [là bạn học cũ của chúng tôi] hiện là Trưởng Văn Phòng Luật sư X và nhờ Luật sư X tham gia phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích cho cả hai. Trong quá trình tư vấn cho tôi, Luật sư X đã tư vấn muốn được hưởng phần nhiều hơn trong khối tài sản cần bỏ đi tờ giấy mua nhà trước và tìm những người đã bán nhà trước đây nhờ họ xác nhận lại việc đã bán nhà lúc đầu cho cha mẹ tôi sau đó cha mẹ chị nhờ vợ chồng chị đứng tên hộ mà thôi. Tôi có thể làm theo tư vấn của Luật sư X hay không?

Luật sư Đặng Hồng Dương, Giám đốc Công ty Luật TNHH Sao Sáng.

Luật sư X đã thấy anh chị có những bất đồng về tài sản và đã tư vấn cho chị muốn được hưởng phần nhiều hơn trong khối tài sản cần bỏ đi tờ giấy mua nhà trước và tìm những người đã bán nhà trước đây nhờ họ xác nhận lại việc đã bán nhà lúc đầu cho cha mẹ chị sau đó cha mẹ chị nhờ vợ chồng chị đứng tên hộ mà thôi.

Việc tư vấn như vậy là trái pháp luật và trái Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam. Quy tắc 14.1 quy định cấm Luật sư: “Chủ động xúi giục khách hàng thực hiện những hành vi trái pháp luật””.

Quy tắc 24.2: “Cung cấp thông tin tài liệu chứng cứ mà Luật sư biết sai sự thật, hướng dẫn khách hàng tạo thông tin, tài liệu chứng cứ sai sự thật nhằm mục đích lừa dối cơ quan tố tụng”.

Ảnh minh họa.

Hoạt động Luật sư yêu cầu tôn trọng sự thật khách quan, đề cao tính trung thực, độc lập của Luật sư khi hành nghề. Luật sư để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình, Luật sư sẽ không được hướng dẫn khách hàng thực hiện hành vi vi phạm. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, vụ việc chị với tư cách là đương sự cũng không được cung cấp tài liệu chứng cứ giả, khai báo sai sự thật

Luật sư ĐẶNG HỒNG DƯƠNG

Giám đốc Công ty Luật TNHH Sao Sáng

Đoàn Luật sư TP. Hà Nội

Nghiêm cấm Luật sư thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh

3. Có nên tăng hình phạt tử hình đối với tội tham ô, tham nhũng hiện nay?

[LSVN] - Thời gian qua, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta đã được triển khai đạt kết quả tốt. Nhiều vụ việc tham nhũng đã được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Người bị kết án tử hình về tội “Tham ô tài sản”, tội “Nhận hối lộ” mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì không thi hành tử hình đối với người bị kết án. Việc này giúp cơ quan Nhà nước thu hồi tài sản thất thoát do tham nhũng và xử lý triệt để đối với vụ án tham nhũng.

Ảnh minh họa.

Tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến cho rằng, quy định này là chưa hợp lý và sẽ tạo lỗ hổng trong công tác phòng, chống tham nhũng, khiến việc tham nhũng sẽ tinh vi hơn, nhiều thủ đoạn hơn và mức tham nhũng sẽ cao hơn. Do đó, nhiều ý kiến cho rằng, Quốc hội nên xem xét, điều chỉnh lại quy định này.

Việc hạn chế hình phạt tử hình và tăng cường hiệu quả thu hồi tài sản do tham nhũng là chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước được thể hiện tại các văn bản như: Nghị quyết Trung ương 3 [khóa X] đã nêu rõ việc chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng; áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng; khoản 4 Điều 92 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 quy định, người có hành vi tham nhũng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, tự giác nộp lại tài sản tham nhũng, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng thì được xem xét giảm hình thức kỷ luật, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015 [sửa đổi, bổ sung năm 2017] quy định người bị kết án tử hình về tội "Tham ô tài sản", "Nhận hối lộ", sau đó chủ động nộp lại ít nhất 3/4 số tiền phạm tội và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì có thể được giảm xuống mức án chung thân.

