05[99]/2016
Mục lục
- 0.Dẫn nhập
- 1.Những giá trị của học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại
- 2.Ý nghĩa đương đại từ thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại
- 3.Tài liệu tham khảo
HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ TRUNG HOA CỔ ĐẠI: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA ĐƯƠNG ĐẠI
TS ĐỖ ĐỨC MINH*05[99]/2016 - 2016, Trang 74-80
Ngày đăng:
- Trích dẫn
-
Share
- Zalo
-
TÓM TẮT
Pháp trị là học thuyết chính trị - pháp lý tiêu biểu của Trung Hoa cổ đại, gồm những quan niệm được đề xuất, bổ sung và hoàn thiện bởi các đại biểu mà đại diện là Hàn Phi Tử nhằm lý giải thực trạng, nguyên nhân biến động xã hội trong bối cảnh lịch sử đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc và đề xuất đường lối chiến lược trị nước lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu nhằm xây dựng quốc gia phong kiến Trung Quốc thống nhất, trật tự, kỷ cương và thịnh trị.
ABSTRACT:
Chinese doctrine of rule of law is a typical political and legal doctrine of ancient China. It consists of conceptions proposed, supplemented and perfected by delegates among which Han Phi Tu is a representative. It explains the situation and causes of social upheaval in the historical context of the Spring Autumn - Warring States Period, as well as to create an united, ordered, discipline and prosperous feudal nation of China by proposing a national management strategy with law as an essential tool.
TỪ KHÓA: không có,
KEYWORDS: no,
Trích dẫn:
×
TS ĐỖ ĐỨC MINH*, HỌC THUYẾT PHÁP TRỊ TRUNG HOA CỔ ĐẠI: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA ĐƯƠNG ĐẠI, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, 05[99]/2016, Trang 74-80
//tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/xemchitietbaibao?oid=28fb8018-b8de-4932-a9c9-fa3607f8381b
Đăng ký để tải miễn phí Đăng ký
Bài viết đã được lưu vài tài khoản.
×
Vui lòng vào mục "Quản lý tài khoản" -> "Bài viết đã lưu" để có xem tiếp ngay lần đăng nhập sau.
Trong lịch sử, học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại do Hàn Phi Tử
* TS Luật học, Ban Thanh tra và Pháp chế, Trường ĐH Quốc gia Hà Nội.
[1]Hàn Phi Tử là công tử nước Hàn, tức là con trai vua Hàn nhưng không phải là người được thừa kế ngôi vua. Xuất thân từ tầng lớp quý tộc nhưng ông ghét những quý tộc bảo thủ, trọng kẻ sĩ, có tinh thần cách mạng và yêu nước sâu sắc. Ông học rộng, biết cả đạo Nho, Lão, nhưng Hàn Phi Tử thích nhất học thuyết của Pháp gia.
1. Những giá trị của học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại
1.1. Một tư duy chính trị thực tế, hiệu quả
Bước vào thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc [770- 222trước Công nguyên], xã hội Trung Quốc trải qua những biến động vô cùng to lớn và phức tạp. Bức tranh toàn cảnh của xã hội Trung Quốc ở giai đoạn này là sự khủng hoảng về chính trị, xã hội và đạo đức.
Hiện thực xã hội nóng bỏng đương thời đã đặt ra những vấn đề mà các học thuyết phải quan tâm lý giải và đề xuất những giải pháp để vãn hồi trật tự. Vũ đài chính trị Trung Quốc đã lần lượt kiểm nghiệm vai trò của các học thuyết Vô vi, Kiêm ái, Đức trị để giải đáp yêu cầu của lịch sử. Tuy nhiên, do tính không tưởng, duy tâm nên những học thuyết này đều bất lực và không đáp ứng được yêu cầu của thời cuộc. Vào lúc tưởng chừng bế tắc đó, học thuyết pháp trị đã xuất hiện, đề xuất chủ trương chính trị lấy pháp luậtlàm công cụ chủ yếu. Cũng như nhiều đại biểu tư tưởng khác, Hàn Phi Tử phê phán gay gắt xã hội đương thời và đưa ra cách giải quyết thiết thực hơn cả. Ông cho rằng, phương pháp trị nước phù hợp và công hiệu nhất lúc này là phương pháp pháp trị, vì chỉ có pháp trị thì quyền lực mới được tập trung, quốc gia mới hưng thịnh, từ đó mới có thể thống nhất thiên hạ, chấm dứt loạn lạc. Với những quan điểm cho rằng: pháp luật không phụ thuộc vào ý chí con người và Thượng đế, pháp luật phải thay đổi để phù hợp với lịch sử, pháp trị của Hàn Phi Tử thực sự là luận thuyết chính trị có giá trị thực tế. Ông viết: “Thánh nhân không nhất định phải theo cổ, giữ luật lệ cũ mà phải xét việc đương thời rồi tùy nghi tìm biện pháp”.
