Bờ biển tỉnh Thừa Thiên Huế có chiều dài bao nhiêu?

- Điểm cực Bắc: 160 44’30’’ vĩ Bắc và 1070 23’48’’ kinh Đông tại thôn Giáp Tây, xã Điền Hương, huyện Phong Điền.

- Điểm cực Nam: 150 59’30’’ vĩ Bắc và 1070 41’52’’ kinh Đông ở đỉnh núi cực Nam, xã Thượng Nhật, huyện Nam Đông.

- Điểm cực Tây: 160 22’45’’ vĩ Bắc và 1070 00’56’’ kinh Đông tại bản Paré, xã Hồng Thủy, huyện A Luới.

- Điểm cực Đông: 160 13’18’’ vĩ Bắc và 1080 12’ 57’’kinh Đông tại bờ phía Đông đảo Sơn Trà, thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc.

Nét Huế - Ảnh : Đào Hoa Nữ

Giới hạn, diện tích:

- Phía Bắc, từ Đông sang Tây Thừa Thiên Huế tiếp giáp với huyện Hải Lăng, huyện Đakrông và huyện Hướng Hóa của tỉnh Quảng Trị với đường biên dài 111,671km

- Từ mặt Nam, tỉnh Thừa Thiên - Huế có biên giới chung với huyện Đông Giang và huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam dài 56,66km với huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng dài 55,82km.

- Ở phía Tây, ranh giới tỉnh [cũng là biên giới quốc gia] kéo dài từ điểm phía Bắc [ranh giới tỉnh Thừa Thiên - Huế với tỉnh Quảng Trị và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào] đến điểm phía Nam [ranh giới tỉnh Thừa Thiên - Huế với tỉnh Quảng Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào] dài 87,97km.

- Phía Đông, tiếp giáp với biển Đông theo đường bờ biển dài 120km.

Thừa Thiên - Huế nằm trên một dải đất hẹp với chiều dài 127 km, chiều rộng trung bình 60 km với đầy đủ các dạng địa hình rừng núi, gò đồi, đồng bằng duyên hải, đầm, phá và biển tập trung trong một không gian hẹp, thấp dần từ Tây sang Đông. Phía Tây là dãy núi cao, phía giữa là đồi núi thấp và phía Đông là dải đồng bằng ven biển nhỏ hẹp và cuối cùng là vùng đầm phá.

Núi Ngự - Ảnh : Đào Hoa Nữ

Phần phía Tây chủ yếu là đồi núi chiếm tới 70% diện tích tự nhiên. Núi chiếm khoảng ¼ diện tích tự nhiên, nằm ở biên giới Việt – Lào và vùng tiếp giáp với thành phố Đà Nẵng. Phần lớn các đỉnh núi có độ cao từ 800 đến hơn 1.000 m, trong đó có núi Bạch Mã và đèo Hải Vân là những địa danh du lịch nổi tiếng. Địa hình phần đồi phân bố chủ yếu ở vùng trung du, trong các thung lũng, chiếm khoảng ¼ diện tích tự nhiên, độ cao phần lớn dưới 500 m, có đặc điểm là đỉnh rộng, sườn thoải 20 - 250.

Có thể chia địa hình Thừa Thiên - Huế thành hai phần:

- Phần phía Tây và Nam chiếm phần lớn diện tích của lãnh thổ với địa hình đồi núi bị chia cắt mạnh. Ở đây có hai địa hình chủ yếu là địa hình thung lũng xâm thực - tích tụ và địa hình đồi núi.

- Phần phía Đông là dải đất thấp được tạo thành bởi phù sa sông, biển và sự bào mòn các đồi thấp chạy dọc theo bờ biển, với chiều dài 70 km, chiều rộng trung bình 12 km. Địa hình tuy không cao nhưng lại phân hoá phức tạp với sự đan xen của gò đồi, cồn cát, đồng bằng, đầm phá và các cửa sông.

Thừa Thiên - Huế nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, mang tính chất chuyển tiếp giữa gió mùa á xích đạo của miền Nam và gió mùa nội chí tuyến của miền Bắc với ngăn cách tự nhiên là dãy núi Bạch Mã. Nhìn chung, Thừa Thiên - Huế có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nhưng phân hoá phức tạp cả về thời gian và không gian. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 250C. Tổng nhiệt trong năm khoảng 9.100 - 9.2000C. Số giờ nắng trung bình 2.000 giờ/năm. Lượng mưa hàng năm trung bình từ 2.700 mm đến 3.490 mm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12, chiếm 85% lượng mưa cả năm. Đây là một trong những những tỉnh có lượng mưa cao nhất nước ta. Tính chất mưa mùa cộng với địa hình dốc nên tỉnh thường xuyên xảy ra tình trạng hạn hán và lũ lụt. Thừa Thiên - Huế lại là vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão, tập trung nhất vào các tháng 8 - 9 - 10. Mỗi năm đều có ít nhất 1 cơn bão đổ bộ trực tiếp vào lãnh thổ.

Sông Hương - Ảnh : Hoàng Chí Hùng

Khí hậu của Thừa Thiên - Huế có thể chia thành 2 vùng:

- Vùng đồng bằng phía Đông có đặc trưng là nhiệt độ trung bình năm trên 240C. Vùng này có 3 tiểu vùng là tiểu vùng đồng bằng phía Bắc thành phố Huế, tiểu vùng từ Phú Bài đến Truồi và tiểu vùng đồng bằng - đầm phá huyện Phú Lộc.