Điểm c, khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định không thi hành án tử hình đối với người bị kết án chỉ được áp dụng đối với trường hợp đã có bản án tuyên hình phạt tử hình và khi có đủ các điều kiện bao gồm: Chủ động nộp ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ; hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Trường hợp thiếu điều kiện thứ hai thì người bị kết án dù đã nộp đủ 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ vẫn phải thi hành án. Với những trường hợp thực hiện hành vi tham ô, nhận hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 353 và khoản 4 Điều 354 Bộ luật Hình sự sẽ bị xem xét truy cứu với mức hình phạt cao nhất là tử hình.

Việc xử lý hình sự đối với loại tội phạm này cần phải tùy thuộc từng trường hợp cụ thể; chỉ nên xem xét xử lý hình sự trong trường người phạm tội không ăn năn hối cải, không chịu khắc phục hậu quả. Còn đối với trường hợp thành khẩn, cam kết khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng thì cần cho họ có thời gian, không gian để xử lý, thu hồi tài sản tham nhũng, thất thoát để giao nộp cho nhà nước. Việc này, hoàn toàn không ảnh hưởng tới việc xem xét, quyết định áp dụng hình phạt trong quá trình xử lý hành vi phạm tội tham ô, nhận hối lộ đối với người phạm tội.

Bên cạnh việc giao nộp đầy đủ số tiền tham nhũng, thất thoát để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, đó là không thi hành hình phạt tử hình thì ngoài ra cần phải xem xét, ban hành cơ chế phạt tiền với số tiền tương ứng với số tiền đã tham nhũng, thất thoát cho Nhà nước nếu không muốn không xử lý hình sự [phạt tù], đây là giải pháp ngăn ngừa tham nhũng cũng hết sức hiệu quả cần phải được nghiên cứu, áp dụng trong công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.

Việc nộp phạt đủ số tiền tương ứng với số tiền tham nhũng, thất thoát để miễn trách nhiệm hình sự có thể dẫn đến kiệt quệ kinh tế của bản thân và gia đình nên người có chức vụ, quyền hạn sẽ không dám tham nhũng và không muốn tham nhũng.

Do đó, việc áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội tham nhũng nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng là hết sức cần thiết, thể hiện chính sách nhân văn, nhân đạo của Nhà nước mà con góp phần thu hồi tối đa tài sản tham nhũng cho Nhà nước, hạn chế thấp nhất tình trạng thất thoát tài sản tham nhũng. Đồng thời, với quy định hiện hành đã thể hiện tính nghiêm minh, đảm bảo tính răn đe, giáo dục và ngăn ngừa đối với tội phạm tham nhũng ở nước ta hiện nay./.

ĐỖ VĂN NHÂN

Chánh Thanh tra Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Luật sư với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật

4. Văn phòng Luật sư có được nhận ủy quyền của khách hàng trong giao dịch dân sự?

[LSVN] - Nhân dịp kỷ niệm 77 năm Ngày Truyền thống Luật sư Việt Nam [10/10/1945-10/10/2022] và Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10/2022, Luật sư, Thạc sĩ Đào Ngọc Lý, Giám đốc Công ty Luật TNHH Đào Ngọc Lý, Phó Chủ nhiệm, Trưởng Ban Bảo vệ quyền lợi Luật sư Đoàn Luật sư TP. Hà Nội có bài viết trao đổi quan điểm, ý kiến liên quan đến việc Văn phòng Luật sư [được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân] có được nhận ủy quyền của khách hàng trong giao dịch dân sự khi tham gia tố tụng hay không?

Ảnh minh họa.