Nhìn chung, những quan niệm do Hàn Phi Tử đưa ra trong học thuyết của mình đã đảo lộn các giá trị tinh thần của Nho giáo. Trong khi những học thuyết khác chỉ mải mê lý luận, duy lý cao siêu, xa rời những vấn đề cấp thiết thì chỉ có pháp trị không những đã đề cập vấn đề kinh tế, của cải vật chất - mà còn trực tiếp đứng ở bên trong vấn đề đó và giải quyết một cách hiệu quả. Với chủ trương quyền thế vạn năng, đề cao sức mạnh của nhà nước, các pháp gia yêu cầu kẻ thống trị phải nắm lấy quyền giết hại, khen thưởng. Có như vậy thuật mới được thực thi, pháp mới được tôn trọng. Cho rằng thưởng - phạt có tác dụng trực tiếp đến vấn đề lợi ích của con người, nên Hàn Phi Tử luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của nó và xem đó là công cụ vô giá trong việc trị nước. Với hệ thống cai trị như vậy, ông tin tưởng rằng: nếu biết giữ pháp luật và sử dụng quyền thế thì một ông vua không giỏi [chỉ là người trung bình
Ý nghĩa của pháp trị trước hết là ở những quan điểm chính trị - pháp luật thực tế, đề cao giá trị của các quy phạm pháp luật và đó là cơ sở lý luận quan trọng để làm thay đổi xã hội Trung Quốc. Lý thuyết đó vừa phản ánh sự vận động của xã hội Trung Quốc thời kỳ cổ đại, vừa chỉ được con đường tất yếu chính trị để đi đến một quốc gia Trung Quốc phong kiến thống nhất. Mặc dù còn yếu tố trực quan kinh nghiệm và nặng tính thực dụng, song về cơ bản, đó là lý luận có nhiều giá trị, hàm chứa tính khả hợp, khả dụng, khả thiđối với lịch sử đương thời và có khả năng phục vụ đắc lực chế độ phong kiến trung ương tập quyền.
1.2. Trị nước bằng pháp luật: yêu cầu khách quan của quản lý xã hội
Với chủ trương xác lập mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và người bị trị trên cơ sở pháp luật, các pháp gia đã chính thức cho chính trị thoát ly khỏi sự ràng buộc của đạo đức và pháp trị trở thành một dòng chảy độc lập trong sự phát triển của tư tưởng nhân loại. Kế thừa quan điểm của các pháp gia đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Hàn Phi Tử cho rằng, pháp luật được xem là thứ “phép công” điều khiển hành vi của mọi người. Xuyên suốt tác phẩm, bên cạnh việc chứng minh hiệu lực tối ưu của pháp luật bằng những câu chuyện sinh động, ông luôn nhắc nhở các quân vương rằng, cai trị dựa vào pháp luật thì thành công, không dựa vào pháp luật thì thất bại.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, sử dụng pháp luật để quản lý xã hội là phương thức phổ biến được nhiều nhà nước thực hiện để đảm bảo trật tự kỷ cương, duy trì hành vi hợp pháp và trừng trị, ngăn ngừa hành vi tiêu cực nguy hiểm cho xã hội. Ở đây, tư tưởng của Hàn Phi Tử đã không hẹn mà gặp các nhà tư tưởng lớn của thời đại. Socrate [470 - 399] - triết gia vĩ đại của Hy Lạp cổ đại cho rằng: “Bất cứ một đạo luật nào, mặc dù còn thiếu sót đến đâu, cũng mang tính cứu sinh hơn là tình trạng phạm pháp. Nếu như mọi công dân đều tuân thủ theo pháp luật, thì nhà nước mà trong đó họ đang sống sẽ trở nên hùng mạnh và phồn thịnh hơn nhiều”.
