Bệnh acne là gì

Đối với các định nghĩa khác, xem Trứng cá.

Wikipedia tiếng Việt không bảo đảm và không chịu trách nhiệm về tính pháp lý và độ chính xác của các thông tin có liên quan đến y học và sức khỏe. Đề nghị liên hệ và nhận tư vấn từ các bác sĩ hay các chuyên gia. Khuyến cáo cẩn thận khi sử dụng các thông tin này. Xem chi tiết lại Wikipedia:Phủ nhận y khoa và Wikipedia:Phủ nhận về nội dung.

Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. Bạn có thể giúp cải thiện trang này nếu có thể. Xem trang thảo luận để biết thêm chi tiết.

Mụn trứng cá, thường được hiểu là mụn trứng cá thông thường [acne vulgaris], là bệnh da liễu được đặc trưng bởi tình trạng viêm khu trú vùng nang lông - tuyến bã. Cơ chế sinh bệnh được xác định cho đến thời điểm hiện nay là do: [I] sự tăng tiết bã nhờn, [II] sự sừng hóa [keratin hóa] bất thường của phễu nang lông, [III] sự liên quan của trực khuẩn kị khí gram dương Propionibacterium acnes, và [IV] các loại phản ứng viêm. Trong đó sự tăng tiết bã nhờn được coi là điều kiện cần của mụn trứng cá, còn phản ứng viêm được xem là yếu tố then chốt. Vai trò của phản ứng viêm quan trọng đến nỗi ngày nay người ta có xu hướng xem mụn trứng cá là một loại bệnh tự miễn. Biểu hiện của bệnh là nhiều loại tổn thương khác nhau như: nhân mụn [comedon], sẩn, mụn mủ, cục, nang... khu trú ở các vị trí tiết nhiều chất nhờn như mặt, lưng, ngực. Để thuận lợi cho công tác điều trị, bác sĩ lâm sàng thường chia tổn thương thành hai loại, đó là tổn thương viêm [mụn bọc, mụn mủ] và tổn thương không viêm [mụn đầu trắng, mụn đầu đen]. Cần lưu ý đến tính chất đa dạng trong tổn thương mụn trứng cá để phân biệt với phát ban trứng cá, vốn thường có triệu chứng là các sang thương đơn dạng [sẩn], cùng lứa tuổi và có thể xuất hiện ở vị trí ngoài vùng tiết bã.

Mụn trứng cáMụn mọc trên trán một thanh niên tuổi dậy thìChuyên khoakhoa da liễu, y học gia đìnhICD-10L70ICD-9-CM706.0-706.1Patient UKMụn trứng cáMeSHD000152

Mụn trứng cá thường không ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, tuy nhiên, bệnh có xu hướng tồn tại dai dẳng, hay tái phát, với biến chứng thường gặp là sẹo lõm, hoặc sẹo lồi, gây mất thẩm mỹ, làm suy giảm đáng kể đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Có sự liên hệ khá rõ ràng giữa bệnh lý mụn trứng cá và xu hướng trầm cảm [depression], đặc biệt là ở người trẻ [1][2].

Là hình thái thường gặp nhất. Tổn thương rất đa dạng:

  • Bắt đầu từ tuổi dậy thì, người bệnh có hiện tượng tăng tiết bã nhờn như da mỡ, nhờn, trơn bóng, tóc nhờn, lỗ chân lông giãn rộng
  • Trên nền da nhờn xuất hiện các tổn thương nhân trứng cá [comedon] hay mụn đầu đen [point noir] do chất bã bài tiết và tế bào biểu mô cô đặc lại mà thành

Các thể lâm sàng trứng cá nặng

  • Trứng cá dạng cục, dạng kén
  • Trứng cá bọc
  • Trứng cá tối cấp

Các thể lâm sàng khác

  • Trứng cá trẻ sơ sinh
  • Trứng cá bội nhiễm
  • Phát ban trứng cá [trứng cá do thuốc, do hóa chất..]
  • Trứng cá đỏ [mũi cà chua]

Cần lưu ý là phát ban trứng cá và trứng cá đỏ thực chất không phải là mụn trứng cá do có cơ chế sinh bệnh khác hẳn, và cách điều trị cũng khác.

  • Trứng cá nhẹ: có đầu đen [đầu trứng cá hở, nhân tiếp xúc với không khí và bị chuyển màu thành đen] và đầu trắng [đầu trứng cá có màng bao bọc, không tiếp xúc với môi trường ngoài], kèm một số nốt sần và nốt có mủ. Trứng cá nhẹ thường tự hết trong vòng 1-2 tuần[cần dẫn nguồn], không để lại sẹo mà cũng không cần phải dùng thuốc.
  • Trứng cá vừa: nốt sần màu đỏ, hơi đau, nốt có mủ nhiều hơn, và có tạo sẹo nhỏ, diễn tiến dai dẳng, có những đợt thoái lui. Dễ tái phát khi sử dụng các chất kích thích: Rượu, bia, thuốc lá, cafein... hoặc phát triển và thoái triển theo chu kỳ kinh nguyệt [ở nữ giới][cần dẫn nguồn]
  • Trứng cá nặng: có các cục nhỏ có viêm, đau nhiều, có phù nề, và nốt sần, nốt có mủ rất nhiều, có thể gây sẹo lớn