Trong thời gian qua, nhiều Luật sư và Văn phòng Luật sư [VPLS] bày tỏ sự không đồng thuận, thậm chí phản ứng khá gay gắt việc một số cơ quan tiến hành tố tụng không chấp nhận văn bản ủy quyền của khách hàng cho VPLS trong giao dịch dân sự. Đoàn Luật sư TP. Hà Nội mới đây đã nhận được đơn kiến nghị của Văn phòng Luật sư H về việc Tòa án nhân dân thành phố C ra quyết định không chấp nhận giấy ủy quyền [được lập tại văn phòng công chứng] của nguyên đơn cho Văn phòng Luật sư H tham gia hoạt động tố tụng trong vụ án dân sự về tranh chấp tài sản.

Tòa án nhân dân thành phố C đưa ra quan điểm không chấp nhận giấy ủy quyền này vì cho rằng, theo khoản 1 Điều 33 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 [Luật Luật sư], “Văn phòng Luật sư do một Luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân”, nên VPLS hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân, không có tư cách pháp nhân. Bởi vậy, căn cứ khoản 1 Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015 [Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự] và khoản 1 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 [Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự] thì VPLS không được đại diện cho nguyên đơn tham gia hoạt động tố tụng tại tòa án.

Văn phòng Luật sư H cho rằng nội dung quyết định của Tòa án nhân dân thành phố C đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của VPLS khi tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn. Quyết định này sẽ tạo ra một tiền lệ xấu làm hạ thấp vai trò, chức năng xã hội của Luật sư cũng như vai trò của các VPLS. Điều này còn tạo ra sự phân biệt đối xử bất bình đẳng giữa loại hình công ty luật và VPLS [mặc dù cả hai loại hình này đều là các tổ chức hành nghề Luật sư và VPLS còn phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của cá nhân Luật sư].

Cá nhân tác giả cũng hoàn toàn đồng thuận với quan điểm của nhiều chuyên gia pháp luật cho rằng cần làm rõ việc VPLS được nhận ủy quyền của khách hàng trong giao dịch dân sự khi tham gia tố tụng, theo hướng không nhất trí với quan điểm của Tòa án nhân dân thành phố C, không nhất trí với quan điểm bác bỏ giấy ủy quyền của khách hàng cho VPLS khi tham gia tố tụng dân sự, cụ thể như sau:

Thứ nhất, khoản 1 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự” mà không quy định “Người đại diện chỉ là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự”. Mặt khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thì đối tượng được nhận ủy quyền đại diện trong tố tụng dân sự không chỉ duy nhất có 02 chủ thể là cá nhân và pháp nhân, mà còn có thêm chủ thể khác nữa được quy định như sau: “….tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng khi được người lao động ủy quyền”.

Bên cạnh đó, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì ngoài đối tượng là cá nhân, pháp nhân, còn có nhiều chủ thể khác tham gia quan hệ giao dịch dân sự như hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân vẫn được ủy quyền tham gia giao dịch dân sự. Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” mà không quy định “cá nhân, pháp nhân chỉ được ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Theo tinh thần của Bộ luật Dân sự, các chủ thể dân sự được đối xử bình đẳng khi tham gia các giao dịch dân sự mà pháp luật không cấm, không trái đạo đức xã hội, không xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Thứ hai, VPLS là tổ chức hành nghề Luật sư được thành lập và hoạt động theo Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn. Theo khoản 1 Điều 39 Luật Luật sư thì một trong các quyền của tổ chức hành nghề Luật sư là “thực hiện dịch vụ pháp lý”. Như vậy, xét về bản chất, trong trường hợp này VPLS đang thực hiện một dịch vụ pháp lý được khách hàng ủy quyền theo đúng quy định của pháp luật.

