10 bài hát hàng đầu của thập niên 1960 năm 2022

Bài : Tuấn Khanh

Show

Nội dung chính Show

  • Công cụ nóng của Donna Summer ..
  • 100 bài hát được chơi nhiều nhất là gì?
  • 100: Roger Miller - King of the Road (1965)
  • 99: Georgie Fame & The Blue Flames - Yeh, Yeh (1964)
  • 98: Jackie Wilson - (Tình yêu của bạn luôn nâng tôi lên) ngày càng cao hơn (1967)
  • 97: Roy Orbison - Khóc (1961)
  • 96: Russell Morris - The Real Thing (1969)
  • 95: Leonard Cohen - Suzanne (1967)
  • 94: Louis Armstrong - Thật là một thế giới tuyệt vời (1968)
  • 93: Tom Jones - Nó không phải là bất thường (1965)
  • 92: The Monkees - Daydream Believer (1967)
  • 91: Del Shannon - Runaway (1961)
  • 90: Peggy Lee - Có phải tất cả có? (1969)
  • 89: Táo bạc - Dao động (1968)
  • 88: Anh em chính nghĩa - Melody Unchained (1965)
  • 87: Hội thảo X quang BBC - Doctor Who (1963)
  • 86: Sly and the Family Stone - Người hàng ngày (1968)
  • 85: Bee Gees - Yêu ai đó (1967)
  • 84: Dusty Springfield - Con trai của một người thuyết giáo (1968)
  • 83: Bembeya Jazz National - Armée Guinéenne (1969)
  • 82: Elvis Presley - Tâm trí đáng ngờ (1969)
  • 81: Mulatu Astatke - Yègellé Tezeta (1969)
  • 80: Françoise Hardy - Tous Les Garcons et Les Filles (1962)
  • 79: Sonny & Cher - I Got You Babe (1965)
  • 78: Terry Riley - trong C (1968)
  • 77: Bộ ba Vince Guaraldi - Linus & Lucy (1964)
  • 76: Stevie Wonder - Uptight (Mọi thứ đều ổn) (1965)
  • 75: Ray Barretto - El Watusi (1962)
  • 74: The Drifters - dưới Boardwalk (1964)
  • 73: Irma Thomas - Thời gian đứng về phía tôi (1964)
  • 72: The Cannonball Adderley Quintet - Mercy, Mercy, Mercy (1966)
  • 71: Merle Haggard - Mama đã thử (1968)
  • 70: Van Morrison - Cô gái mắt nâu (1967)
  • 69: Gal Costa - Baby (1969)
  • 68: Kinks - Bạn thực sự có tôi (1964)
  • 67: Bobbie Gentry - Ode to Billie Joe (1967)
  • 66: Bộ ba Ramsey Lewis - Đám đông trong đám đông
  • 65: Kingsmen - Louie Louie (1963)
  • 64: Wendy Carlos-Phát minh hai phần trong F Major
  • 63: Joe Bataan - Subway Joe (1968)
  • 62: Simon & Garfunkel – The Sound Of Silence (1965)
  • 61: Babatunde Olatunji – Jin-Go-Lo-Ba (1960)
  • 60: The Zombies – Time of the Season
  • 59: The Velvet Underground – I’m Waiting For The Man (1967)
  • 58: Etta James - cuối cùng (1960)
  • 57: Steppenwolf - Sinh ra là Wild (1968)
  • 56: Ban nhạc - Trọng lượng (1968)
  • 55: Stan Getz & João Gilberto Feat. Antonio Carlos Jobim - Cô gái từ Ipanema (1964)
  • 54: Patsy Cline - Crazy (1961)
  • 53: Jane Birkin và Serge Gainsbourg - Je T hèaime, Moi Non Plus
  • 52: Celia Cruz - Bemba Colorá (1966)
  • 51: David Bowie - Không gian Oddity (1969)
  • 50: Ennio Morricone - The Good, The Bad & The Ugly (Chủ đề chính) (1966)
  • 49: Johnny Cash - Ring of Fire (1963)
  • 48: Hugh Masekela - Chăn thả trên cỏ (1968)
  • 47: Loretta Lynn - Thành phố nắm tay (1968)
  • 46: Phép lạ - Bản nhạc của nước mắt tôi (1965)
  • 45: Gilberto Gil - Aquele Abraço (1969)
  • 44: The Byrds - Cao tám dặm (1966)
  • 43: Miriam Makeba - Pata Pata (1967)
  • 42: Shangri-Las-Lãnh đạo của The Pack (1964)
  • 41: Tammy Wynette - Stand By Your Man (1969)
  • 40: Desmond Dekker & The Aces - Israel (1968)
  • 39: Glen Campbell - Lineman Wichita (1968)
  • 38: Kem - Sunshine of Your Love (1967)
  • 37: Isaac Hayes - Đi bộ trên (1969)
  • 36: Buffalo Springfield - Vì những gì nó có giá trị (1966)
  • 35: Jorge Ben - Mas, Que Nada! (1963)
  • 34: Cửa ra vào - Light My Fire (1967)
  • 33: Booker T. và MG, hành lá (1962)
  • 32: Caetano Veloso - Tropicália (1968)
  • 31: Big Brother & The Holding Company – Piece of My Heart (1967)
  • 30: The Jackson 5 – I Want You Back (1969)
  • 29: The Mamas & The Papas – California Dreamin’ (1965)
  • 28: Nancy Sinatra – These Boots Are Made For Walkin’ (1965)
  • 27: Frankie Valli - Có thể rời mắt khỏi bạn (1967)
  • 26: Pete Rodriguez - Tôi thích nó như vậy (1967)
  • 25: Toots và Maytals-54-46 đó là số của tôi (1968)
  • 24: The Supreme - Bạn có thể vội vàng tình yêu (1966)
  • 23: Frank Sinatra - Con đường của tôi (1969)
  • 22: Sam Cooke - Một sự thay đổi sẽ đến (1964)
  • 21: Alton Ellis - Tôi vẫn còn yêu bạn (1967)
  • 20: Ike & Tina Turner - River Deep Mountain High (1966)
  • 19: Creedence Clearwater Revival - Con trai may mắn (1969)
  • 18: Máy bay Jefferson - Thỏ trắng (1967)
  • 17: Neil Diamond - Sweet Caroline (1969)
  • 16: Ray Charles - Georgia trong tâm trí tôi (1960)
  • 15: Jimi Hendrix - Tất cả dọc theo Tháp Canh (1968)
  • 14: Marvin Gaye - Tôi đã nghe nó qua The Grapevine (1968)
  • 13: Os Mutantes - A Minha Menina (1968)
  • 12: Martha và Vandellas - Nhảy múa trên đường phố (1964)
  • 13: Os Mutantes - A Minha Menina (1968)
  • 13: Os Mutantes - A Minha Menina (1968)
  • 09: The Ronettes - Be My Baby (1963)
  • 08: Những cám dỗ - cô gái của tôi (1965)
  • 07: James Brown - I Got You (Tôi cảm thấy tốt) (1965)
  • 06: Bob Dylan - Giống như một viên đá lăn (1965)
  • 05: Aretha Franklin - (bạn làm cho tôi cảm thấy như) một người phụ nữ tự nhiên (1967)
  • 04: The Rolling Stones - (Tôi có thể nhận được không) sự hài lòng (1965)
  • 03: The Beach Boys - Good Rung động (1966)
  • 03: The Beach Boys - Good Rung động (1966)
  • 03: The Beach Boys - Good Rung động (1966)
  • Bài hát hit lớn nhất của thập niên 1960 là gì?
  • Bài hát được nghe nhiều nhất trong những năm 70 là gì?
  • 100 bài hát được chơi nhiều nhất là gì?
  • Ai có 40 lượt truy cập hàng đầu trong những năm 1960?

Hình : Internet

Miền Nam, với những ai yêu dòng nhạc bolero, chắc không thể quên được cái tên Đài Phương Trang, người nhạc sĩ lừnh danh với những ca khúc lừng danh như Hai Mùa Noel, Hoa Mười Giờ, Trái Tim Sỏi Đá, Người Yêu Cô Đơn… Mùa xuân 2015 này cũng là dịp đánh dấu nửa thế kỷ của một người viết những bản tình ca Sài Gòn, viết lại những những câu chuyện đô thị đã là ký ức và nỗi niềm của nhiều thế hệ.

10 bài hát hàng đầu của thập niên 1960 năm 2022

Nhạc sĩ Đài Phương Trang

Người dạy sử viết nhạc tình

Khi có dịp đối diện với nhạc sĩ Đài Phương Trang, nhiều khán giả đã bất ngờ với dáng vẻ hiền lành và nhỏ nhẹ của ông. Những bài hát tình yêu lâm ly bi đát của ông đã từng làm rung động các thế hệ yêu âm nhạc ở thập niên 60, 70… dường như không có chút gì gần gũi với phong cách của ông, khiến ai cũng dễ dàng ngỡ ngàng thốt lên “Ô, tác giả của Người Yêu Cô Đơn đây sao?”

Không giống với các nhạc sĩ cùng thời khi chọn âm nhạc như là một sự nghiệp chính, chàng thanh niên Phạm Văn Tứ (tên thật của nhạc sĩ Đài Phương Trang) lại chọn nghề thầy giáo môn học Việt Sử là sự nghiệp chính. Âm nhạc đến với anh thanh niên mê sáng tác này như một sở thích không có chủ đích, nhưng rồi lại bất ngờ làm nên tên tuổi của anh từ giữa thập niên 60.

Thời còn đi dạy học ở trường trung học cộng đồng Phú Định, (quận 6 ngày nay), ít ai tin rằng người thầy giáo có vẻ rất nghiêm nghị ấy, lại là tác giả của những bài hát mà các cô nữ sinh trong trường cứ chuyền tay nhau chép lời vài nghêu ngao trong sân trường. Ai hỏi thăm, ông chỉ cười cười, không nhận cũng không chối đó là những tác phẩm của mình. Thậm chí, khi biết chính ông là tác giả của các bài hát tình yêu thịnh hành đó, các đồng nghiệp cũng phải trợn mắt vì không tin nổi. Trong suy nghĩ của nhiều người, nghệ sĩ phải là một dạng người phong lưu hoặc rất giang hồ, chứ đâu lại có kiểu như nhạc sĩ Đài Phương Trang vậy.

