5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam trong Cương lĩnh 1991

Cương lĩnh năm 1991. Ý nghĩa bài học với công việc

02/12/2015 Cảm tình Đảng 3 Comments

Câu 1: Đồng chí hãy trình bày 5 bài học lớn của cách mạng Việt nam được nêu trong Cương lĩnh năm 1991. Phân tích bài học mà đồng chí thấy tâm đắc nhất. Ý nghĩa của bài học này đối với công việc của đồng chí?

BÀI LÀM

Trải dài theo dòng lịch sử của nước nhà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một điều rằng cách mạng Việt Nam đã đi hết từ thắng lợi này cho tới thắng lợi khác, dưới sư lãnh đạo của Đảng, có cương lĩnh, có đường lối soi sáng chỉ đường, tạo ra những trận đánh lịch sử lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, tạo ra cuộc sống bình yên, ấm no và hạnh phúc cho toàn thể dân tộc ta và được trường tồn tới ngày nay và mãi mãi.

Nước đã đang bước vào giai đoạn hồi nhập nhập toàn cầu, cuộc sống ngày càng phát triển mạnh mẽ, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày càng lên cao, trước những xu thế mới đỏi hỏi Đảng ta phải có được cương lĩnh rõ ràng để chỉ lối cho những bến bờ hành phúc cho nhân dân, cho nhân loại, và cương lĩnh năm 1991 đã cho chúng ta thấy rõ được những yêu cầu mang tính cần thiết mà chúng ta phải thực hiện được để tô thêm những trang sử vàng cho sự thành công trong con đường hội nhập của đất nước.

Vậy 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam được nêu trong cương lĩnh năm 1991 được thể hiện như thế nào? chúng ta cũng nhau đi tìm hiểu:

Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm của nước ta, trong đó có 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, từ những kinh nghiệm thành công và cả những kinh nghiệm chưa thành công, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nêu ra được 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam:

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc trong đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.

Hai là, Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và tòan bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân.

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đòan kết, đòan kết toàn Đảng, đòan kết tòan dân, đòan kết dân tộc, đòan kết quốc tế.Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử lớn, lâu dài của dân tộc ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để giành thắng lợi.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực. Sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Để làm được điều đó, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt ra.

Thực chất thì bản thân tôi hoàn toàn tâm đắc tất cả các bài học ở trên, trong tôi qua mỗi bài học tự rút ra được cho mình những bài học quý báu, những kiến thức cẩn và đủ để có thể trở thành một đàng viên tốt, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, và đóng góp vào sự phát triển chung của Đảng, Nhà nước.

Từ cái nhìn khách quan và cụ thể nhất tôi cũng đưa ra được cho mình Bài học tâm đắc nhất đó là ở bài học lớn thứ hai :“Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

Có thể khẳng định một điều rằng: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để phát huy, nhân lên sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và tòan bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân

Tám mươi mốt năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, dân tộc ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vĩ đại trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa nhân dân thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than, giành độc lập cho đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám 1945, giải phóng miền Bắc, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách mạng nước ta bước sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục tiến hành cách mạng giải phóng ở miền Nam.

Trải qua 21 năm chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỉ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, non sông thu về một mối. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đánh dấu bước ngoặt quyết định cho dân tộc Việt Nam tiến vào kỉ nguyên mới- kỉ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.

Sau 30 năm chiến tranh giải phóng, cả nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một cuộc chiến đấu “khổng lồ” để loại bỏ những gì cũ kỹ lạc hậu, tạo ra những giá trị “mới mẻ, tốt tươi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh.

Trong buổi đầu cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ đổi mới, dân tộc ta phải đối diện với bao thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước và quốc tế. Đặc biệt vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp và tình hình đất nước gặp muôn vàn khó khăn, các thế lực thù địch không ngừng chống phá, nhưng với bản lĩnh kiên cường của một chính đảng cách mạng và khoa học, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định mục tiêu mà Đảng, nhân dân đã lựa chọn, giữ vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng gió, tiếp tục tiến lên, tiến hành công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đảng đã đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối cách mạng một cách đúng đắn, sáng tạo, bước đầu hình thành một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tế nước ta, kế thừa và phát huy giá trị văn hoá và bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của một quá trình trăn trở, tìm tòi, tổng kết, đổi mới tư duy lí luận, nhận thức đúng đắn hơn về thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng ngày càng trưởng thành và có thêm kinh nghiệm lãnh đạo nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới.