Mặt khác, theo khoản 3 Điều 39 Luật Luật sư, VPLS được thuê Luật sư Việt Nam, Luật sư nước ngoài và nhân viên làm việc cho tổ chức hành nghề Luật sư và theo khoản 2 Điều 22 Luật Luật sư, Luật sư được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể thấy trong vụ việc này Luật sư đang tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện của khách hàng trên cơ sở hợp đồng dịch vụ pháp lý được xác lập giữa VPLS với khách hàng. Nói cách khác, VPLS đang nhận ủy quyền của khách hàng và phân công các Luật sư của VPLS đại diện cho khách hàng tham gia tố tụng dân sự. Cách thức nhận và thực hiện ủy quyền này của VPLS cũng không có gì khác biệt mà về thực chất cũng tương tự như các công ty luật khi nhận và thực hiện ủy quyền từ khách hàng.

Hơn nữa, xét trong mối tương quan với Bộ luật Dân sự, thì Luật Luật sư được hiểu là luật khác, luật chuyên ngành. Bởi vậy theo nguyên tắc “ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung” đã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật [ví dụ khoản 2 Điều 4 Luật Thương mại năm 2005] và khoản 1, khoản 2 Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp nhận ủy quyền như trên, Luật Luật sư sẽ được ưu tiên áp dụng.

Luật sư, Thạc sĩ Đào Ngọc Lý, Giám đốc Công ty Luật TNHH Đào Ngọc Lý, Phó Chủ nhiệm, Trưởng Ban Bảo vệ quyền lợi Luật sư Đoàn Luật sư TP. Hà Nộ.

Thứ ba, so sánh việc cá nhân ủy quyền cho Luật sư với việc cá nhân ủy quyền cho VPLS [do Luật sư thành lập là trưởng văn phòng] thì hoàn toàn không có sự khác biệt về bản chất. Thậm chí, VPLS còn được cấp phép hoạt động và chịu sự quản lý của sở tư pháp và các cơ quan có thẩm quyền nên xét về khía cạnh nào đó thì tính chịu trách nhiệm còn cao hơn so với đối tượng là cá nhân.

Ngoài ra, pháp luật về dân sự cũng có quy định bên nhận ủy quyền có thể ủy quyền lại cho bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ nên VPLS cũng có thể ủy quyền lại hoặc phân công cho các Luật sư thuộc văn phòng mình thực hiện công việc đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng. Điều đó tạo điều kiện cho các tổ chức hành nghề Luật sư có sự chủ động, linh hoạt và điều chỉnh nhân sự phù hợp để thực hiện công việc kịp thời, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ tư, VPLS và công ty luật là hai loại hình khác nhau về chế độ trách nhiệm tài sản, cụ thể là trách nhiệm vô hạn và trách nhiệm hữu hạn. Tuy nhiên, xét ở góc độ hành nghề thì cả hai loại hình này đều là tổ chức hành nghề Luật sư, đều có cùng nội dung lĩnh vực hành nghề như nhau và nội dung này đều được ghi cụ thể và rõ nét trong giấy đăng ký hoạt động do sở tư pháp cấp, bao gồm: tham gia tố tụng; tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng; dịch vụ pháp lý khác.

Như vậy, nếu công ty luật có quyền nhận đại diện theo ủy quyền mà VPLS không được nhận ủy quyền thì rõ ràng là không hợp lý, không bình đẳng và không phù hợp với quy định của pháp luật.