Âm nhạc đến với nhạc sĩ Đài Phương Trang thật tình cờ. Thời thiếu niên lúc đang học lớp 5, ông luôn bị hấp dẫn bởi một người hàng xóm hay chơi đàn mandolin. Mỗi khi đi làm về, người đàn ông đó lại ngồi trước cửa nhà dạo lên những khúc nhạc réo rắt mà có lúc nghe sao thật vui tươi, nhưng có lúc nghe sao lại buồn bã lạ kỳ. Tâm hồn của một thiếu niên mới lớn bị lay động bởi những điều xao xuyến khó tả. Chú Mành, tên của người đàn ông đó, cũng chú ý đến thằng bé hàng xóm hay đứng ở cửa nhìn vào, im lặng nghe hàng giờ không biết chán. Rồi một ngày, chú Mành dừng tay đàn, ngoắc thằng nhỏ vô, hỏi là có thích học madolin không, thì “về xin tiền má để mua một cây đờn, qua đây chú dạy”. Điều đơn sơ đó đã dắt tay nhạc sĩ Đài Phương Trang vào lâu đài của bolero, từ đó về sau. Cho tới giờ này, khi thấy ai ôm cây đàn nhỏ dây đôi đó, những ký ức đẹp nhất lại hiện về trong trí nhớ của ông.

Đến năm học đệ thất, tức đến lớp 6 hiện nay, nhạc sĩ Đài Phương Trang chuyển trường, và lại may mắn được học với thầy dạy nhạc Trần Anh Tuấn, vốn cũng đang là thầy giáo của trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ. Âm nhạc với nhạc sĩ Đài Phương Trang lại được dịp nâng cao và chuyên nghiệp hơn. Ít lâu sau, ông lại học thêm guitar. Đến năm lớp 11, nhạc sĩ Đài Phương Trang đã là một người chơi đàn hấp dẫn trong lớp, khiến nhiều bạn trai cùng lứa phải ghen tị, còn các bạn gái thì đi ngang phải liếc mắt nhìn.

Vang danh trong bóng tối

Năm 1966 là năm tác phẩm của nhạc sĩ Đài Phương Trang ra mắt, nhưng thực tế, ông bắt đầu viết nhạc từ năm 1965. Nhắc lại, nhạc sĩ Đài Phương Trang vẫn còn nhớ kỷ niệm này, khi ông ra mắt tác phẩm viết chung với nhạc sĩ Anh Thy (tác giả ca khúc Hoa Biển) có tên là Bốn Màu Áo, bút danh khởi đầu là Thanh Viên.

Do không quen biết ai trong giới sản xuất, những sáng tác của ông cứ nằm trong ngăn kéo. Người khán giả thưởng thức đầu tiên các bài hát đó không ai khác hơn là người vợ trẻ của ông. Rồi khi được cả gia đình khuyến khích, nhạc sĩ Đài Phương Trang tìm cách tiếp cận các hãng đĩa, mong giới thiệu các tác phẩm của mình. Chọn một ngày nghỉ, ông cưỡi chiếc mobylette của mình đi đến trung tâm Sài Gòn, kêu ly cà phê ở quán Kim Sơn ở đường Lê Lợi để quan sát tình hình. Ngày đó, quán Kim Sơn rất nổi tiếng vì là nơi hẹn gặp nhau của danh nhân tài tử văn nghệ như nhạc sĩ Mặc Thế Nhân, Hoàng Trang, Anh Việt Thu, Thanh Sơn… hơn nữa, cạnh đó lại có nhà phát hành nhạc bản Minh Phát rất có tiếng.

Tính tình rụt rè, nên nhạc sĩ Đài Phương Trang cũng không biết bắt đầu từ đâu. May sao, khi nhìn thấy nhạc sĩ Anh Thy ngồi đối diện đang soạn lại những bài nhạc, nhạc sĩ Đài Phương Trang bèn lân la hỏi thăm. Cuộc trò chuyện ngẫu nhiên đó, dẫn đến một tình bạn giữa hai người nhạc sĩ, khiến một ngày nọ, nhạc sĩ Anh Thy bèn đề nghị hai người cùng viết chung một bài hát làm kỷ niệm. Vậy là bài hát Bốn Màu Áo ra đời từ đó với ca sĩ Carol Kim là người trình bày đầu tiên. Ngay lập tức, tác phẩm này được khán giả đón nhận nồng nhiệt.

Nhạc sĩ Đài Phương Trang kể rằng đó là một kỷ niệm không thể quên. Khi cầm 10 ngàn đồng phát hành băng nhạc và nhạc bản đầu tiên, ông chưa thể tin nổi rằng mình làm ra nhiều tiền như vậy. Thời đó, 12 ngàn đồng đã có thể mua được chiếc Honda đỏ đời đầu, một gia sản với nghề thầy giáo trung học. Khi cầm trọn số tiền làm ra về đưa cho vợ, ông được vợ “thưởng” lại bằng cách trích số tiền đó để mua cho ông chiếc đồng hồ đeo tay Seiko-5, tức kiểu đồng hồ thời trang thịnh hành nhất của thập niên 60.

Giới nhạc sĩ bắt đầu tò mò về tay tác giả mới có những bài hát ăn khách, không thấy mặt mũi đâu nhưng lại có nhiều bút danh như Thanh Viên, Phạm Vũ Anh Tứ… Cũng nhờ việc tò mò đi tìm hiểu mà nhạc sĩ Ngọc Sơn (sinh năm 1934, tác giả Nét Son Buồn, Nếu Mình Còn Yêu Nhau…) mới phát hiện ra Đài Phương Trang, chính là người cháu họ của mình, cũng đang bước vào con đường âm nhạc.

Nhạc sĩ Đài Phương Trang kể rằng những khi ngồi ở hàng quán, nghe người ta bàn tán hoặc đi trên đường nghe phố phường vang lên những bài hát của mình, ông chỉ biết thầm mỉm cười. Niềm hạnh phúc âm thầm được công chúng đón nhận là điều khích lệ ông đi qua hơn nửa đời người với âm nhạc. Do bản tính dè dặt, đôi khi dù được hỏi, nhạc sĩ Đài Phương Trang cũng ít khoe khoang đó là những thành công của mình. Đó cũng là lý do vì sao, về sau này, người ta tìm thấy Đài Phương Trang có nhiều bài hát viết chung với nhạc sĩ Ngọc Sơn (như các bài hát Có Những Đêm Buồn, Màu Tím Pensée, Hoa Mười Giờ…) thật ra ông giao phó các bài hát của mình cho người chú lo việc ra ngoài thương thảo với các nhà sản xuất và in ấn rồi để tên chung, còn mình thì chỉ đi dạy rồi về nhà cắm cúi sáng tác.

Năm 1968, khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông gặp mặt chàng nhạc sĩ trẻ Đài Phương Trang, ông hết sức ngạc nhiên vì đã nghe rất nhiều bài trên đài phát thanh mà nay mới biết mặt. Lúc đó, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đang là giám đốc của nhiều hãng đĩa nhạc và nhà in như Continental, Ngày Xanh, Sơn Ca… nên đã lập tức mời Đài Phương Trang cùng cộng tác gửi bài. Tác phẩm đầu tiên nổi lên từ sự cộng tác này, như bài Biết Ai Tâm Sự với tiếng hát ca sĩ Kim Loan, ngay lập tức cũng trở thành hit trên thị trường và đài phát thanh lúc bấy giờ.

Hạnh phúc của người sáng tác không đơn thuần là đứng trên sân khấu để người ta biết mình. Những ngày mà các bài hát của ông trở thành hit trên làn sóng phát thanh chiều. Cả gia đình dọn cơm rồi cùng nhau ngồi lắng nghe những bài hát của ông, cùng bình phẩm, rồi vui cười. Niềm hạnh phúc với âm nhạc của nhạc sĩ Đài Phương Trang, giản dị là vậy. Mỗi khi nhắc lại, ông vẫn luôn bồi hồi về những kỷ niệm đó, như chỉ mới vừa qua.

Nửa thế kỷ nối lời tình ca

Không ít người thắc mắc về bút danh Đài Phương Trang, có vẻ rất nữ tính của ông. Cùng với những bài tình ca não lòng ăn khách, ai cũng nghĩ rằng ông có cuộc đời tình ái hết sức lãng mạn. Vì vậy nên có lời đồn rằng bút danh của ông được ghép lại từ tên của 3 người tình trong đời.

Nhưng thật ra không phải vậy. Bút danh đầy ẩn ý này được đặt theo một kỷ niệm thời học sinh của ông. Khi đó, dù là một tay chơi đàn được các cô trong lớp mến mộ và xin được nghe, nhưng ông lại ngại ngùng và chỉ đàn khi có các bạn trai yêu cầu. “Đàn phương trai” là một cách nói lái và làm thành bút danh, với ý nhắc lại kỷ niệm ngày xưa thời đi học, mà ông vốn vẫn bị mắng là “nhát gái”, chỉ biểu diễn khi có bạn trai với nhau.

Liên tục trong nhiều năm của thập niên 60,70 ở Sài Gòn, các tác phẩm của nhạc sĩ Đài Phương Trang xuất hiện ngày càng thường xuyên và trở thành quen thuộc với người yêu nhạc. Từ Biết Ai Tâm Sự, Người Quên Kẻ Nhớ đến Tình Yêu Tuyệt Đối, Chuyến Xe Miền Tây… tên tuổi của ông thật sự trở thành một dấu ấn trong lịch sử âm nhạc bolero, đặc thù của miền Nam với gia tài hơn 600 ca khúc. Âm nhạc đã đưa ông bước đến những nẻo đường mới lạ, thay đổi nhiều trong cuộc sống của mình. Từ anh nhà giáo nghèo lọc cọc với chiếc xe cũ, nhạc sĩ Đài Phương Trang sắm sửa được chiếc xe Honda Dame, cuộc sống nhẹ nhàng hơn trong gia đình nhỏ của mình với 3 con nhỏ. Từ một người chơi mandolin trở thành một nhạc sĩ vang danh… Thế nhưng ông không bao giờ rời bỏ nghề dạy học và môn Việt Sử mà mình đã chọn. Thầy giáo – nhạc sĩ Đài Phương Trang chỉ về hưu vào cuối thập niên 90 và sau đó dành trọn thời gian cho việc thể nghiệm sáng tác nhạc trẻ và các bài ca hài, như kiểu ban tam ca AVT thời thập niên 60, 70.