Để quản lý xã hội và đưa chính sách vào cuộc sống, các nhà nước đều sử dụng pháp luật như một công cụ sắc bén, hiệu nghiệm và không thể thay thế. Cai trị bằng pháp luật có ý nghĩa tất yếu khách quan bởi nó giúp cho bộ máy nhà nước vận hành một cách thuận lợi cũng như trong điều kiện xã hội còn tồn tại giai cấp, bất cứ quốc gia nào cũng không rời khỏi hình và pháp. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: trong các xã hội có giai cấp, sự tồn tại của nhà nước cùng với pháp luật và hệ thống công cụ bạo lực là tất yếu. Không có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội không được điều chỉnh bằng một ý chí thống nhất, không duy trì được trật tự kỷ cương.
1.3. Pháp luật công bằng: bước phát triển dân chủ ở phương Đông
Theo quan điểm của các pháp gia, mọi người đều được công bằng, bình đẳng trước pháp luật, không kể người đó thuộc tầng lớp, đẳng cấp nào. Pháp luật đã ban hành thì mọi người phải tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh, nếu vi phạm thì dù người đó là ai cũng bị trừng phạt. Pháp luật phải là của chung, vì lẽ phải và phục vụ lợi ích công nên mọi người trong xã hội đều bình đẳng, từ Thái tử đến hàng đại phu và mọi người dân đều phải tuân thủ pháp luật như nhau. Trong việc thưởng và phạt, pháp luật chỉ có một đối với tất cả mọi người. Trong việc thăng quan tiến chức, mọi người đều có cơ hội ngang nhau miễn là họ đáp ứng được những tiêu chuẩn cần thiết. Tư tưởng thực hiện pháp luật công bằng của pháp trị nhằm xóa bỏ đặc quyền đặc lợi của giai cấp quý tộc để đưa mọi người vào khuôn khổ pháp luật. Theo Hàn Phi Tử, công bằng nghĩa là đòi hỏi sự áp dụng pháp luật ngang nhau, không phân biệt kẻ hèn người giàu hay địa vị xã hội. Theo đó, pháp luật không thể a dua người sang, cũng như dây mục không thể uốn theo gỗ cong, cho nên trị tội không chừa quan lớn, thưởng công thì không bỏ sót dân thường.
Bình đẳng trước pháp luật được hiểu là sự ngang hàng, như nhau của mọi công dân trước mọi điều khoản được quy định trong pháp luật, trước việc thi hành và xử lý mọi vi phạm các điều khoản đó. Công bằng trên cơ sở mọi người bình đẳng trước pháp luật là sự phản ánh yêu cầu của pháp luật trong nhà nước pháp trị, là điểm tiến bộ của pháp trị so với chủ trương phân biệt đẳng cấp của Nho gia và là bước phát triển lớn trong quan niệm về dân chủ của phương Đông. Tuy nhiên, do xuất phát từ lợi ích giai cấp thống trị, nên nội hàm khái niệm công bằng của Hàn Phi Tử còn phiến diện và khác nhiều so với hiện nay bởi mới chỉ là quy định công bằng trong phục tùng nghĩa vụ giữa các thành viên trong xã hội, còn công bằng về quyền lợi chưa được đề cập. Các pháp gia cũng chỉ muốn công bằng mà không muốn tình thương, cho nên pháp luật chỉ chú trọng đến quyền lợi của nhà nước mà xem nhẹ quyền lợi của người dân. Các biện pháp chế tài cũng tuyệt đối hóa mặt trừng trị mà chưa nhìn thấy một chức năng quan trọng của pháp luật là giáo dục. Thật ra, thừa nhận mọi người đều bình đẳng trước pháp luật không có nghĩa là trong xã hội đã có sự bình đẳng thật sự. Có bình đẳng hay không là do bản chất của chế độ xã hội quy định và điều ấy được phản ánh trong nội dung pháp luật. Nếu nguyên tắc này được thực hiện thì cũng hạn chế bớt sự nhũng nhiễu tùy tiện của tầng lớp quan lại với nhân dân. Dù sao, tư tưởng mọi người bình đẳng trước pháp luật của pháp trị cũng là một bước tiến trên con đường đi tới bình đẳng hoàn toàn của nhân loại.