Việc điều trị nhằm giảm quần thể vi khuẩn trong nang lông, giảm sinh bã nhờn, giảm viêm, loại bỏ lớp keratin che lấp nang. Các thuốc dùng gồm có các chất ly giải keratin và chất kháng khuẩn. Khi thuốc bôi ngoài không có tác dụng, cần dùng thuốc uống, đáp ứng với thuốc thường chậm và phải điều trị lâu dài. Kinh nghiệm điều trị: Trong thời gian điều trị bệnh, bệnh nhân tuyệt đối không được sờ hay nặn mụn gây viêm nhiễm lan rộng [bội nhiễm] gây ảnh hưởng đến kết quả điều trị.[cần dẫn nguồn]

  • Trứng cá nhẹ: Dùng thuốc bôi ngoài, đặc biệt là benzoyl peroxid, chất kháng khuẩn và retinoid. Acid azelaic có thể dùng thay thế benzoyl peroxid. Khi phối hợp retinoid với kháng sinh erythromycin sẽ hiệp đồng tác dụng, nhanh chóng cho hiệu quả điều trị

Các thuốc kháng khuẩn bôi ngoài cũng là thuốc đầu tiên dùng đến sau khi liệu pháp benzoyl peroxid không hiệu quả, dùng các dung dịch tetracylin, clindamycin, erthromycin để bôi ngoài, và các chất này có tác dụng tương đương nhau. Dùng thuốc kháng khuẩn bôi ngoài chỉ nên kéo dài 10 đến 12 tuần, không dùng đồng thời thuốc bôi ngoài với thuốc uống hay loại nọ kế tiếp loại kia

  • Trứng cá vừa: Dùng thuốc kháng khuẩn đường uống là tốt nhất, kết hợp với thuốc bôi ngoài. Tất cả các thuốc kháng khuẩn được dùng ít nhất trong 3 tháng, có những trường hợp phải điều trị tới 2 năm hay lâu hơn nữa. Đối với các bệnh nhân nữ có trứng cá vừa nhưng phải dùng thuốc tránh thai, thì nên dùng thuốc tránh thai chứa một progrestogen không androgen nhưng cần hết sức lưu ý tác dụng phụ khi dùng đường uống kéo dài.
  • Trứng cá nặng: Thường dùng isotretionin theo đường uống, nếu những bệnh nhân không dùng được loại thuốc này có thể dùng thuốc kháng khuẩn với liều cao. Đối với những bệnh nhân nữ chống chỉ định dùng estrogen có thể dùng spironolacton, dựa vào tính kháng androgen của nó, kết hợp dùng thuốc bôi ngoài trứng cá nhẹ.

Tiến triển chung của trứng cá

Đa số tự khỏi. Một số trường hợp có thể kèm theo các rối loạn như nhiễm trùng, trứng cá đỏ[3], viêm tổ chức dưới da. Nếu tổn thương mọc quanh miệng mũi, có mủ, khi nặn không vô khuẩn có thể gây nhiễm khuẩn huyết, viêm xoang tĩnh mạch nông.

Mụn trứng cá được hình thành dưới tác động của 3 yếu tố chính:

Tăng tiết chất bã

Bình thường chất bã được nang lông tuyến bã tiết ra làm da, lông, tóc ẩm, mềm mại, mượt mà. Trong trứng cá, do nội tiết tố androgen của cơ thể, đặc biệt là testosteron tiết ra nhiều sẽ gắn vào các thụ thể đặc hiệu có trên bề mặt các tế bào tuyến bã, kích thích tuyến bã phát triển, giãn rộng làm tăng bài tiết chất bã.

Sừng hóa cổ nang lông

Bình thường các tế bào của tuyến bã và cổ nang lông khi chết sẽ được đào thải ra ngoài qua cổ nang lông. Trong trứng cá, các tế bào này không được đào thải sẽ gây bít tắc cổ nang lông làm chất nhờn tích tụ lại và làm phình tuyến bã.

Sự gia tăng hoạt động của Vi khuẩn Propionibacterium acnes [P.acnes]

P.acnes hiện diện rất nhiều trên da của bệnh nhân trứng cá. Các vi khuẩn này sẽ chuyển hóa các acid béo tự do có trong tế bào và chất nhờn bị tích tụ làm viêm tấy nang lông và cổ nang lông tạo nên mụn trứng cá dạng sẩn, mụn mủ, cục và nang.