Xuyên suốt chặng đường hoạt động cách mạng 80 năm qua, trong các Cương lĩnh [từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, cương lĩnh năm 1991], hay trong mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều thể hiện rất rõ, Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh cho tự do độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.

Sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng cũng như những phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc mà Cương lĩnh 1991 của Đảng xác định đều toát lên vị trí, vai trò của nhân dân; đều nhằm giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, hướng tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mỗi cá nhân đều có điều kiện phát triển toàn diện; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân

Triển khai đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; quyền dân chủ chính trị của nhân dân được khơi dậy, tôn trọng và ngày càng đề cao. Chính sách xã hội thời kỳ đổi mới hướng vào phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội. Đặc biệt, đã tạo được những thành tựu lớn trong thực hiện chiến lược quốc gia xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Đồng thời, đã kết hợp tốt các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân, xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội cho các vùng, miền. Chính trị- xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại có những bước phát triển mới, đã tạo thêm môi trường thuận lợi để Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt hơn các chương trình, mục tiêu phát triển đất nước.

Qua gần 25 năm đổi mới, đất nước đã vượt qua thử thách hiểm nghèo, phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tất cả thực tiễn phong phú, sôi động, hào hùng của dân tộc ta trong 80 năm qua ngày càng khẳng định rõ hơn nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Đảng vừa tròn 30 tuổi:

“Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no”

Đảng ta thật là vĩ đại là bởi vì ”ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc Đảng ta không có lợi ích gì khác”

Đảng ta vĩ đại, trước hết chính vì Đảng tiêu biểu cho sức mạnh trí tuệ của giai cấp công nhân hiện đại, cho tiềm lực tinh thần truyền thống của dân tộc và tiếp thu được những tinh hoa của văn hoá nhân loại. Ngay từ khi thành lập, sức mạnh của Đảng nằm ngay trong ba yếu tố hợp thành của Đảng: chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, là tổ chức của những chiến sĩ ưu tú nhất của giai cấp công nhân và của toàn thể dân tộc.

Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, coi đó là điểm xuất phát của mọi đường lối, chủ trương của Đảng. Ngay Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng phản ánh đúng quy luật khách quan, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn, vạch ra được mục tiêu, phương hướng và giải pháp cơ bản của cách mạng. Từ đó tiến hành tập hợp, tổ chức, động viên toàn thể nhân dân biến đường lối của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng. Tinh thần cơ bản của bản Cương lĩnh ấy được phát triển, cụ thể hoá đáp ứng những nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và từng bước xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ngay sau khi giành được chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì”. Mục tiêu của Đảng là làm cho mọi người dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, được sống ấm no và sung sướng; mang lại quyền làm chủ về kinh tế, xã hội cũng là thước đo trình độ giải phóng xã hội, sự phát triển của xã hội.

Lịch sử tám mươi mốt năm xây dựng và phát triển của Đảng đã chứng tỏ, cội nguồn sức mạnh của Đảng không chỉ thể hiện ở chỗ mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát vì lợi ích của nhân dân mà còn thể hiện Đảng luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ và che chở. Liên hệ mật thiết với nhân dân đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của Đảng và cũng là cội nguồn sức mạnh của Đảng trong 81 năm qua. Chính từ thực tiễn cách mạng, Đảng đã nhận thức sâu sắc: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng đã tổ chức và phát huy được lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”.

Là một Đảng cách mạng vì nhân dân, trước hết, đường lối chính trị của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Lãnh tụ Hồ Chí Minh coi việc hoạch định đường lối chính sách của Đảng không chỉ là công việc của bản thân Đảng mà còn phải biết phát huy trí tuệ của toàn dân vào việc xây dựng đường lối của Đảng: “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”. “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta. Đảng không chỉ có đường lối chính trị xuất phát từ lợi ích chính đáng của quảng đại đa số nhân dân, mà còn thể hiện ở trong tổ chức của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa làm nên sức mạnh đoàn kết rất đáng tự hào của Đảng ta, đã tạo nên uy tín lãnh đạo của Đảng đối với toàn dân tộc; làm cho Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu mến, dân giúp đỡ, ủng hộ và bảo vệ.