Giờ đây, nhạc sĩ Đài Phương Trang cộng tác với nhạc sĩ Xuân Tường, lập thành ban nhạc để cùng hát, cùng sáng tác và rong ruỗi trên nhiều nẻo đường. Hai mái đầu bạc vẫn làm xúc động trái tim khán giả trong những khán phòng nhỏ và chia sẻ cảm xúc âm nhạc thật sự. Mùa Noel vừa qua, cũng là dịp kỷ niệm 50 bài hát lừng danh Hai mùa Noel của ông. Bài tình ca mà gần như đã gắn chặt với hình ảnh của một mùa cuối năm đầy kỷ niệm. “Mùa Noel đó, chúng ta quen bên giáo đường…”. Khi nhắc về bài hát lừng danh này, nhạc sĩ Đài Phương Trang vẫn nói rằng mình cứ áy náy khi viết một bài hát rất buồn, dù đó chỉ là một câu chuyện tình mà ông tưởng tượng. Vì vậy nửa thế kỷ sau, ông lại cho ra đời bài Hai mùa Noel 2, với nội dung nói rằng những điều phiền muộn nhất rồi cũng sẽ qua đi, mọi thứ mãi là kỷ niệm đẹp. Bài hát nhân hậu như chính con người ông, cũng như là một ước ao đẹp chất chứa trong tim, hơn nửa thế kỷ mới có dịp tỏ bày.

Kỷ niệm 50 năm sự nghiệp âm nhạc Sài Gòn, mùa xuân này, nhạc sĩ Đài Phương Trang cũng vừa giới thiệu phần 2 của bài Người Yêu Cô Đơn, một bài bolero mà ở hang cùng ngõ hẻm hay nhà tranh vách núi… đâu đâu người yêu nhạc cũng biết, ai cũng có thể hát nghêu ngao. Cũng giống như những bài hát đầu tiên mà ông xuất hiện trên đời sống, nhạc sĩ Đài Phương Trang lại mời một vài bạn đến nghe ông hát Người Yêu Cô Đơn 2. Tất cả mọi người im lặng nghe và xúc động. Người nhạc sĩ cất tiếng hát run run để nối lại một vòng thời gian nửa thế kỷ âm nhạc của mình như một cuộc tái sinh. Và với tình ca, ông tìm thấy sự tái sinh thầm lặng và quý giá của một đời nghệ sĩ, một đời hạnh phúc được cống hiến cho lời yêu thương.

Bài đọc thêm

Các ca khúc trữ tình và quê hương sau 1975

Nhạc sĩ Đài Phương Trang tên thật là Phạm Văn Tứ, sinh năm 1940 tại Sài Gòn. Các bút danh khác là Thanh Viên, Phạm Vũ Anh Tứ, Phạm Tứ và Quang Tứ.

Đến năm học đệ thất (tương đương lớp 6 hiện nay), ông bắt đầu học nhạc với thầy Trần Anh Tuấn, vốn đang là thầy giáo của trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch Nghệ. Sau khi học xong tú tài, nhạc sĩ Đài Phương Trang dạy môn Việt Sử ở trường trung học cộng đồng Phú Định.

Tác phẩm đầu tiên của nhạc sĩ Đài Phương Trang ra mắt công chúng năm 1966, nhưng thực tế, ông bắt đầu viết nhạc từ năm 1965. Đó là khi viết chung với nhạc sĩ Anh Thy bài Bốn Màu Áo, bút danh khởi đầu là Thanh Viên.

Năm 1968, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đang là giám đốc của nhiều hãng đĩa nhạc và nhà in như Continental, Ngày Xanh, Sơn Ca… mời Đài Phương Trang cùng cộng tác gửi bài. Tác phẩm đầu tiên của sự cộng tác này là bài "Biết Ai Tâm Sự" với tiếng hát ca sĩ Kim Loan. Ngoài ra Đài Phương Trang còn để nhạc sĩ Ngọc Sơn, cậu ông đứng tên chung nhiều bài.

Một số ca khúc phổ biến của ông là: Hoa mười giờ (đồng sáng tác với Ngọc Sơn), Căn nhà dĩ vãng, Chuyến xe miền Tây, Tình nghèo có nhau, Ước mộng đôi ta… và đặc biệt là bài Người yêu cô đơn (viết năm 1973) là ca khúc tiêu biểu của ông và cũng là nhạc phẩm giúp tên tuổi ca sĩ Tuấn Vũ được thính giả khắp nơi biết đến.

Đến năm 1990 ông bắt đầu viết nhạc hài. Cùng với Phương Khanh (diễn viên Đoàn kịch Kim Cương), ông thành lập nhóm "Hai Con Dế", ra sân khấu với trang phục truyền thống áo dài khăn đóng và chơi đàn guitar. Sau khi Phương Khanh qua đời, ông tiếp tục duy trì nhóm với một số bạn diễn mới như Kông Thanh Bích (tác giả bài Tương tư nàng ca sĩ), Hải Thanh và hiện nay là nhạc sĩ Đức Tân.

“Ước vọng của chúng tôi là được đem lời ca tiếng đàn để phục vụ công chúng qua thể loại ca hài hầu mang đến những nụ cười dí dỏm, ý nhị có tính nghệ thuật trong những ca khúc hoàn toàn mới - từ giai điệu đến lời ca chứ không phải đặt lời mới trên những giai điệu cũ mà người ta thường gọi là "nhạc chế". ”

Nhạc sĩ Đài Phương Trang về hưu vào cuối thập niên 90 và tiếp tục sự nghiệp sáng tác đến nay. Hiện ông đang sống cùng vợ và ba người con (2 gái, 1 trai) tại quận Bình Tân, Thành phố Sài Gòn.

Trở lại Trang Chính

Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm: Phần lớn thông tin có sẵn là bên ngoài trang web của chúng tôi. Outfitters âm nhạc đã bao gồm các trang web này vì chúng tôi tin rằng chúng cung cấp thông tin và/hoặc dịch vụ mà bạn có thể thấy hữu ích. Tuy nhiên, vì các trang web này không nằm dưới sự kiểm soát của chúng tôi, chúng tôi không thể chứng thực tính chính xác của thông tin do họ cung cấp. Liên kết với các trang web này không cấu thành sự chứng thực bởi các nhà ngoài công hoặc bất kỳ nhân viên nào của mình.

Chính sách bảo mật | Các điều khoản và điều kiện

Shadow Dancing của Andy Gibb ..

Công cụ nóng của Donna Summer ..

100 bài hát được chơi nhiều nhất là gì?

Spotify Top 100 bài hát phát trực tiếp nhất.

Ai có 40 lượt truy cập hàng đầu trong những năm 1960? / Moderator/ 1 year ago in Social & Random

The Beatles thống trị các bảng xếp hạng và thúc đẩy cuộc xâm lược của Anh đặc trưng cho phần lớn thập kỷ. Dưới đây là 100 bài hát hàng đầu của Nolan Phương pháp của thập niên 1960 (1960-1969).

4 trả lời

Bài viết đề xuất

Hãy giới thiệu bản thân!

Tìm cách khám phá một số bài hát hay nhất của chúng tôi trong thập niên 60? Kiểm tra hai danh sách phát của chúng tôi trên Spotify: Tập 1 và Tập 2.

100: Roger Miller - King of the Road (1965)

Roger Miller xông vào vua của con đường đã chiếu ánh sáng cho người đàn ông du lịch. Ca khúc, một crossover pop đồng quê thú vị, kể câu chuyện về một hobo du mục, bị trói buộc từ tất cả các nghĩa vụ và hàng hóa vật chất. Bài hát nổi tiếng nhất của bài hát, một người đàn ông có phương tiện, không có nghĩa là vua của con đường, đã rất hoài nghi, say sưa trong việc tự do từ chối tuân thủ các quy tắc xã hội. Giai điệu mượt mà và nhạc cụ đơn giản đã khiến nó trở thành một bản cover đáng tin cậy cho các ngôi sao đồng quê và các ban nhạc rock, với các nghệ sĩ đa dạng như Glen Campbell và Reverend Horton Heat bao gồm giai điệu. Phong cách bị loại bỏ của bài hát cho phép nhiều cách giải thích khác nhau, nhưng đó là bản gốc của Miller Miller, được xây dựng xung quanh ca sĩ giọng hát đẹp quyến rũ, vẫn là vị vua của con đường.Glen Campbell and Reverend Horton Heat covering the tune. The song’s stripped-down style allows for many different interpretations, but it’s Miller’s original, built around the singer’s charmingly beautiful voice, that remains the definitive “King of the Road.”

99: Georgie Fame & The Blue Flames - Yeh, Yeh (1964)

Georgie nổi tiếng và ban nhạc của anh ấy, The Blue Flames, đã tìm thấy sự giao thoa hoàn hảo của nhạc pop, jazz và R & B. Khán giả đồng ý. Phiên bản nhóm của nhóm Yeh Yeh Yeh, đã đứng đầu Beatles, tôi cảm thấy ổn trên bảng xếp hạng của Vương quốc Anh, kết thúc cuộc chạy năm tuần từ các trò chơi của Liverpool. Ngay sau khi đứng đầu bảng xếp hạng của Vương quốc Anh, Ye Yeh, Yeh, đã đạt #21 trên bảng xếp hạng pop Billboard, chứng minh rằng bài hát này không chỉ là một kỳ quan của Vương quốc Anh. Ban nhạc thực sự xuất hiện trong một lần nổi tiếng của họ đã bỏ piano của mình cho một cơ quan Hammond, một quyết định được truyền cảm hứng trực tiếp từ Booker T. & The M.G. and his band, The Blue Flames, found the perfect intersection of pop, jazz, and R&B. Audiences agreed. The group’s version of “Yeh Yeh,” topped the Beatles’ “I Feel Fine” on the UK chart, ending a five-week run from the Liverpool chaps. Shortly after topping the UK charts, “Yeh, Yeh” reached #21 on the Billboard Pop charts, proving that the song was more than a UK wonder. The band truly came into their own once Fame ditched his piano for a Hammond organ, a decision that was directly inspired by Booker T. & The M.G.’s “Green Onions.”