- Vùng đồi núi phía Tây có đặc điểm là tổng nhiệt và nhiệt độ trung bình năm thấp hơn, mùa mưa đến sớm hơn. Vùng này được chia thành 5 tiểu vùng : tiểu vùng gò đồi, tiểu vùng thung lũng Nam Đông, tiểu vùng Bạch Mã, tiểu vùng A Lưới và tiểu vùng Núi Ngại.

Thừa Thiên - Huế có hệ thống sông ngòi khá dày đặc nhưng các sông đều nhỏ, độ dốc lớn. Tổng chiều dài các sông chính chảy trên lãnh thổ của tỉnh là khoảng 300 km trong đó hệ thống sông Hương chiếm đến 60%.

Sông Hương là hệ thống sông dài nhất và có lưu vực lớn nhất trong tỉnh, gồm 3 nhánh hợp thành là sông Bồ, sông Hữu Trạch và sông Tả Trạch, chảy qua các huyện Hương Trà, Hương Thuỷ, Phú Vang và thành phố Huế, đổ cửa biển Thuận An.

Sông Bồ là ranh giới giữa các huyện Hương Điền và Hương Trà, đổ ra phá Tam Giang. Sông có các phụ lưu là Rào Tráng, Rào Nái.

Sông Ô Lâu có hai phụ lưu là sông Ô Lâu và sông Mỹ Chánh, bắt nguồn từ vùng núi huyện Phong Điền ở độ cao khoảng 900m.

Phía Nam tỉnh có sông Truồi ở huyện Phú Lộc, đổ ra đầm Cầu Hai. Sông bắt nguồn từ khu vực Vườn quốc gia Bạch Mã, chủ yếu chảy trong địa phận huyện Phú Lộc, có chiều dài 24km.

Ngoài ra, tỉnh còn có sông Nông, sông Bu Lu, sông Cầu Hai.

Nhìn chung, sông ngòi ở Huế ngắn và dốc, ít có sông lớn. Các sông có sự chênh lệch rất lớn về dòng chảy trong năm. Tổng lượng nước trong ba tháng mùa lũ lớn gấp 2 lần tổng lượng nước trong 9 tháng mùa cạn.

Thừa Thiên - Huế có nhiều loại đất, thuộc hai hệ chủ yếu là hệ feralit ở vùng đồi núi và hệ phù sa ở vùng đồng bằng. Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 506.530 ha với khoảng 10 loại đất chính. Các loại đất có diện tích tương đối lớn là đất phù sa, đất đỏ vàng, đất mùn vàng trên núi, đất cát, mặn… phân bố trên các vùng khác nhau. Có thể chia đất tự nhiên ở đây thành 3 nhóm chính: nhóm feralit phát triển trên các loại đá, phân bố rộng rãi ở vùng đồi núi phía Tây của tỉnh; nhóm đất phù sa tập trung phần lớn ở dải đồng bằng duyên hải và một diện tích nhỏ nằm dọc theo thung lũng các sông suối; nhóm đất mặn có diện tích không lớn, được hình thành ở những nơi bị ảnh hưởng của thuỷ triều.

Về cơ cấu sử dụng đất, diện tích đất được khai thác vào mục đích nông - lâm nghiệp chiếm 47,6% lãnh thổ, đất chuyên dùng và đất ở chỉ có 4,78%, phần còn lại là đất chưa sử dụng. Diện tích đất chưa sử dụng chủ yếu là đất trống, đồi trọc, được phân bố chủ yếu ở vùng đất cát và vùng đồi núi.

Đến năm 2002, toàn tỉnh có 234.954 ha đất lâm nghiệp có rừng, trong đó có 177.550 ha rừng tự nhiên và 57.395 ha rừng trồng. Diện tích rừng chia theo mục đích sử dụng, rừng sản xuất là 62.778 ha, rừng phòng hộ 119.558 ha và rừng đặc dụng 52.605 ha. Tổng trữ lượng gỗ toàn tỉnh khoảng 17,3 triệu m3. Hiện nay, đất trống, đồi trọc hơn 40% diện tích tự nhiên. Đây là nguồn tài nguyên lớn tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh mở rộng diện tích rừng trong những năm tới. Rừng trong tỉnh có nhiều loại gỗ và chim thú quý như trầm hương, giáng hương, gụ, lim, mun, kiền kiền, thông, bách, hoàng đàn, voi, tê giác, hươu, nai, công, trĩ.

Nhìn chung, Thừa Thiên - Huế là tỉnh nghèo về khoáng sản. Toàn tỉnh có hơn 100 điểm khoáng sản, trong đó có các loại chủ yếu như đá vôi, đá granít, cao lanh, titan, than bùn, sét, nước khoáng… nhưng hầu hết có trữ lượng nhỏ, chỉ có ý nghĩa hạn hẹp đối với địa phương.

Thừa Thiên - Huế có bờ biển dài, vùng lãnh hải rộng lớn nên có lợi thế về khai thác thuỷ hải sản. Ngoài ra, vùng đầm phá cũng là nơi cung cấp một lượng hải sản đáng kể. Riêng hệ đầm phá của tỉnh đã có 162 loài cá thuộc 57 họ, 17 bộ trong đó có nhiều bộ, loài có giá trị kinh tế cao.

Chủ Đề