Sức mạnh và uy tín của Đảng không chỉ ở đường lối chính trị với mục vì dân mà còn thể hiện ở đức hy sinh, sẵn sàng xả thân vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc của hàng triệu các thế hệ đảng viên trong sự nghiệp cách mạng, đặc biệt trong đấu tranh giành chính quyền cách mạng và trong đấu tranh giải phóng dân tộc.

Nhìn lại chặng đường đấu tranh đầy khó khăn, thử thách nhưng vô cùng oanh liệt của Đảng ta trong tám thập kỉ qua, chúng ta càng thấm thía bài học “lấy dân làm gốc”, trân trọng quá khứ, nâng niu giữ gìn những thành quả cách mạng của cách mạng, càng thấm thía và biết ơn vô hạn công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ đảng viên đó xả thân vì nền độc lập, thống nhất của đất nước, càng thêm tự hào về Đảng ta, nhân dân và dân tộc ta.

Khi tổng kết những kinh nghiệm quý sau 20 năm đổi mới, một trong những bài học quan trọng hàng đầu được Đại hội X của Đảng đúc kết là bài học “lấy dân làm gốc”: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công”

Ý nghĩa đối với bản thân –cương lĩnh năm 1991:

Là một sinh viên đang còn ngồi trên ghế nhà trường bản thân tôi cũng tự nhận thấy những kiến thức về Đường lối cách mạng Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh hay chủ nghĩa Mac –Lenin, là cái cốt lõi đưa cho tôi tới được với những quan điểm logic những ý nghĩa vô cũng to lớn về cách mạng, về sự nghiệp cách mạng của dân tộc và tôi biết sự nghiệp cách mạng là của dân tộc, là của nhân dân và vì nhân dân.

Tôi đã từng nghe:“Dân biết , dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”Và“Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”

Những câu nói bất hủ ấy mà làm tôi luôn hướng về nhân dân, tôi cũng có một suy nghĩ, một ham muốn là làm sao sau này mình sẽ có một phần đóng góp cho sự phát triển chung xã hội,cho sự nâng cao dân trí của người dân

Chuyên ngành tôi nghiên cứu là Giáo Dục Học và tôi ưa thích nó, tôi cũng có ý tưởng là tôi sẽ áp dụng nó vào quá trình làm việc của mình sau này đặc biệt là tham gia vào việc giáo dục những lý tưởng sống, những nhiệm vụ học tập cần thiết, những yêu cầu từ thực tiễn, chống lại những sự cổ hủ lạc hậu. sẽ tới từng nhà, dà từng đối tượng, bản thân giáo dục là quốc sách hàng đầu là việc quan trọng bậc nhất để đưa sự phát triển của đất nước đi lên, dân trí có tăng lên thì đới sống, cũng như suy nghĩ của nhân dân mới tích cực.

Bản thân tôi cũng đang phấn đấu học tốt, để đem tri thức của bản thân để phục vụ toàn dân, vì lợi ích mười năm trồng cây và vì lợi ích trăm năm trồng người,tôi hi vọng trên con đò của tôi trở sẽ được thành công như những tư tưởng lớn của người đem theo hành trang của một Đảng viên trẻ tôi sẽ cố gắng nhiệt huyết đi cùng nhân dân, chia sẻ, tâm sự và thảo luận những nỗi niềm của họ, vì một đất nước phồn vinh và hạnh phúc.

Share
  • Facebook
  • Twitter
  • Google +
  • LinkedIn

Nội dung cơ bản của cương lĩnh xây dựng Đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và một số điểm mới bổ sung trong cương lĩnh năm 2011

03:56 06/08/2021

Nhận thức đúng và đầy đủ nội dung cơ bản của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và những điểm mới bổ sung trong Cương lĩnh năm 2011 vừa là yêu cầu, vừa là điều kiện để thống nhất ý chí và hành động trong toàn bộ hệ thống chính trị, toàn Đảng và toàn dân trong sự nghiệp cách mạng hiện nay.

ThS. Vũ Quang Hưng

Giảng viên Khoa Nhà nước và Pháp luật

1. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [năm 1991]

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Trên cơ sở những thành tựu đổi mới từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII [tháng 6/1991] đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991]. Đây là văn kiện quan trọng mang tầm định hướng chiến lược.