1.4. Nhận thức đúng đắn về quan hệ giữa yếu tố khách quan - chủ quan trong xây dựng và thực hiện pháp luật
Bàn về vai trò chức năng của pháp luật, các pháp gia khẳng định: pháp luật là vũ khí cai trị và là chỗ dựa duy nhất của nhà vua. Theo quan điểm pháp lý hiện đại, pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật. Vì vậy, sự hé mở này của tư duy pháp trị đã gần tiếp cận tính giai cấp của luật pháp. Điều này cũng có nghĩa là pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị, chịu ảnh hưởng sâu sắc lập trường, quan điểm của giai cấp mà nó đại diện. Tuy nhiên, nhận thức được yêu cầu của việc ban hành pháp luật là để bảo vệ các quan hệ xã hội, bảo vệ trật tự chính trị nhà nước và các hoạt động kinh tế cho nên trong khi khẳng định pháp luật là sản phẩm chủ quan, các pháp gia cũng chủ trương xây dựng một nền pháp luật có tính khách quan, không chỉ dựa vào ý chí chủ quan của giai cấp thống trị. Trong thi hành pháp luật, họ cũng yêu cầu các nhà cầm quyền không nên tùy tiện mà phải tôn trọng và tuân theo pháp luật. Thân Bất Hại
Kế thừa quan điểm về “pháp” và “biến pháp” của Thương Ưởng,
Là người tinh tế, Hàn Phi đã nhìn nhận lịch sử, nhà nước, pháp luật theo quan điểm duy vật. Tư duy của ông về việc dùng pháp luật để cai trị và quản lý xã hội có nội dung khá biện chứng. Một mặt, ông đòi hỏi về việc ban hành, pháp luật phải là thành văn, được công bố công khai, đơn giản, dễ hiểu. Mặt khác, ông khẳng định: pháp luật không phải là nhất thành bất biến mà nó phải được “chứng nghiệm” để thay đổi phù hợp với đổi thay của xã hội và theo diễn biến của thời đại. Pháp luật phải được xây dựng phù hợp với thực tiễn khách quan mới phát huy được vai trò, hiệu lực và hiệu quả quản lý xã hội.
Chủ trương xây dựng chính sách, pháp luật phải xuất phát từ điều kiện thực tế xã hội của học thuyết pháp trị là hoàn toàn hợp lý. Xét trong bối cảnh đương thời, khi tư tưởng đức trị đã trở thành chính thống và việc theo gương các vua nhân đức ngày xưa trở thành mẫu mực của đạo trị nước thì quan điểm trên đây của pháp trị thực sự mang tính cách mạng và đột phá cao. Trong vấn đề này, Hàn Phi Tử đã thực sự vượt lên lập trường của giai cấp quý tộc và gần với lý luận dân chủ hiện đại về pháp luật. K.Marx đã viết: “Trong thời đại nào cũng thế, chính vua chúa phải phục tùng những điều kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa lại ra lệnh cho những điều kiện kinh tế được. Chẳng qua chế độ lập pháp về chính trị cũng như về dân sự chỉ làm cái việc nói lên, ghi chép lại những yêu cầu của những quan hệ kinh tế mà thôi”.
2. Ý nghĩa đương đại từ thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại
Là học thuyết chính trị - pháp lý đồng thời là học thuyết quản lý xã hội tiêu biểu trong lịch sử, học thuyết pháp trị đã trở thành ngọn cờ tư tưởng của Trung Hoa thời cổ đại và nền tảng tư tưởng chế độ phong kiến phương Đông. Học thuyết này có ảnh hưởng lớn đến ý thức hệ, các định chế chính trị và chính sách phát triển kinh tế của Trung Quốc và các nước láng giềng. Học thuyết pháp trị Trung Hoa đã cung cấp nội lực cho văn hóa Trung Quốc tự cường, nó cũng chi phối mạnh văn hóa chính trị qua suốt thời trung cổ, cận đại và hiện nay.
Chủ trương dùng pháp luật làm công cụ trị nước của Hàn Phi Tử với những vấn đề chính yếu như: khẳng định tầm quan trọng của pháp luật, đề cao tinh thần bình đẳng trước pháp luật thực sự là tiến bộ lịch sử mà mãi sau này đến thời kỳ Khai sáng, phương Tây mới tiếp cận và vượt lên bởi các tên tuổi J. Locke, J,J. Rousseou, Montesquieu... Đặc biệt, tư tưởng kết hợp giữa quyền lực và luật pháp cùng với những nguyên tắc pháp lý cơ bản của học thuyết này đã đánh dấu bước phát triển quan trọng của tư duy pháp lý nhân loại và đóng góp đáng kể cho sự hình thành, phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử. Xét trong bối cảnh thời đại bấy giờ, học thuyết pháp trị đã đạt đến đỉnh cao tư tưởng về nhà nước và pháp luật, bởi đây là lần đầu tiên trong lịch sử, những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật được trình bày một cách tương đối toàn diện. Tư tưởng pháp trị có ý nghĩa hết sức lớn lao trong lịch sử nhà nước và pháp quyền phong kiến phương Đông và đối với lịch sử văn minh nhân loại, bước đầu tạo ra sự công khai hóa quyền lực và thực thi quyền lực, góp phần xóa đi sự thần bí của nhà vua và triều đình.