Một số yếu tố khác liên quan đến hình thành mụn trứng cá

  • Tuổi: 90% trường hợp ở lứa tuổi 13-19 [tuổi dậy thì], sau đó bệnh giảm dần. Nhưng trứng cá có thể bắt đầu ở tuổi 20-30 hoặc thậm chí muộn hơn ở tuổi 50-59 [trung niên].
  • Giới: Nữ nhiều hơn nam, tỷ lệ nữ/nam ≈2/1, nhưng bệnh ở nam giới thường nặng hơn nữ
  • Yếu tố gia đình: 50% bệnh nhân có tiền sử gia đình
  • Yếu tố thời tiết, chủng tộc: khí hậu nóng ẩm, khô hanh liên quan đến bệnh trứng cá, người da trắng và da vàng bị trứng cá nhiều hơn người da đen.
  • Yếu tố nghề nghiệp: Khi tiếp xúc với dầu mỡ, với ánh nắng nhiều….làm tăng khả năng bị bệnh
  • Yếu tố stress: có thể gây nên bệnh hoặc làm nặng thêm bệnh trứng cá
  • Chế độ ăn: một số thức ăn có thể làm tăng nặng bệnh trứng cá như sôcôla, đường, bơ, cà phê…và một số thức ăn liên quan đến dầu mỡ và đường.
  • Các bệnh nội tiết: một số bệnh Cushing, bệnh đường giáp trạng, bệnh buồng trứng đa nang….làm tăng trứng cá.
  • Thuốc: Một số thuốc làm tăng trứng cá như corticoid, nhóm halogen…
  • Một số nguyên nhân tại chỗ: vệ sinh da mặt, chà xát, nặn bóp không đúng phương pháp, lạm dụng mỹ phẩm và chất hóa học.

Mụn trứng cá thực sự làm suy giảm nặng nề chất lượng cuộc sống [quality of life]. Thậm chí mụn trứng cá thể nhẹ cũng có thể gây ra nhiều đau khổ. Vì vậy, điều quan trọng là cần thiết phải điều trị mụn trứng cá hơn là để cho bệnh tự thoái lui.[2]

Mục tiêu

  • Chống tiết nhiều chất bã
  • Chống dày sừng phễu nang lông
  • Chống nhiễm khuẩn
  • Kháng viêm

Thuốc điều trị

Chia làm 4 nhóm chính:

  • Nhóm thuốc làm bạt sừng, bong vảy [keratolytics]: Ví dụ mỡ salicylic acid 5-10%: có tác dụng làm mỏng lớp sừng trên bề mặt da, giúp chất bã thoát ra ngoài dễ dàng hơn. Nhóm thuốc này thích hợp để làm bong các nút sừng ở các loại mụn đầu trắng, mụn bọc nhỏ.
  • Nhóm thuốc kháng sinh [antibiotic] và kháng khuẩn [antibactarial]: Thường dùng các kháng sinh như clindamycin, erythromycin, kháng khuẩn chống viêm như benzoyl peroxide. Dùng cả đường toàn thân và tại chỗ.
  • Nhóm vitamin A acid [retinoid]: Có tác dụng chống sừng hoá cổ tuyến bã, do đó ngăn ngừa hình thành các nút sừng tại cổ tuyến bã, giảm tắc nghẽn chất bã trong tuyến bã. Nên dùng kết hợp với nhóm kháng sinh để đạt hiệu quả điều trị cao hơn
  • Nhóm thuốc nội tiết [hormone]: Liệu trình điều trị thường kéo dài từ 3 - 6 tháng. Không nên dùng loại thuốc tránh thai có thành phần progesterol đơn thuần vì loại này thường làm tăng nặng bệnh trứng cá. Nên dùng loại kết hợp progesterol tổng hợp thế hệ 2 như levonorgestrel, ethinyloestradiol cho các trường hợp trứng cá vừa và nặng.
  • Hạn chế dùng thuốc có brom, corticoid
  • Rửa mặt bằng sữa rửa mặt phù hợp với da.
  • Ăn ít đường, sôcôla, chất béo, thức ăn có liên quan tới dầu mỡ, đồ ngọt...
  • Tránh làm việc quá sức, hạn chế stress.
  • Khi bị bệnh mụn trứng cá, nếu nặn phải có phương pháp nếu không thì sẽ lây lan qua các vùng lân cận ở da.
  • Bảo vệ da trước ánh nắng mặt trời bởi vì trong ánh nắng mặt trời kích thích vi khuẩn gây mụn trên da hoạt động mạnh, khiến tình trạng mụn thêm trầm trọng.
  • Sử dụng các mặt nạ được làm từ các nguyên liệu tự nhiên như nghệ, dưa leo, lô hội,…sẽ có công dụng kháng viêm

  1. ^ “Acne: Signs and symptoms”. Truy cập 27 tháng 9 năm 2015.
  2. ^ a b Acne Can Change the Way You See the World. //www.skincarephysicians.com/acnenet/socimpct.html
  3. ^ “BASIC WEAR 4MEN”. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2021.

  • Thuốc biệt dược & cách sử dụng, phần chuyên khảo, DS.Phạm Thiệp-DS.Vũ Ngọc Thuý, Nhà xuất bản Y Học 2005
  • Da liễu học [dùng cho đào tạo bác sĩ đa khoa], PGS.TS.Phạm Văn Hiển, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam 2009

Mụn trứng cá mùa hè

  Bài viết chủ đề y học này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Mụn_trứng_cá&oldid=67140952”

Video liên quan

Chủ Đề