1.1. Quá trình cách mạng và những đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xã hội

Cương lĩnh đã tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, phân tích hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau, nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hoá sâu sắc; bên cạnh đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Ở một số nước, đảng cộng sản và công nhân không còn nắm vai trò lãnh đạo. Bối cảnh quốc tế đó, vừa tạo cơ hội; vừa có nhiều thách thức đã ảnh hưởng đến Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thuận lợi, cơ hội phát triển và nhiều khó khăn, thách thức, cản trở.

Kế thừa và phát triển những quan điểm của Đảng qua các kỳ đại hội, đặc biệt là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Cương lĩnh năm 1991 đã nêu ra một số dấu hiệu đặc trưng, cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội:

- Do nhân dân lao động làm chủ.

- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

- Có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân với tất cả các nước trên thế giới.

Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

1.2. Cương lĩnh năm 1991 đã đề ra mục tiêu tổng quát và những phương hướng chủ yếu trong thời kỳ quá độ

- Mục tiêu tổng quátphải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường.Mục tiêu của chặng đường đầu là:thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.

- Một số phương hướng phát triển:

Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.

Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, với sự đa dạng về hình thức sở hữu.

Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.

Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 bước đầu đã vẽ ra toàn bộ bức tranh của xã hội tương lai, mặc dù chưa hoàn chỉnh, nhưng Đảng ta đã vạch ra những nguyên tắc, phương hướng lớn cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quá độ là một thời kỳ lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ và thách thức to lớn, những quan điểm, định hướng phát triển cần được tiếp tục hoàn thiện từ thực tiễn. Cương lĩnh sẽ không ngừng được bổ sung và hoàn chỉnh từng bước phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

2. Một số điểm mới của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011]

Từ thực tiễn có nhiều thay đổi về bối cảnh thế giới và trình độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tháng 01/2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011]. Sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011.

2.1. Quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm

- Về quá trình cách mạng Việt Nam

Cương lĩnh năm 2011 nêu khái quát những thắng lợi vĩ đại đã đạt được trong hơn 80 năm qua [1930 – 2010], khẳng định những thắng lợi vĩ đại và những thành quả từ thắng lợi vĩ đại đó mang lại.

- Về những bài học kinh nghiệm lớn

Cương lĩnh năm 2011 cơ bản giữ nguyên 5 bài học như Cương lĩnh năm 1991, có một số bổ sung, phát triển:

Bổ sung vấn đề “tham nhũng” vào nội dung bài học thứ hai “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”. [Nghị quyết Trung ương 3 khoá XI đã xác định đây là một nội dung trong ba vấn đề cấp bách hiện nay].

Bổ sung từ “quyết định” cho đúng với thực tế ở bài học thứ năm: “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam” chứ không chỉ là “nhân tố hàng đầu bảo đảm” như trong Cương lĩnh năm 1991.

2.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

- Về bối cảnh quốc tế: Đây là nội dung có nhiều điểm bổ sung, phát triển mới, do bối cảnh thế giới đã thay đổi so với thời điểm Đảng ta ban hành Cương lĩnh năm 1991. Kế thừa những dự báo về tình hình thế giới từ Đại hội Đảng khóa X đã được thực tế khẳng định tính đúng đắn của các dự báo đó, Cương lĩnh năm 2011 viết gọn hơn theo hướng không đi sâu vào những vấn đề thế giới không liên quan trực tiếp đến nước ta, nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Với tinh thần đó, Cương lĩnh năm 2011đã đưa ra 6 nhận định tình hình thế giới và dự báo trong vài thập kỷ tới:

Một, về đặc điểm, xu thế chung: Cương lĩnh năm 2011 nhận định: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ biển đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp.

Hai, nhận định, đánh giá về chủ nghĩa xã hội: Cương lĩnh năm 2011 đưa ra ba nhận định rất cơ bản: Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là một tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước hồi phục.

Các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.

Ba, nhận định, đánh giá về chủ nghĩa tư bản: Cương lĩnh năm 1991 nhận định “Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển kinh tế”. Thực tế 2 thập kỷ qua và dự báo tới đây chủ nghĩa tư bản không chỉ còn tiềm năng phát triển kinh tế, mà đang phát triển và phát triển không chỉ về kinh tế, mà còn phát triển các lĩnh vực khác, như giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh và có những điều chỉnh cả về xã hội, nhưng bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Do đó, Cương lĩnh năm 2011 đã nhận định, đánh giá đúng mức hơn về chủ nghĩa tư bản: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”. Cương lĩnh năm 2011 bổ sung nhận định “khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”.