98: Jackie Wilson - (Tình yêu của bạn luôn nâng tôi lên) ngày càng cao hơn (1967)

Công cụ cho Jackie Wilson Hồi (tình yêu của bạn luôn nâng tôi lên) ngày càng cao hơn là rõ ràng như nó được. Âm thanh âm thanh giống như nó được ghi lại trong một khoảng trống kín, trong khi rãnh Conga mang tính biểu tượng bật lên mà không có tiếng nhăn hoặc nứt. Tất cả những gì Wilson phải làm là xuất hiện. Và xuất hiện anh ấy đã làm. Công cụ cho hit năm 1967 được viết bởi Gary Jackson, Raynard Miner và Carl Smith. Bài hát lần đầu tiên được cung cấp cho Dells, nhưng không bao giờ được phát hành. Wilson bước vào, và ban đầu hát giai điệu như một bản ballad. Đó là cho đến khi anh ấy định hình màn trình diễn của mình là sự gia tăng, phụ trách linh hồn mà bạn nghe hôm nay rằng bài hát được coi là phù hợp để phát hành và trở thành một tác phẩm kinh điển của thập niên 60.

97: Roy Orbison - Khóc (1961)

Roy Orbison đã có rất nhiều bản hit của thập niên 60 để lựa chọn, bao gồm cả Oh Oh, người phụ nữ xinh đẹp, nhưng chúng tôi đã chọn cách khóc, bắt đầu với một dòng bán kết, quen thuộc với những người chưa từng nghe bài hát: Trong khi, tôi có thể mỉm cười một lúc ”. Bài hát là Orbison dễ bị tổn thương nhất của anh ấy, thừa nhận rằng những cảm xúc ẩn giấu từ một đối tác cũ là những người đau lòng và hối tiếc. Bài hát pha trộn một bản ballad nhạc rock truyền thống với các chuỗi dàn nhạc và một Timpani nổi bật pha trộn bộ gõ giao hưởng với các bản nhạc của các bộ phim hoang dã. Bài hát thống trị năm 1961, tuyên bố cư trú ở đầu bảng xếp hạng, chỉ được giữ từ số một trong danh sách Billboard vì một nghệ sĩ tên Ray Charles và một số bài hát có tên là Hit Hit Jack Jack. Bên cạnh Charles, Orbison đã mở ra nhạc rock và R & B vào một lần lặp hiện đại, pha trộn các giai điệu cao vút với các tác phẩm sử thi và một sự tương đối trong lời bài hát giúp các ngôi sao tương lai vượt qua dòng chính. had plenty of 60s hits to choose from, including “Oh, Pretty Woman” But we opted for “Crying,” which begins with a seminal line, familiar to those even who have never heard the song: “I was alright for a while, I could smile for a while.” The song is Orbison at his most vulnerable, admitting that the feelings hidden from a former partner are ones of heartbreak and regret. The song blends a traditional rock ballad with orchestral strings and a propulsive timpani that blends symphonic percussion with the soundtracks of Wild West films. The song dominated 1961, claiming residence at the top of the charts, only kept from number one on the Billboard list because of an artist named Ray Charles and some song called “Hit The Road Jack.” Alongside Charles, Orbison was ushering rock ‘n’ roll and R&B into a modern iteration, blending soaring melodies with epic compositions and a relatability in lyrics that helped future stars break through to the mainstream.

96: Russell Morris - The Real Thing (1969)

Được viết bởi Johnny Young và được sản xuất bởi Ian Hồi Molly Molly Meldrum, Hồi The Real Thing, ban đầu được hình dung là một bản ballad rock mềm trong một mạch tương tự như The Beatles Hồi Hồi Strawberry Field mãi mãi. Nhưng bản demo đã được thay thế bởi tầm nhìn mở rộng của Meldrum, và The Real Thing đã trở thành một trong những kiệt tác studio đầu tiên của thời đại hiện đại. Cùng với kỹ sư John Sayers, Meldrum đã đi tiên phong sẽ trở nên cực kỳ phổ biến với các nghệ sĩ lồng tiếng Jamaica trong những năm 70. Thêm vào mẫu cuối cùng, được lấy từ một bản ghi âm của một dàn hợp xướng thanh niên Hitler, và The Real Thing, là một trong những bài hát rock kỳ lạ nhất, tiên phong nhất của thập niên 60, và tiếp tục kinh ngạc ngày hôm nay.

95: Leonard Cohen - Suzanne (1967)

Leonard Cohen đã rút ra một đường thẳng từ thơ đến âm nhạc dân gian. Suzanne, bản nhạc acoustic khuấy động từ các bài hát của Leonard Cohen là một trong những ví dụ mạnh mẽ nhất về phong cách này, với lời bài hát của Cohen xuất hiện lần đầu tiên như một bài thơ vào năm 1966. cho album sắp phát hành của anh ấy.) Bài hát đã phát ra sự thân mật của các ngôi sao dân gian Mỹ như Bob Dylan và Stephen Stills, nhưng với một twang Canada và một món ngon rung động từ những nốt guitar gảy đàn của anh ấy. Một trong những mối quan hệ của Cohen, với vũ công Suzanne Verdal, một trong số ít mối quan hệ phi tình dục mà người đàn ông khét tiếng sẽ hát trong sự nghiệp.Bob Dylan and Stephen Stills, but with a Canadian twang and a delicacy that vibrates off of his plucked guitar notes. “Suzanne” was inspired by Cohen’s platonic relationship with dancer Suzanne Verdal, one of the few non-sexual relationships the notorious ladies man would sing about during his career.

94: Louis Armstrong - Thật là một thế giới tuyệt vời (1968)

Thật là một thế giới tuyệt vời là một bài học về sự kiên trì. Nó cũng là một trong những bản ballad pop hay nhất từng được ghi lại. Armstrong lần đầu tiên bắt đầu lập kỷ lục vào năm 1923, nhưng đó là vào tháng 2 năm 1968, khi Amstrong lên 66, anh đã phát hành một thế giới tuyệt vời, một bài hát bán chạy nhất trong sự nghiệp có ảnh hưởng lớn của anh. Armstrong đã tạo ra âm nhạc kéo dài nhạc jazz theo phong cách Dixieland thành chính thống, và đó là với một thế giới tuyệt vời mà anh ấy đã ghi được bản hit lớn nhất của mình từ bài hát thân mật nhất của mình. Thật là một thế giới tuyệt vời là một con số phản ánh, đầy hy vọng khao khát sự lạc quan trong một thế giới ngày càng mong manh. Armstrong, bị bệnh tim, cầu xin khán giả tìm thấy những thú vui đơn giản trong cuộc sống và ăn mừng họ với anh lần cuối.Armstrong first started making records in 1923, but it was in February of 1968, when Amstrong was 66, that he released “What A Wonderful World,” which would become the biggest-selling song of his massively influential career. Armstrong made music that spanned Dixieland-style jazz to mainstream pop, and it was with “What A Wonderful World” that he scored his biggest hit from his most intimate song. “What A Wonderful World” was a reflective, hopeful number that yearned for optimism in an increasingly fragile world. Armstrong, suffering from a heart condition, pleaded for his audience to find the simple pleasures in life, and celebrate them with him one last time.

Louis Armstrong - Thật là một thế giới tuyệt vời (video chính thức)

Bấm để tải video

93: Tom Jones - Nó không phải là bất thường (1965)

Bây giờ, thật khó tin, nhưng Tom Jones được coi là quá gợi cảm cho BBC khi lần đầu tiên đến những năm 60 với bài hát này. Như vậy, chính những nỗ lực của đài phát thanh Pirate Radio Caroline đã thúc đẩy sự thành công ban đầu của Jones, nó không bình thường. Câu chuyện lạc quan về sự đau lòng là đĩa đơn thứ hai của Jones, cho Decca Records và số 1 đầu tiên của anh ấy. Tin đồn có người chơi guitar chịu trách nhiệm cho solo sép là trang Jimmy. Những gì được xác nhận là người chơi bàn phím. Một nhạc sĩ ít được biết đến, đang gặp khó khăn tên là Reginald Dwight, người sẽ tiếp tục hát một vài số 1 số của riêng mình với tư cách là Elton John.Tom Jones was deemed far too sexy for the BBC when he first arrived in the 60s with this song. As such, it was the efforts of pirate radio station Radio Caroline that drove the initial success of Jones’s “It’s Not Unusual.” The upbeat tale of heartbreak was Jones’s second single for Decca Records and his first No.1. Rumor has it the guitar player responsible for the squealing solo is Jimmy Page. What is confirmed is the keyboard player. A little-known, struggling musician named Reginald Dwight, who would go on to sing a few No.1’s of his own as Elton John.