Thứ năm, về vấn đề chủ thể là doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân khi tham gia giao dịch dân sự cũng gặp không ít khó khăn, trở ngại tương tự do quan điểm của một số cơ quan chức năng còn có sự nhầm lẫn, chưa đúng quy định của pháp luật, xâm hại quyền lợi hợp pháp của những chủ thể là tổ chức không có tư cách pháp nhân. Đơn cử trường hợp Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi ban hành Thông tư số 32/2016/TT-NHNN ngày 16/12/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán [có hiệu lực từ ngày 01/3/2017], tại khoản 6 Điều 1 quy định “Đối tượng được mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng chỉ gồm cá nhân và tổ chức là pháp nhân” và điểm c, khoản 2 Điều 4 quy định “Sau 12 tháng kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, thực hiện đóng tài khoản đối với những tài khoản thanh toán của khách hàng là hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân chưa hoàn thành việc chuyển đổi hình thức tài khoản theo quy định tại điểm b khoản này”. Nội dung không đúng này đã được Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc Bộ Tư pháp rà soát, phát hiện và chỉ rõ pháp luật hiện hành không có quy định cấm [hay không cho] các tổ chức không có tư cách pháp nhân mở [giao kết hợp đồng] tài khoản tại ngân hàng. Đồng thời thông qua vấn đề này, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật cũng cho rằng việc không cho các tổ chức không có tư cách pháp nhân, trong đó có các chủ thể kinh doanh, tổ chức hành nghề [doanh nghiệp tư nhân, VPLS…] mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng sẽ gây khó khăn lớn, tiềm ẩn rủi ro pháp lý cho các tổ chức này trong tổ chức hoạt động, nhất là thực hiện pháp luật về thuế, giao kết hợp đồng… của hàng chục ngàn doanh nghiệp tư nhân, VPLS. Ngoài ra, việc hạn chế quyền trên cũng không phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, trong đó có phát triển kinh tế tư nhân.

Bởi vậy, ngày 28/02/2019 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 02/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 nói trên [có hiệu lực từ 01/3/2019] đã quy định nhiều nội dung, trong đó có việc bãi bỏ Thông tư số 32/2016/TT-NHNN ngày 16/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Trên đây là sơ lược một số ý kiến chia sẻ và quan điểm của tác giả, đồng thuận với các chuyên gia pháp lý có chung quan điểm đề nghị VPLS được nhận ủy quyền của khách hàng trong quan hệ dân sự khi tham gia tố tụng, trừ những nội dung bị cấm theo quy định của pháp luật. Rất mong nhận được ý kiến phản hồi, chia sẻ của các đồng nghiệp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thống nhất áp dụng vấn đề này trong thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các Luật sư và VPLS thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình khi hành nghề, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, cũng như tuân thủ đúng Luật Luật sư và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Thạc sĩ, Luật sư ĐÀO NGỌC LÝ

Giám đốc Công ty Luật TNHH Đào Ngọc Lý

Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội

Luật sư với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật

5. Thúc đẩy cải cách quản lý, kiểm tra hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu

[LSVN] - Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh vừa ký Nghị quyết số 131/NQ-CP của Chính phủ về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành phục vụ người dân, doanh nghiệp. Theo đó, Chính phủ yêu cầu thúc đẩy cải cách quản lý, kiểm tra hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Ảnh minh họa.

Cụ thể, về cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ rà soát, đề xuất phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt trước ngày 30 tháng 9 hàng năm. Trong đó, tiếp tục thúc đẩy cải cách quy định trong các lĩnh vực quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, đăng ký đất đai và quản lý hành chính đất đai theo các giải pháp đã đề ra tại Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ.

Tổ chức thực thi ngay các phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và phương án phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính tại Quyết định số 1015/QĐ-TTg ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ, ưu tiên áp dụng hình thức một văn bản sửa nhiều văn bản theo trình tự, thủ tục rút gọn, bảo đảm hoàn thành đúng tiến độ được phê duyệt đối với các văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

Tập trung rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính nội bộ trong hệ thống hành chính nhà nước theo Kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1085/QĐ-TTg ngày 15 tháng 9 năm 2022.

Các bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì, phối hợp với Cổng Thông tin điện tử Chính phủ và các cơ quan, đơn vị có liên quan tổ chức tọa đàm và trao đổi về chính sách, quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh được các tổ chức, cá nhân quan tâm, phản ánh về những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn.

Bộ Tài chính trình Chính phủ trong tháng 11 năm 2022 Nghị định về kết nối và chia sẻ thông tin trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa; xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh người và phương tiện vận tải theo cơ chế một cửa quốc gia.

Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính xây dựng, quản lý, phát triển, vận hành hiệu quả Cổng tham vấn và tra cứu quy định kinh doanh; theo dõi, hướng dẫn và đôn đốc các bộ, ngành, địa phương thực hiện Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025, thực thi phương án phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính và triển khai rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính nội bộ trong hệ thống hành chính nhà nước. Công khai kết quả đánh giá nỗ lực cải cách quy định kinh doanh của các bộ, cơ quan trên Cổng tham vấn và tra cứu quy định kinh doanh và Cổng Thông tin điện tử Chính phủ…

Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm là cầu nối giữa Chính phủ với doanh nghiệp và người dân; nghiên cứu, đề xuất các sáng kiến cải cách quy định, nhất là các quy định đang là rào cản, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân; cho ý kiến độc lập đối với các quy định trong dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, phương án cắt giảm, đơn giản hóa do các bộ, cơ quan đề xuất.

DUY ANH

Luật sư với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật

6. Đề xuất quy định về sử dụng kinh phí kiểm tra, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật

[LSVN] - Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Thông tư quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật.

Ảnh minh họa.

Theo dự thảo, các nội dung chi cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật thực hiện theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu tài chính hiện hành.

Cụ thể, đối với các khoản chi để tổ chức các cuộc họp, hội nghị, hội thảo, tọa đàm, sơ kết, tổng kết; các khoản chi công tác phí cho những người đi công tác trong nước [bao gồm cả cộng tác viên, thành viên tham gia các đoàn kiểm tra văn bản và đoàn kiểm tra công tác kiểm tra, rà soát văn bản] được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 40/2017/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi hội nghị.

Đối với các khoản chi cho việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ và công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản và đội ngũ cộng tác viên được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 36/2018/TT-BTC hướng dẫn lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.

Chi tổ chức hội thi theo ngành, lĩnh vực, địa phương và toàn quốc về công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản: Thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở.

Đối với các khoản chi điều tra, khảo sát thực tế phục vụ công tác kiểm tra, xử lý, rà soát hệ thống hóa văn bản được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 109/2016/TT-BTC quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện các cuộc điều tra thống kê, Tổng điều tra thống kê quốc gia và Thông tư số 37/2022/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Khoản 9 Điều 3 và Mẫu số 01 kèm theo Thông tư số 109/2016/TT-BTC.

Chi khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác kiểm tra, rà soát hệ thống hóa văn bản được thực hiện theo quy định hiện hành về chế độ chi khen thưởng.

Chi hợp đồng có thời hạn với cộng tác viên kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản được thực hiện theo hợp đồng giữa các bên và quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng.

Đối với các khoản chi báo cáo kết quả rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thực hiện theo quy định của Bộ Tài chính về lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

MAI HUỆ

Luật sư với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật

7. Tỷ phú Elon Musk đề nghị tòa hoãn phiên xét xử vụ hợp đồng với Twitter

[LSVN] - Ngày 06/10, tỷ phú Elon Musk đã đệ đơn đề nghị thẩm phán hoãn phiên tòa xét xử cáo buộc phá vỡ hợp đồng với Twitter, sau khi công ty truyền thông xã hội không chấp nhận yêu cầu đình chỉ vụ kiện của vị tỷ phú này.

Tỷ phú Elon Musk và biểu tượng Twitter. Ảnh tư liệu: Mega/TTXVN.

Động thái trên diễn ra chỉ 2 ngày sau khi ông chủ của Tesla bất ngờ đề nghị nối lại thương vụ mua lại Twitter, với mức giá thỏa thuận ban đầu là 44 tỉ USD, trong bối cảnh chỉ còn khoảng 2 tuần sẽ diễn ra phiên tòa nói trên, dự kiến bắt đầu từ ngày 17/10. Ông Musk cho biết sẽ mua lại Twitter theo các điều khoản ban đầu trong hợp đồng, với điều kiện là tòa án bang Delaware phải hoãn vụ kiện.