Bốn, nhận định về các nước đang phát triển, kém phát triển: Cương lĩnh năm 2011 viết theo hướng chặt chẽ hơn, chính xác hơn với tình hình thực tế: “Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc”.

Năm, nhận định về những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh loài người: Kế thừa Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung hai vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người là “chống khủng bố” và “ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu”, thay đổi từ “bệnh tật” thành từ “dịch bệnh”.

Sáu, nhận định về đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại: Cương lĩnh năm 2011 xác định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. [Cương lĩnh năm 1991 xác định: Loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử].

- Về mục tiêu tổng quát. Cương lĩnh năm 2011 đã nêu khái khát hơn các đặc trưng của xã hội XHCN. Cụ thể: Bổ sung thêm 2 đặc trưng “dân chủ, công bằng” vào mục tiêu tổng quát là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Điểm mới của Cương lĩnh năm 2011 so với văn kiện Đại hội Đảng khóa X là chuyển từ “dân chủ" lên trước từ “công bằng” trong mục tiêu tổng quát. Bởi vì, cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ dân chủ là điều kiện, tiền đề của công bằng, văn minh; đồng thời, để nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh.

Điều chỉnh một số cụm từ trong đặc trưng của xã hội XHCN cho đúng thực tế như “do nhân dân làm chủ” thay thế cho “do nhân dân lao động làm chủ”; bổ sung cụm từ “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” thay thế cho “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”; bổ sung từ “pháp quyền” vào sau từ “nhà nước”, thêm nội dung “do Đảng Cộng sản lãnh đạo” vào sau cụm từ “nhà nước pháp quyền”.

Như vậy, Cương lĩnh năm 2011 đã nêu:Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới."

Tóm lại, hiện nay, khi đánh giá thành tựu 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh [bổ sung, phát triển năm 2011], Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tháng 01 năm 2021 đã tiếp tục khẳng định:“đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo.”

Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cơ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trên đây là một số nội dung nghiên cứu lý luận nhằm nắm rõ, hiểu đúng những thắng lợi vĩ đại và những thành quả cách mạng to lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta, nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đạt được. Thành quả cách mạng đổi mới đó đã góp phần củng cố niềm tin, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, nâng cao nhận thức lý luận, quyết tâm cách mạng, phấn đấu đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, tạo tiền đề vật đưa đất nước ta vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội./.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [năm 1991].

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011].

4. TS. Nguyễn Đình Hòa - Viện Triết học, Viện KHXH VN: Về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội qua Cương lĩnh 1991 và Cương lĩnh 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam.

5. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991.

6. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: Những bổ sung, phát triển chủ yếu về Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Bài 10: Năm bài học vẹn nguyên giá trị thời đại

Nguyễn Ngọc Toán[Viện Lịch sử quân sự Việt Nam]
Đánh giá tác giả:
06:25 thứ ba ngày 28/01/2020
Tăng kích thước font chữ Giảm kích thước font chữ In bài viết Gửi bài viết
Bài 11: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay Bài 9: Kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa

[HNM] - Cách đây 90 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Từ thực tiễn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam để lại năm bài học kinh nghiệm quý báu và vẹn nguyên giá trị thời đại.

Một là: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Đây là bài học có tính nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, nhất quán trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam. Bởi trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng [1930] cũng như trong nhiều văn kiện của Đảng sau này, vấn đề độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ, liên tục và dứt khoát. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [1991], nêu rõ: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”.

Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011] tiếp tục khẳng định: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau”. Khi nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như hạn chế, khuyết điểm, Đại hội XII [2016] đã rút ra một số bài học, trong đó tiếp tục nhấn mạnh bài học kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới.

Như vậy, con đường duy nhất đúng để đất nước phát triển bền vững là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự kiên định và sáng tạo của Đảng, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Hai là: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng vĩ đại là ở nơi Đảng biết tìm thấy sức mạnh từ trong nhân dân, vì nhân dân mà làm việc, cống hiến”. Chính vì vậy, Người căn dặn: “Việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh”. Trong suốt 90 năm lãnh đạo cách mạng, dù trong bất luận hoàn cảnh nào, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng luôn coi sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Do đó, Đảng đã huy động được sức mạnh của toàn dân vào thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ và nhân dân đã dành cho Đảng niềm tin yêu tuyệt đối.