92: The Monkees - Daydream Believer (1967)

John Stewart đã viết ngay Daydream Believer ngay trước khi anh rời Kingston Trio, ca khúc thứ ba trong một bộ ba nhằm mục đích nắm bắt sự bất ổn và nhàm chán của cuộc sống ngoại ô. Về mặt đó, anh ta là một nhà đổi mới, mang lại sự sống cho vùng ngoại ô vô hồn trong tiếng khóc để được giúp đỡ - hoặc, ít nhất, là một chiếc trực thăng trở lại thành phố. Bài hát đã bị từ chối bởi cả năm chúng tôi và Spanky và băng đảng của chúng tôi, cuối cùng hạ cánh trong tay của Monkees thông qua nhà sản xuất Chip Douglas, người chạy vào John Stewart trong một bữa tiệc. Nhóm đã thu âm nó cho album năm 1967 của họ, Pisces, Aquarius, Mapricorn & Jones Ltd., nhưng cuối cùng đã được đưa vào kỷ lục năm 1968 của họ, The Birds, Bees & The Monkees thay thế. Và những gì về giao hàng mơ hồ của Davy Jones? Đó thực sự là kết quả của sự bất mãn của anh ấy với quá trình ghi âm - một trong những tai nạn hạnh phúc nhất trong lịch sử nhạc pop.

91: Del Shannon - Runaway (1961)

Run Runaway gần như không bao giờ xảy ra. Trở lại năm 1960, Charles Westover và người chơi bàn phím Max Crook đã kiếm được một hợp đồng ghi âm. Hợp đồng ghi âm kết thúc thảm khốc. Có lẽ đó là một câu chuyện khác về những đứa trẻ ở thị trấn nhỏ bị Big Apple đe dọa, nhưng Crook và Westover (người gần đây đã đưa vào nghệ danh Del Shannon) đã không gây ấn tượng với các ông chủ tại Big Top Records. Trước tất cả những điều này, người quản lý của họ đã thuyết phục họ viết lại và ghi lại một bài hát trước đó mà họ đã viết, Little Little Runaway. Phần còn lại là lịch sử. Trò chơi Little Little Runaway đã trở thành người chạy trốn, và biểu tượng của Shannon, biểu tượng của Wah Wah-Wah-Wah, đã được người thân của bạn bắt chước một cách khó chịu tại mỗi cuộc tụ tập của gia đình kể từ đó.

90: Peggy Lee - Có phải tất cả có? (1969)

Có phải tất cả đều có? Bài hát được lấy cảm hứng từ câu chuyện năm 1896, sự vỡ mộng của Thomas Mann, cụ thể là dòng, có phải là tất cả có lửa không? Bài hát đã lấy cảm hứng từ các tác phẩm sân khấu của Kurt Weill, pha trộn màn trình diễn nháy mắt của nhà hát với chủ nghĩa tối đa pop đang thịnh hành vào cuối những năm 60. Sự sắp xếp dàn nhạc của bài hát được sáng tác (và được thực hiện) bởi Randy Newman, người cũng chơi piano trong phần giới thiệu. Bài hát có một cái nhìn thẳng thắn về cái chết, với Peggy Lee không sợ những gì cô nhìn thấy, mặc dù không muốn từ bỏ tất cả những niềm vui và các bữa tiệc cho bí ẩn vĩnh cửu.Peggy Lee unafraid of what she sees, though unwilling to give up all the fun and parties for eternal mystery.

89: Táo bạc - Dao động (1968)

Vì vậy, rất nhiều nhạc rock điện tử và thử nghiệm hiện đại có thể được truy nguyên từ những quả táo bạc quan trọng, và lần ra mắt tự có tựa đề năm 1968 của họ. Các sự lặp lại của nhạc cụ thúc đẩy, thôi miên đã trở nên phổ biến trong Krautrock một nửa thập kỷ sau đó, và các mô hình tròn của các rãnh của họ đã giúp mở ra cơn sốt âm nhạc nhảy sau đó. Tất nhiên, các bộ dao động Simeon, đóng một vai trò quan trọng trong ca khúc, nhưng sự giao hàng mỏng manh, mỏng manh từ ca sĩ Dan Taylor cũng sẽ tiếp tục truyền cảm hứng cho các ca sĩ như David Byrne. Mặc dù âm nhạc của Silver Apples tồn tại trong một không gian nhỏ gọn, nhưng những thế giới mà chúng ảnh hưởng là rất lớn và ngày càng phát triển.

88: Anh em chính nghĩa - Melody Unchained (1965)

Melody Unchained Melody ban đầu xuất hiện vào năm 1955, với âm nhạc của Alex North và lời bài hát của Hy Zaret. Sáng tác này ban đầu được chốt cho một bộ phim nhà tù tương đối lạ, không bị xáo trộn, trước khi anh em chính trực đã thực hiện giai điệu từ sự che khuất cho album của họ chỉ một lần trong cuộc đời tôi trong thập niên 60. Bài hát tồn tại thành hai phần, với phần đầu tiên di chuyển dọc theo nhẹ nhàng, giống như một chiếc thuyền chèo nhẹ nhàng lướt qua một cái ao. Nhưng khoảng nửa chừng, bầu trời mở ra và bài hát bùng nổ khi những chiếc trống đến với một vụ tai nạn sấm sét và ca sĩ Bobby Hatfield ngày càng mạnh mẽ trong việc giao hàng. Melody Melody, ban đầu, ban đầu là một phần B cho album đầu tiên của album, Hung Hung On You, được sản xuất bởi Phil Spector. Bill Unchained, người được sản xuất bởi đối tác hát Hatfield, Bill Medley, đã xếp hạng tốt hơn so với Hang Hang On You, vì vậy Spector đã nhận được tín dụng cho cả hai bài hát. Kể từ đó, hồ sơ đã được thiết lập thẳng, và Medley đã kiếm được tiền hợp pháp của mình.

87: Hội thảo X quang BBC - Doctor Who (1963)

Hội thảo X quang BBC được tạo ra vào năm 1958 để tạo ra hiệu ứng cho đài phát thanh và TV, và nhanh chóng trở thành phòng thí nghiệm âm thanh điện tử hàng đầu của Anh. Chủ đề của Doctor Doctor Who, đi kèm với chương trình lần chạy đầu tiên vào năm 1963, là nhạc nền hiếm hoi cả điểm nhấn và vượt qua. Thành phần gắn liền với chương trình, nhưng giai điệu mang tính biểu tượng của nó tồn tại trong phạm vi văn hóa nhạc pop của riêng nó. Bản phác thảo của chủ đề được viết bởi nhà soạn nhạc người Úc Ron Grainer và được đưa đến hội thảo phóng xạ để được Delia Derbyshire, người làm việc với kỹ sư âm thanh Dick Mills trong phiên bản cuối cùng. Các bộ phận công cụ được tạo ra bằng cách ghép nối, chậm lại và tăng tốc độ nhiễu trắng, một chuỗi được rút ra và các dạng sóng hài đơn giản của các bộ tạo dao động tông màu thử nghiệm được sử dụng để hiệu chỉnh thiết bị và phòng. Với chủ đề, Delia Derbyshire và BBC Radiophonic Workshop không chỉ thay đổi lịch sử của truyền hình, mà còn đặt nền tảng cho các nhà soạn nhạc điện tử thử nghiệm trong những năm 1970 và 1980.

86: Sly and the Family Stone - Người hàng ngày (1968)

Những người hàng ngày của người Viking là một viên đá ranh mãnh điển hình ở chỗ nó cầu xin cho hòa bình và rất hấp dẫn. Sly có khả năng nắm bắt những năm 60 trong bài hát tốt hơn hầu hết, xây dựng phong trào tình yêu tự do để tạo ra một âm thanh bao gồm và hấp dẫn, tham gia một cách thú vị với những âm thanh phổ biến của thời đại. Viên đá gia đình là duy nhất ở chỗ nó có sự góp mặt của những người chơi da trắng như Greg Errico và Jerry Martini trong đội hình của mình, cũng như những người phụ nữ như Rose Stone (chị gái Sly,) và Cynthia Robinson. Về mặt thực tế, những người hàng ngày của người Hồi giáo là duy nhất theo cách mà nó tham gia với Pop trực tiếp hơn rất nhiều nhạc funk ảo giác của ban nhạc. Nó là một hit đơn giản, chứng minh rằng Sly có thể viết các bài hát đột phá theo một số phong cách.

85: Bee Gees - Yêu ai đó (1967)

Mất bao lâu để nhận ra Bee Gees Hồi để yêu ai đó? Có phải trong giây đầu tiên, khi các hợp âm guitar sạch sẽ từ từ quấn quanh sự im lặng? Hoặc làm thế nào về hai thứ hai, khi sự sưng lên của dây đến? Đối với những người hâm mộ bình thường, có thể là tất cả các cách thứ ba mà họ nhận ra đường đua, nhờ những chiếc trống rỗng và phong phú nghe có vẻ như nhóm đã quyết định ghi lại một Timpani bị hút nước. Bất kể, các ghi chú mở đầu mang tính biểu tượng của tình yêu với ai đó, cũng vượt thời gian như chính bản nhạc. Lắng nghe về việc yêu một người nào đó là nghe người khác trải qua tình yêu, sự đau lòng và tất cả những người còn lại theo cách mà trước đây bạn nghĩ là độc nhất và không thể mô tả. Đó là một kinh nghiệm được chia sẻ, đó là lý do tại sao tình yêu của ai đó là một trong những bài hát mạnh mẽ nhất trong thập niên 60.Bee Gees’ “To Love Somebody”? Is it in the first second, when the clean, guitar chords slowly wrap around the silence? Or how about in second two, when the warm swell of the strings come in? For casual fans, it may be all the way into the third second that they recognize the track, thanks to the hollow and rich drums that sound like the group decided to record a water-logged timpani. Regardless, the iconic opening notes of “To Love Somebody” are as timeless as the track itself. Listening to “To Love Somebody” is to hear someone else experiencing love, heartbreak, and all the rest in a way you previously thought was unique and impossible to describe. It’s a shared experience, which is why “To Love Somebody” is one of the most powerful songs of the 60s.