Với những giá trịkhoa học và thực tế, học thuyết pháp trị chứa đựng nhiều yếu tố phù hợp đối với thực tiễn pháp lý đương đại với những tư tưởng dùng pháp luật để quản lý xã hội và chấn hưng đất nước, tinh thần thượng tôn pháp luật, đề cao giá trị công bằng và tính nghiêm minh trong thi hành pháp luật. Nghiên cứu, tham chiếu học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại của Hàn Phi Tử không chỉ giúp chúng ta hiểu thêm lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý của các thời đại khác nhau, mà còn góp phần khẳng định yêu cầu khách quan của việc quản lý xã hội bằng pháp luật, tác dụng của pháp luật trong việc trị nước.
Trên phương diện lý luận - lịch sử nhà nước và pháp luật, học thuyết pháp trị đưa ra những nhận thức đúng đắn về vai trò, chức năng của pháp luật với những quan điểm và nguyên tắc pháp lý khoa học, tiến bộ về xây dựng và thực hiện pháp luật. Tinh thần pháp luật thể hiện rõ trong chủ trương đề cao pháp trị, pháp luật phải được xây dựng phù hợp với hiện thực cuộc sống, công bằng, minh bạch và thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu và lợi ích tối cao của toàn xã hội, pháp luật phải thực hiện nghiêm minh, bình đẳng, không a dua phụ họa, nể vì quyền quý. Cùng với đề cao vai trò của pháp luật, pháp trị cũng đề cao chính sách dụng nhân [dùng người theo tài năng] và đặt ra những yêu cầu về khảo sát, điều tra, kiểm tra, đánh giá, xử lý trong quản lý. Các pháp gia cũng phê phán tệ lũng đoạn quyền lực, chủ trương kêu gọi củng cố quyền lực từ phía nhà cai trị theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Ngoài ra, việc chú trọng đến nhu cầu thực tế, không chuộng nói suông là một đặc điểm quan trọng của tư tưởng pháp gia. Nhìn chung, địa vị chủ yếu và giá trị bao trùm của học thuyết pháp trị trước hết là đưa ra đường lối, quan điểm chính trị thực tế, thiết thực và thực dụng, đề cao giá trị của các quy phạm pháp luật trong quản lý xã hội.
Lý luận pháp trị cũng ảnh hưởng lớn đối với thực tiễn xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật trong chế độ phong kiến Việt Nam. Vì vậy, giải quyết đúng đắn về mặt nhận thức lý luận vấn đề ảnh hưởng của học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại đối với tư tưởng chính trị - pháp lý phong kiến Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ trên phương diện lịch sử và văn hóa, mà còn trên phương diện tổ chức đời sống xã hội Việt Nam hiện đại. Mặt khác, nhận thức giá trị và những ảnh hưởng của học thuyết chính trị - pháp lý Trung Hoa cổ đại đối với tư tưởng chính trị - pháp lý phong kiến Việt Nam còn giúp chúng ta đánh giá đúng đắn nguyên nhân của các vấn đề nảy sinh trong đời sống chính trị - pháp lý Việt Nam hiện đại và những phương hướng, giải pháp quan trọng để hoàn thiện nhà nước, pháp luật. Việc kế thừa, phát huy tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật và các nguyên tắc đảm bảo thực thi pháp luật nghiêm minh của học thuyết pháp trị sẽ góp phần khắc phục những hạn chế về tư duy và phương pháp quản lý xã hội truyền thống, xây dựng ý thức pháp luật, tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật.[18]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
©
Bài viết được đăng tải dưới sự cho phép của Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, mọi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến bài viết được bảo lưu. Chi tiết xin vui lòng liên email
Vui lòng đăng nhập tài khoản để tải miễn phí.
Gmail
Đăng ký
Quên mật khẩu?
Đặt mua
Bản giấy tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam
Bài viết liên quan trên
Google scholar
Trích dẫn bài viết qua
Google scholar Crossref
- Bài báo mới