Sở dĩ Đảng chiếm trọn lòng tin của nhân dân vì “ý Đảng” luôn hợp với “lòng dân”. Đảng đã giương cao ngọn cờ tranh đấu vì độc lập, tự do và hòa bình cho Tổ quốc, vì quyền sống và hạnh phúc cho nhân dân. Nhân dân tin yêu, đi theo Đảng bởi “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Chính niềm tin ấy đã mang lại sức mạnh to lớn cho những lời hiệu triệu của Đảng, mang lại hiệu quả thực tế từ những chủ trương, đường lối của Đảng trong suốt 90 năm qua. Điều này hoàn toàn đúng với khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương lần thứ sáu [khóa XII]: “Cần khẳng định, ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.

Ba là: Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết

Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công. Chính nhờ sức mạnh đoàn kết trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Từ năm 1986 đến nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết nhằm tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết, tiêu biểu như Nghị quyết số 08B-NQ/HNTƯ, ngày 27-3-1990 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khóa VI] “Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”; Nghị quyết 07-NQ/TƯ, ngày 17-11-1993 của Bộ Chính trị [khóa VII] “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”; Nghị quyết 23-NQ/TƯ, ngày 12-3-2003 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khóa IX] “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”... Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII [2016] của Đảng khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...

Chính từ việc đề ra những chủ trương, đường lối nhằm không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua mọi gian lao thử thách, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước vững bước tiến lên.

Bốn là: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế

Trong cách mạng giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã phát huy tối đa sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời đại, kết hợp chúng một cách hiệu quả với sức mạnh dân tộc để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp nó với sức mạnh của thời đại, phát huy những lợi thế của đất nước, tiếp thu và sử dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đạt được thành tựu nổi bật.

Từ thực tiễn đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng [2011] đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, rút ra những kinh nghiệm lớn, trong đó có bài học: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế”. Đây là bài học đặc biệt quan trọng, là vấn đề chiến lược, quyết định thành bại của sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

Trong tình hình hiện nay, hơn lúc nào hết, Đảng cần kế thừa thành tựu, kinh nghiệm lãnh đạo của giai đoạn trước đó; đồng thời bám sát yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ, lợi ích của quốc gia dân tộc và các xu thế vận động của thế giới đang đổi thay để bảo đảm cho Việt Nam có được sức mạnh tổng hợp to lớn nhất, vững bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Năm là: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Thực tiễn phong phú của cách mạng trong suốt 90 năm từ khi có Đảng là chứng minh hùng hồn cho luận điểm trên; làm nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, với sự tin cậy của nhân dân. Qua đó khẳng định chân lý, ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc. Biểu hiện rõ nét là từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua ngưỡng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đời sống nhân dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao.

Với kết quả đạt được, nhiều tổ chức quốc tế đánh giá Việt Nam là một quốc gia kinh tế - văn hóa phát triển, chính trị - xã hội ổn định, có nhiều triển vọng phát triển tốt; là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới, các thị trường lớn như tiền tệ, chứng khoán và bất động sản đều hoạt động ổn định, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng là dịp đặc biệt quan trọng để nhìn lại những thành tựu đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng là tổng kết những kinh nghiệm để vận dụng cho tương lai. Bởi trước bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực và trong nước luôn có những diễn biến phức tạp và khó lường, những bài học kinh nghiệm được đúc kết qua chín thập kỷ là những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần được vận dụng sáng tạo vào xây dựng, phát triển một nước Việt Nam hùng cường, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ mong đợi lúc sinh thời!

[Còn nữa]

Bài 10: Năm bài học vẹn nguyên giá trị thời đại Đóng Tự trình chiếu Dừng trình chiếu
Tin liên quan Bài 11: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay

[HNM] - Công tác tư tưởng là cầu nối giữa nhận thức và hành động vì sự tồn tại xã hội, phát triển lịch sử. Nếu không có …

Tin liên quan Bài 9: Kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa

[HNM] - Hơn 30 năm qua, Đảng ta kiên định mục tiêu đổi mới - phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, được bổ sung và phát triển qua các …

Chia sẻ Facebook Chia sẻ Google Plus Chia sẻ Twitter Chia sẻ Zalo Tới khu vực bình luận In bài viết Gửi bài viết
Từ khóa: Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội

Video liên quan

Chủ Đề