84: Dusty Springfield - Con trai của một người thuyết giáo (1968)

Dusty Springfield tình cờ ở đúng nơi vào đúng thời điểm. Người hâm mộ sinh ra ở Anh của linh hồn mắt xanh đã ghi lại lần ra mắt Atlantic năm 1968 của cô tại Memphis với Jerry Wexler. Trong thời gian này, John Hurley và Ronnie Wilkins đã viết một bài hát, con trai của một người đàn ông thuyết giáo, Hồi cho Aretha Franklin. Wexler thích đường đua, và lấy nó cho Springfield. Nó trở thành một hit hoành tráng, đôi khi được tiếp thêm sinh lực bởi sự xuất hiện trong văn hóa nhạc pop như trong Quentin Tarantino, 1994 Smash, Pulp Fiction. Ca khúc vẫn là một trong những cảm ứng văn hóa của thập niên 60, một bài hát oi bức về tình yêu giữa nhân vật Dusty, và một chàng trai trẻ sai. just happened to be in the right place at the right time. The British-born aficionado of blue-eyed soul was recording her 1968 Atlantic debut in Memphis with Jerry Wexler. During this time, John Hurley and Ronnie Wilkins had penned a song, “Son of a Preacher Man,” for Aretha Franklin. Wexler liked the track, and took it for Springfield. It became a monumental hit, occasionally reinvigorated by appearances in pop culture like in Quentin Tarantino’s 1994 smash, Pulp Fiction. The track remains one of the cultural touchstones of the 60s, a sultry song about the love between Dusty’s character and a misbehaving young man.

83: Bembeya Jazz National - Armée Guinéenne (1969)

Bạn không nhận được biệt danh là những ngón tay kim cương của người Hồi giáo bằng cách không sao trên cây đàn guitar. Sekou Diabaté, tay guitar của Bembeya Jazz National đã giành được đại diện của mình nhờ một kết nối gần như thần giao cách cảm với nhạc cụ. Lắng nghe một viên đá quý như Hồi Armée Guinéenne, lời giải thích hợp lý duy nhất cho Riff-Valling Spine-Viring của Diabaté là để đưa nó lên một lực lượng thế giới khác và tiếp tục trước khi bị đau đầu cố gắng tìm ra cách anh ta có thể chơi rất nhiều ghi chú. Tuy nhiên, Arm Armée Guinéenne, không chỉ là một dòng guitar xuất sắc. Cảm giác Afrobeat năm 1969 biểu thị một bước ngoặt trong văn hóa Guinean, với ban nhạc truyền tải các bài hát của họ với các thông điệp chính trị. Nhóm được thành lập trong sự độc lập mới của Guinea, và các bài hát của họ nổi với niềm vui của sự tự do khó kiếm được.

82: Elvis Presley - Tâm trí đáng ngờ (1969)

Ở đây, một mẹo nhỏ: Nếu bạn ghi lại một bài hát, hãy lấy ngôi sao lớn nhất thế giới để ghi lại nó. Đủ dễ dàng, phải không? Quay trở lại năm 1968, nhạc sĩ Mark James đã viết Hồi Suspicy Minds, và có sự táo bạo để tự ghi lại nó. Nó đã ném bom, và Elvis đã ghi lại nó với nhà sản xuất Chips Moman. Nó nhanh chóng đi số 1. Được cho là, tâm trí nghi ngờ của người Hồi giáo là một trong những bản hit lớn nhất của Elvis, nhưng hồi đó, khiến nhà vua ghi lại một trong những bài hát của bạn là một cách chắc chắn để tăng vọt nó lên các bảng xếp hạng quốc gia. Bài hát được cho là được ghi lại từ 4 đến 7 giờ sáng, điều này có thể giải thích một số sự tuyệt vọng về điện trong giọng nói của Elvis. Chơi cho người đồng cấp vua là Donna Jean Godchaux, người sẽ tiếp tục hát với The Grateful Dead.

81: Mulatu Astatke - Yègellé Tezeta (1969)

Mulatu Astatke là vị vua không thể tranh cãi của Ethio-Jazz, một phong cách âm nhạc pha trộn nhạc jazz, âm thanh truyền thống của người Ethiopia và nhịp điệu Latin. Thời đại hoàng kim của nhạc jazz người Ethiopia xảy ra vào những năm 1960 và 1970, với Astatke đi đầu trong bối cảnh. Thành phố thủ đô của đất nước, Addis Ababa được gọi là người Swinging Addis, trong thời đại đó, và là một trong những thành phố âm nhạc sáng tạo nhất trên trái đất. Nó không có gì lạ khi Astatke hợp tác với các huyền thoại jazz như John Coltrane khi anh đến thăm Hoa Kỳ. Một trong những khoảnh khắc nổi bật từ thời đại đó, một rãnh bắn tung tóe, xoay quanh một đường sừng lây nhiễm. Bài hát được xuất hiện trong loạt phim Ethiopiques, đã ghi lại âm thanh của đất nước kể từ khi Ethio-Jazz xuất hiện.John Coltrane when he visited the United States. “Yègellé Tezeta” is one of the standout moments from that era, a slinking, snaking groove that centers around an infectious horn line. The song is featured in the Ethiopiques series, which has chronicled the country’s sound since Ethio-jazz emerged.

80: Françoise Hardy - Tous Les Garcons et Les Filles (1962)

Thật là một cuộc sống của Françoise Hardy, trong thời gian của Les Garçons et Les Filles đã sống. Được dịch là từ tất cả các chàng trai và cô gái bằng tiếng Anh, bài hát gần như ngay lập tức là một hit lớn ở Pháp khi Hardy phát hành nó vào năm 1962. Nó ban đầu xuất hiện dưới dạng một cuộc nghỉ âm nhạc trong khi kết quả đang đổ dồn vào cuộc trưng cầu dân ý bầu cử năm 1962 ở Pháp. Trong mỗi giờ nghỉ, người Pháp ở khắp mọi nơi đã yêu giọng hát quyến rũ và phong cách đột phá của nhạc pop yé-yé, pha trộn nhạc rock, jazz, dân gian và pop. Và nếu bạn đặc biệt bị cuốn hút vào một số giai điệu guitar trên TOUS Les Les, thì đó có thể là do không ai khác ngoài trang Jimmy huyền thoại đã đóng góp cho các phiên ghi âm Hardy.

79: Sonny & Cher - I Got You Babe (1965)

Nhạc sĩ Sonny Bono đã viết lời bài hát cho tôi I Got You Babe, một đêm khuya dưới tầng hầm. Khi anh đánh thức vợ mình, Cher, hát phần của mình, cô từ chối, nói rằng cô ghét nó, và không nghĩ rằng đó sẽ là một hit. Cô ấy trở lại giường. Khi cô thức dậy vào sáng hôm sau, cô đã thay đổi suy nghĩ. Tôi đã nhận được bạn Babe, đã trở thành một trong những bản song ca mạnh mẽ nhất của thập niên 60, một bài hát hoàn hảo cho phong trào tình yêu miễn phí của thập niên 60. Được ghi lại bởi tay trống huyền thoại Hal Blaine và các thành viên của phi hành đoàn phá hoại nổi tiếng thế giới, bài hát thực tế là một nhánh mở rộng của phong trào Hippie đối lập, một bài thơ hấp dẫn một cách truyền nhiễm cho sự thoải mái của tình yêu đích thực. Mặc dù cuộc hôn nhân của Sonny và Cher, đã không có lần cuối cùng, nhưng tôi đã có em yêu là mãi mãi.Cher, to sing her part, she refused, saying she hated it, and didn’t think it would be a hit. She went back to bed. When she woke up the next morning, she had changed her mind. “I Got You Babe” became one of the strongest duets of the 60s, a perfect song for the free love movement of the 60s. Recorded by legendary drummer Hal Blaine and members of the world-famous Wrecking Crew, the song was practically an extended arm of the counterculture hippie movement, an infectiously catchy ode to the comfort of true love. Though Sonny and Cher’s marriage didn’t last, “I Got You Babe” is forever.

78: Terry Riley - trong C (1968)

Terry Riley xông vào trong C, bao gồm 53 cụm từ âm nhạc ngắn, được đánh số, mỗi cụm từ kéo dài một lượng thời gian khác nhau. Mỗi cụm từ có thể được lặp lại một số lần không xác định của mỗi nhạc sĩ trong nhóm, và mỗi nhạc sĩ có quyền kiểm soát cụm từ họ chơi. Người chơi được khuyến khích chơi các cụm từ bắt đầu từ các thời điểm khác nhau. Về mặt lý thuyết, đây là một thực tiễn trong hỗn loạn, nhưng khi được thực hiện chính xác, nó trở thành một cơ thể tuyệt vời, trải dài, luôn phát triển của công việc. Vậy tại sao nó có trong danh sách các bài hát hay nhất của thập niên 60? Chà, Riley được truyền cảm hứng từ những đổi mới nhạc jazz dũng cảm của những người chơi như John Coltrane và Miles Davis, và âm nhạc cuối thập niên 60 của ông là nguồn cảm hứng rất lớn cho Who Who Pete Pete Townshend. Dòng dõi này đã đưa các ý tưởng thử nghiệm của Riley, cho khán giả chính, mãi mãi thay đổi giới hạn của cuộn nhạc rock.Miles Davis, and his music of the late 60s was a huge inspiration to The Who’s Pete Townshend. This lineage brought Riley’s experimental ideas to a mainstream audience, forever changing the limits of rock ‘n’ roll.

77: Bộ ba Vince Guaraldi - Linus & Lucy (1964)

Khi thập niên 60 tiếp tục lùi vào khoảng cách, các bài hát liên quan đến truyện tranh mang tính biểu tượng của Charles Schulz, đã trở nên được đánh giá cao hơn là một bản nhạc. Âm nhạc cho Peanuts được sáng tác và ghi lại bởi Vince Guaraldi, một nghệ sĩ piano jazz có trụ sở tại khu vực Vịnh và các bản hòa tấu của anh ấy. Sau một thời gian trong quân đội với tư cách là một đầu bếp trong Chiến tranh Triều Tiên, Guaraldi trở lại Vùng Vịnh, nơi anh bắt đầu chơi trong các nhóm bị ảnh hưởng nặng nề bởi các phong cách Latin như Bossa Nova. Guaraldi dựa trên công việc của mình với đậu phộng, đặc biệt là Lin Linus & Lucy, xung quanh các chủ đề này, truyền giai điệu piano hấp dẫn của anh ấy với bộ gõ sẽ khiến bạn chạm chân. Phần chính của Lin Linus & Lucy, chỉ có ba nhạc cụ: một cây đàn piano, một cái trống bẫy được chơi với bàn chải và mở và đóng một chiếc mũ trong đoạn điệp khúc, chứng minh rằng thiên tài thường xuất phát từ sự đơn giản.