Trong hồ sơ gửi Thẩm phán, đội ngũ Luật sư của ông Musk nêu rõ "không cần thiết" phải tiến hành phiên tòa trên. Theo hồ sơ, Twitter đã không đồng ý hoãn vụ kiện do cho rằng ông Musk không đủ tài chính cho giao dịch. Đội ngũ Luật sư của ông Musk khẳng định vị tỷ phú này có đủ khả năng chi trả để hoàn tất thỏa thuận trong khoảng ngày 28/10.

Twitter tuyên bố vẫn giữ nguyên lập trường của công ty do ông Musk đã nhiều lần có hành động không nhất quán. Theo Twitter, lần kháng cáo mới nhất của ông Musk là nhằm trì hoãn việc giải quyết vấn đề này. Trước đó, Twitter cho biết muốn chốt thương vụ, với giá 54,2 USD/cổ phiếu - mức ban đầu 2 bên thống nhất hồi tháng 4.

Trước đó, Thẩm phán Kathaleen McCormick của tòa án bang Delaware cho biết vẫn đang chuẩn bị tiến hành phiên tòa vào ngày 17/10. Trong khi đó, CNBC đưa tin, ông Musk dự kiến tham dự phiên lấy lời khai vào ngày 10/10.

Cuộc chiến pháp lý giữa Twitter và tỷ phú Musk bắt đầu từ tháng 4, khi ông chủ của hãng xe điện Tesla đã đề nghị mua công ty này với giá 44 tỉ USD, với giá 54,2 USD/cổ phiếu. Tuy nhiên, đến ngày 08/7, ông Musk tuyên bố chấm dứt thỏa thuận này, với cáo buộc Twitter gian lận về số lượng tài khoản giả mạo và tin nhắn rác trên nền tảng này, đồng thời từ chối trao cho ông toàn quyền xử lý lượng dữ liệu. Twitter cho biết các số liệu thống kê ước tính của công ty do trí tuệ nhân tạo thực hiện có thể không hoàn toàn chính xác.

Ngày 12/7, Twitter đã kiện ông Musk với lý do phá vỡ hợp đồng. Đơn kiện được trình lên tòa án bang Delaware, đề nghị tòa yêu cầu tỷ phú Musk thực hiện thỏa thuận mua Twitter, với lập luận không mức án phạt tài chính nào có thể bù đắp được thiệt hại mà ông đã gây ra.

HOÀNG CHÂU/TTXVN

Luật sư với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật

8. Các trường hợp phải đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài

[LSVN] - Đây là một trong những quy định đáng chú ý tại Thông tư số 12/2022/TT-NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam [NHNN] vừa ban hành hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với việc vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp.

Theo Thông tư quy định, bên đi vay phải đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài với NHNN nếu thay đổi bất kỳ nội dung nào liên quan đến khoản vay được nêu tại văn bản xác nhận đăng ký, văn bản xác nhận đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài của NHNN, trừ trường hợp:

- Thay đổi thời gian rút vốn, trả nợ gốc trong phạm vi 10 ngày làm việc so với kế hoạch đã được NHNN xác nhận;

- Thay đổi địa chỉ của bên đi vay nhưng không thay đổi tỉnh, thành phố nơi bên đi vay đặt trụ sở chính, bên đi vay gửi thông báo về việc đổi địa chỉ cho Cơ quan có thẩm quyền xác nhận đăng ký, đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài của bên đi vay;

- Thay đổi bên cho vay, các thông tin liên quan về bên cho vay trong khoản vay hợp vốn có chỉ định đại diện các bên cho vay, trừ trường hợp bên cho vay đồng thời là đại diện các bên cho vay trong khoản vay hợp vốn và việc thay đổi bên cho vay làm thay đổi vai trò đại diện các bên cho vay;

- Thay đổi tên giao dịch thương mại của ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản, ngân hàng phục vụ giao dịch bảo đảm;