Vince Guaraldi Trio - Linus và Lucy

Bấm để tải video

76: Stevie Wonder - Uptight (Mọi thứ đều ổn) (1965)

Phần dễ nhất về việc đưa danh sách này lại với nhau là chúng tôi đã phải lựa chọn giữa âm nhạc Stevie Wonder vào những năm 1970. Điều đó không thể nói rằng các bài hát của thập niên 60 của anh ấy không phải là lịch sử, nhưng phải đưa ra quyết định giữa các giai điệu về âm nhạc của tâm trí tôi, cuốn sách nói chuyện và sự bẩm sinh, là một sự giải thoát tuyệt vời. Căng thẳng lên là một mứt nhạc pop-rock đơn giản, với giọng nói của Wonder, ăn cắp chương trình, thỉnh thoảng nhường chỗ cho một dòng sừng truyền nhiễm. Trống đập và đụng độ theo phong cách của các nhóm nhạc rock như Cream và Jimi Hendrix Experience. Nó chỉ là một bài hát được thực hiện hoàn hảo, hấp dẫn và tràn đầy năng lượng nhưng có đủ không gian để cho Stevie thể hiện giọng hát mạnh mẽ của mình. Bài hát chỉ thiếu sót là khi Stevie hát bài I Im chỉ là một chàng trai bình thường. Bị nói dối là không có gì vui.Stevie Wonder’s music in the 1970s. That’s not to say that his 60s run of songs wasn’t historic, but having to make a decision between the tunes on Music of My Mind, Talking Book, and Innervisions, is a great relief. “Uptight” is a straightforward pop-rock jam, with Wonder’s voice stealing the show, occasionally giving way to an infectious horn line. The drums bang and clash in the style of rock groups like Cream and The Jimi Hendrix Experience. It’s just a perfectly executed song, engaging and energetic but with enough space to let Stevie show off his powerful vocals. The song’s only shortcoming is when Stevie sings “I’m just an average guy.” Being lied to isn’t any fun.

75: Ray Barretto - El Watusi (1962)

Ray Barretto sinh ra ở thành phố New York là một trong những người chơi Conga vĩ đại nhất của Latin Music. Anh ấy đã nhanh chóng nổi tiếng ở New York trong suốt những năm 1950 vì chơi, dẫn đến các hợp đồng thường xuyên trên toàn thành phố với các nhạc sĩ Latin nhưng cũng có một số người vĩ đại jazz như Charlie Parker, Dizzy Gillespie, v.v. Trò chơi của Barretto, đã sáng tạo, vì vậy khi đến lúc lãnh đạo nhóm của riêng mình, mặc dù El El Watusi, là một phần của cơn sốt cho nhạc Pachanga, anh ấy đã đặt vòng quay độc đáo của mình lên nó. Tiêu đề của bài hát Latin cổ điển của thập niên 60 này đề cập đến các bộ lạc Watusi lớn của Rwanda, người nổi bật trong lời bài hát vô nghĩa.Charlie Parker, Dizzy Gillespie, and more. Barretto’s playing was inventive, so when it came time to lead his own group, even though “El Watusi” was part of a craze for pachanga music, he put his unique spin on it. The title of this classic 60s Latin song refers to the large Watusi tribesmen of Rwanda, who feature prominently in the nonsensical lyrics.

74: The Drifters - dưới Boardwalk (1964)

Bên dưới lối đi bộ được sinh ra từ bi kịch. Bài hát được thiết lập sẽ được thu âm vào ngày 21 tháng 5 năm 1964, nhưng ca sĩ chính của ban nhạc, Rudy Lewis, đã chết vì một heroin bị nghi ngờ quá liều vào đêm hôm trước. Tuy nhiên, thay vì sắp xếp lại phiên họp của phòng thu, phần giọng hát chính trong nhóm Under Boardwalk đã được trao cho nhóm giọng ca khác của nhóm, Johnny Moore. Bài hát này là một pha chế hoàn hảo của pop-soul, nhưng nó có lẽ được tôn vinh nhất cho các phiên bản bìa to lớn mà nó sinh ra. Các nghệ sĩ đã giải quyết bản hit bao gồm Billy Joel, Bette Midler, Sam & Dave, Tom Tom Club, The Rolling Stones, Billy Joe Royal, Bruce Willis, Bad Boys Blue, John Mellencamp và Lynn Anderson. Đáng chú ý, mỗi phiên bản duy nhất được liệt kê ở trên được xếp hạng ở Hoa Kỳ hoặc nước ngoài.The Rolling Stones, Billy Joe Royal, Bruce Willis, Bad Boys Blue, John Mellencamp, and Lynn Anderson. Remarkably, every single version listed above charted either in the United States or overseas.

73: Irma Thomas - Thời gian đứng về phía tôi (1964)

Cả Irma Thomas và The Rolling Stones đều được ghi lại các phiên bản của Thời gian là về phía tôi, và hai người không thể nghe có vẻ khác nhau hơn. The Stones đã tạo ra một bản tái hiện nhạc rock ly kỳ của Jerry Ragovoy được viết, và phiên bản Thomas, được dẫn dắt bởi màn trình diễn giọng hát tuyệt vời của cô. Giọng nói của cô chỉ đi trước một chút so với dàn hợp xướng ủng hộ, tạo ra hình ảnh của một vận động viên chạy nước rút tạo khoảng cách với phần còn lại của gói. Nhưng ở đó, không có gì phát triển trong giọng nói của Thomas. Hers là một trong những bộ đường ống mang tính biểu tượng trong lịch sử âm nhạc linh hồn, mạnh mẽ nhưng có thể chính xác. H.B Barnum đã sắp xếp phiên bản Thomas của bài hát, và anh ấy đã tranh thủ Jimmy Norman để đưa ra lời bài hát. Theo truyền thuyết, Norman đã viết xong những từ chỉ một lúc trước khi Thomas vào phòng thu.

72: The Cannonball Adderley Quintet - Mercy, Mercy, Mercy (1966)

Mercy Mercy, Mercy, Mercy, là một cú hích bất ngờ cho The Cannonball Adderley Quintet, một lát Jazz Soul đã tìm thấy nhiều khán giả nhờ sự pha trộn của các cấu trúc nhạc jazz và giai điệu nhạc pop. Giai điệu đó chủ yếu được thúc đẩy vào đầu của Joe Zawinul. . Loại ma thuật.

71: Merle Haggard - Mama đã thử (1968)

Giống như tất cả các bài hát đồng quê tuyệt vời, Merle Haggard đã phóng đại một chút về Mama Mama đã thử. Anh ta được truyền cảm hứng để viết bài hát sau khi bị kết án cướp và phục vụ ba năm trong nhà tù San Quentin. Nó có một cú hích khuấy động đối với những người phụ nữ làm việc hàng giờ mà không nghỉ ngơi, và một lời xin lỗi từ cậu bé từ chối cư xử. Câu chuyện chỉ là một nửa câu chuyện, mặc dù. Sự pha trộn của Haggard, của Honky-Tonk Swing và các bài hát của Bakersfield Country trong thập niên 60 đã tạo tiền đề cho những năm 70 ngoài vòng pháp luật như Waylon Jennings và Willie Nelson. Sự pha trộn của Haggard sườn của sự đồng cảm, hối hận và không sẵn lòng thay đổi đã trở thành chủ lực của thể loại này.Willie Nelson. Haggard’s blend of empathy, remorse, and unwillingness to change became staples of the genre.

Mama đã thử (Remastered 2001)

Bấm để tải video

70: Van Morrison - Cô gái mắt nâu (1967)

Van Morrison đã tham gia một phiên thu âm hai ngày vào năm 1967, trong thời gian đó, ông đã thu âm tám bài hát, tạo nên bốn đĩa đơn. Cô gái mắt Brown Brown đã bị bắt giữ trong lần thứ 22 đi vào ngày đầu tiên, nhưng kết quả rõ ràng là xứng đáng. Cô gái mắt Brown Brown, đã nhanh chóng trở thành một mặt hàng chủ lực trong đĩa hát của mình và một kiệt tác nhạc rock mềm, là tiền thân của việc anh ấy tiến tới âm nhạc ảo giác lấy cảm hứng từ dàn nhạc hơn vào những tuần lễ. Một minh chứng cho sự vượt thời gian của nó, các trang bìa đã được các nghệ sĩ sản xuất rất đa dạng như Adele, Cá lớn cá, xung thép và U2.Steel Pulse, and U2.

69: Gal Costa - Baby (1969)

Có rất nhiều lịch sử được đóng gói vào Gal Costa trong thời gian. Mặt hàng chủ lực của Tropicália là thính giác tương đương với một ngày hoàn hảo ở bãi biển, trước khi thuộc da bắt đầu bị cháy nắng và sự cháy nắng chắc chắn bắt đầu bong tróc. Bên cạnh những sự tương tự đau đớn, Costa xông vào bé đã được Caetano Veloso chấp bút và nổi tiếng với một mặt hàng chủ lực khác của cảnh sterling Tropicália, Os Mutantes. Phiên bản của Costa, được phát hành vào năm 1969, và các chuỗi xoay quanh và vướng vào âm thanh giọng nói của cô ấy giống như họ đến trực tiếp từ một phiên phát hiện cho một số lượng phim của thập niên 40. Bên cạnh Veloso, người ủng hộ giọng nói xuất sắc của Costa, với những bản hòa âm, Costa đã tạo ra một trong những bài hát tuyệt vời của phong trào Tropicália.