- Thay đổi kế hoạch trả lãi, phí của khoản vay nước ngoài so với kế hoạch đã được NHNN xác nhận tại văn bản xác nhận đăng ký, xác nhận đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài nhưng không thay đổi cách xác định lãi, phí quy định tại thỏa thuận vay nước ngoài. Bên đi vay có trách nhiệm lập bảng tính lãi, phí phải trả để ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản có cơ sở kiểm tra, theo dõi khi thực hiện việc chuyển tiền;

- Thay đổi [tăng hoặc giảm] số tiền rút vốn, trả nợ gốc, lãi, phí trong phạm vi 100 đơn vị tiền tệ của đồng tiền vay nước ngoài so với số tiền đã nêu trong văn bản xác nhận đăng ký, văn bản xác nhận đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài;

- Thay đổi số tiền rút vốn, trả nợ gốc thực tế của một kỳ cụ thể ít hơn số tiền được nêu tại kế hoạch rút vốn, trả nợ trên văn bản xác nhận đăng ký hoặc văn bản xác nhận đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài.

Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/11/2022.

HỒNG HẠNH

Các trường hợp rút vốn, trả nợ không thực hiện qua tài khoản vay, trả nợ nước ngoài

SÁNG

9. Ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai khi nào?

[LSVN] - Vừa qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 11/2022/TT-NHNN ngày 30/9/2022 quy định về bảo lãnh ngân hàng. Vậy theo quy định mới này, Ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai khi nào?

Ảnh minh họa.

Theo quy định tại Điều 13 Thông tư số 11/2022/TT-NHNN về bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai, Ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai khi:

- Trong giấy phép thành lập và hoạt động hoặc tại văn bản sửa đổi, bổ sung giấy phép thành lập và hoạt động của ngân hàng thương mại có quy định nội dung hoạt động bảo lãnh ngân hàng;

- Không bị cấm, hạn chế, đình chỉ, tạm đình chỉ thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai.

Ngân hàng Nhà nước công bố công khai danh sách ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai trong từng thời kỳ trên cổng thông tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước.

Bên cạnh đó, Thông tư số 11/2022/TT-NHNN cũng nêu rõ, Ngân hàng thương mại xem xét, quyết định cấp bảo lãnh cho chủ đầu tư khi:

- Chủ đầu tư đáp ứng đủ các yêu cầu quy định tại Điều 11 Thông tư này [trừ trường hợp ngân hàng thương mại bảo lãnh cho chủ đầu tư trên cơ sở bảo lãnh đối ứng];

- Dự án của chủ đầu tư đáp ứng đủ các điều kiện của bất động sản hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh theo quy định tại Điều 55 Luật Kinh doanh bất động sản và quy định của pháp luật có liên quan.

Trình tự thực hiện bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai:

- Căn cứ đề nghị của chủ đầu tư hoặc bên bảo lãnh đối ứng, ngân hàng thương mại xem xét, thẩm định và quyết định cấp bảo lãnh cho chủ đầu tư;

- Ngân hàng thương mại và chủ đầu tư ký hợp đồng bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai theo quy định tại Điều 56 Luật Kinh doanh bất động sản và quy định tại khoản 13 Điều 3, Điều 15 Thông tư này;

- Sau khi ký hợp đồng mua, thuê mua nhà ở, trong đó có quy định nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư, chủ đầu tư gửi hợp đồng mua, thuê mua nhà ở cho ngân hàng thương mại để đề nghị ngân hàng thương mại phát hành thư bảo lãnh cho bên mua;

- Ngân hàng thương mại căn cứ hợp đồng mua, thuê mua nhà ở và hợp đồng bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai để phát hành thư bảo lãnh và gửi cho từng bên mua hoặc gửi chủ đầu tư để cung cấp thư bảo lãnh cho bên mua theo thỏa thuận.

Chủ Đề