68: Kinks - Bạn thực sự có tôi (1964)

Có nên là Sunset Waterloo Sunset không? Có lẽ. Nhưng chúng tôi muốn làm nổi bật Ray Davies đã tuyệt vời như thế nào kể từ những ngày đầu tiên là một nhạc sĩ. Theo Davies, bạn thực sự có được tôi là một trong năm bài hát đầu tiên anh ấy viết. Trong quan niệm ban đầu của nó, bài hát dựa trên piano, và ổn định thành một rãnh phòng chờ mà khác xa với phiên bản mà bạn nghe thấy ngày nay. Bài hát được lấy cảm hứng từ College Lust, một đêm đặc biệt trong đó Davies đang biểu diễn và thấy một cô gái trong đám đông làm anh ta thích thú. Khi bộ của anh kết thúc và anh đi tìm cô, cô đã biến mất. Phần lớn bài hát Bí ẩn xoay quanh bản solo guitar hoành tráng đó, mà Jon Lord of Deep Purple tuyên bố đã được Jimmy Page ghi lại trước khi tham gia Yardbirds và cuối cùng, Led Zeppelin. (Đây là một tuyên bố mà trang luôn phủ nhận.)Led Zeppelin. (This is a claim that Page has always denied.)

67: Bobbie Gentry - Ode to Billie Joe (1967)

Hạt Chickasaw, Mississippi cách Delta nổi tiếng khoảng hai giờ, nhưng trên Od Ode đến Billie Joe, ông Bobbie Bobbie Gentry đã từ bỏ nơi sinh của mình để đắm mình trong một câu chuyện xoay quanh một thảm kịch đồng bằng. Cấm Ode to Billie Joe, là một bài hát dân gian hoàn hảo, phong phú với chi tiết và trí tưởng tượng trong quan điểm. Gentry ngồi vào một gia đình phản ứng với một cậu bé địa phương nhảy khỏi cây cầu đến chết. Gentry hát từ POV của con gái gia đình, người có sự đồng cảm trái ngược hoàn toàn với sự thờ ơ của gia đình cô. Nó là một bài hát mạnh mẽ của bi kịch miền Nam, nhiều như một cuốn tiểu thuyết vì nó là một giai điệu dân gian dài bốn phút.

66: Bộ ba Ramsey Lewis - Đám đông trong đám đông

Nó là một trong những bài hát nhạc cụ tuyệt vời của thập niên 60 và Ramsey Lewis có một máy chủ quán cà phê có tên Nettie Gray để cảm ơn. Năm 1965, Ramsey Lewis Trio ngồi trong một quán cà phê ở Washington, D.C., đã cố gắng tìm ra bài hát nào để thêm vào danh sách tập hợp của họ. Nhóm đã được đặt cho một cuộc chạy tại Bohemian Caverns, cùng một địa điểm nơi họ đã thu âm một album trực tiếp một năm trước đó. Danh sách tập hợp mà họ đang định hình đã được thiết lập để thông báo cho album trực tiếp tiếp theo. Nettie, người đang phục vụ họ vào thời điểm đó, đã đi đến quán cà phê Jukebox và chơi trò The The Indrow của Dobie Gray, đây là một hit phổ biến vào thời điểm đó. Lewis đã thực hiện một bản tái hiện với ban nhạc của anh ấy, và họ đã kết thúc bộ của họ tại Caverns với nó ngay vào đêm đó. Nó đã nhận được những tràng pháo tay rất lớn, và cuối cùng đã trở thành một hit, biểu đồ trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và R & B.

65: Kingsmen - Louie Louie (1963)

Các Kingsmen chơi Garage Rock trước khi thuật ngữ tồn tại. Phiên bản Richard Berry của họ, Lou Louie Louie, đã xảy ra gần như một cách tình cờ. Vào năm 1962, khi chơi một buổi biểu diễn tại Câu lạc bộ Pypo ở bờ biển, Oregon, ban nhạc đã nghe phiên bản Rockin Rockin Robin Roberts của phiên bản của Louie Louie Louie, được chơi trên máy hát tự động trong nhiều giờ. Mọi người trong câu lạc bộ sẽ đổ lên sàn nhảy, khiến máy hát tự động chú ý hơn nhiều so với ban nhạc từng nhận được. Đáp lại, ca sĩ nhóm nhóm, Jack Ely, đã thuyết phục các Kingsmen tìm hiểu bài hát mà họ nhanh chóng thu âm sau khi thấy phản ứng tương tự trên sàn nhảy.

64: Wendy Carlos-Phát minh hai phần trong F Major

Trong một bài viết cho tạp chí tối thứ bảy, nghệ sĩ piano nổi tiếng Glenn Gould được gọi là Bach đã chuyển đổi một trong những thành tựu đáng kinh ngạc nhất của ngành ghi âm trong thế hệ này. Album, bao gồm các tác phẩm của Bach được chế tác tỉ mỉ bởi Wendy Carlos trên bộ tổng hợp Moog, mất khoảng năm tháng và một nghìn giờ để sản xuất. Nhạc cụ mới, để nói rằng ít nhất, một con thú khó tính. Theo tiểu sử của Amanda Sewell, về Carlos, nhà soạn nhạc có thể tạo ra một biện pháp hoặc hai âm nhạc trước khi bộ tổng hợp bị loại bỏ. Tuy nhiên, kết quả đã trở thành một cảm giác, đứng đầu bảng xếp hạng cổ điển của Billboard trong ba năm liên tiếp.

63: Joe Bataan - Subway Joe (1968)

Vài bài hát của thập niên 60 ghi lại một thành phố đặc biệt giống như Joe Bataan trong Subway Subway Joe Hồi minh họa thành phố New York. King of Latin Soul được sinh ra ở New York, người Tây Ban Nha Harlem vào năm 1942. Bataan đã mang thực tế của mình vào băng, dệt những câu chuyện tuyệt vời về cuộc sống trong khu phố của tầng lớp lao động từ quan điểm của một người tham gia đam mê. Joe lớn lên trong các khu nhà của El Barrio, nơi anh được tiếp xúc với sự pha trộn ly kỳ của nhạc pop, tiếng Latin, doo-wop và R & B-tất cả đều được đưa vào âm nhạc của anh, đặc biệt là Subway Subway Joe. Ca khúc xung với năng lượng của New York, với Bataan thực tế xác định thể loại linh hồn Latin khi bài hát tiến triển. Đó là một câu chuyện hài hước về một chuyến đi đáng nhớ trên tàu điện ngầm, và nó khó có thể có được nhiều New York hơn thế.

62: Simon & Garfunkel – The Sound Of Silence (1965)

“The Sound of Silence” is a perfect 60s folk-pop song, though it took a while for the duo to get to the track as it’s heard today. An original acoustic version was included on their 1964 album, Wednesday Morning, 3 A.M. The album was a commercial failure and it led to Simon & Garfunkel breaking up. But in 1965, the song began to attract airplay at radio stations in Boston, Massachusetts, and throughout Florida. Tom Wilson, the song’s producer, remixed the track, overdubbing electric instruments and drums. This remixed version was released as a single in September 1965, though Simon & Garfunkel were not informed of the song’s remix until after its release. Two years later, and it became the soundtrack to one of the most important films of the 1960s, The Graduate.

61: Babatunde Olatunji – Jin-Go-Lo-Ba (1960)

After listening to the opening notes of Babatunde Olatunji’s “Jin-Go-Lo-Ba,” it’s nearly impossible to keep your body still. If you have blood coursing through your veins, you’re bound to get moving – whether it’s a foot tap or a full-throated repetition of Olatunji and his chorus’ call and response. The song, featured on Olatunji’s album Drums of Passion, showcases how much power lies in the time-tested combination of catchy vocals and a groovy rhythm. The Nigerian drummer, activist, and educator’s “Jin-Go-Lo-Ba” was a standout on a surprisingly successful record, one that many point to as a key introduction to American appreciation of “world music.”

60: The Zombies – Time of the Season

“Time of the Season” didn’t come quickly enough to save The Zombies. Upset by their lack of success, the group disbanded, only for “Time of the Season” to become a classic a year after its release. Several other songs from Odessey and Oracle were released as singles prior to “Time of the Season.” Columbia Records was skeptical of the album’s potential, but they put their weight behind it at the behest of new A&R representative Al Kooper. The band and Kooper were eventually vindicated, but only after Kooper successfully fought for “Time”… and waited for the public to catch up to its pop-psych charms.

59: The Velvet Underground – I’m Waiting For The Man (1967)

If the typical American citizen was freaked out by The Byrds singing about being “eight miles high,” it’s hard to imagine their reaction to Lou Reed singing about standing on the corner waiting to buy 26 bucks worth of heroin. Sure, it was one of the first popular songs to glamourize slinging drugs, but it was also one of the most forward-thinking, cool rock songs of the 60s. The guitar crunches with lo-fi abandon, and Lou Reed’s disaffected cool gives the song an ambivalent edge that predated the indie era of the 80s and 90s There’s not a corner of rock music that doesn’t have The Velvet Underground’s fingerprints all over it. It’s both a social commentary and a track that’s too cool for school, a rare combination.

58: Etta James - cuối cùng (1960)

Có một vài khoảnh khắc hoàn hảo trong lịch sử âm nhạc, nhưng một vài khoảnh khắc ngắn ngủi đó trong thời gian cuối cùng khi sự rung động còn lại của các chuỗi chấm dứt và giọng nói của Etta James xuất hiện, Acapella, khi cô đi vào dòng mở đầu của Last. " Trước khi tiếng trống xuất hiện với mô hình vung vẩy quen thuộc đó, trước khi cây đàn piano xuống quy mô như một người leo núi trở về từ đỉnh núi, trước khi những chuỗi đó phản ứng với các cuộc gọi khao khát của James, ở đó, Etta, tất cả đều ở một mình. Có một sự thân mật với ca khúc này, với giọng nói của Etta, thực tế không thể lặp lại trong âm nhạc hiện đại. Cô ấy có vẻ như cô ấy hát trực tiếp cho bạn, dành bài hát tình yêu hoàn hảo này cho một khoảnh khắc bạn từng chia sẻ.Etta James’ voice emerges, acapella, as she dives into the opening line of “At Last.” Before the drums come in with that familiar swung pattern, before the piano descends the scale like a mountain climber returning from summit, before those strings respond to James’ yearning calls, there’s Etta, all alone, at her finest. There’s an intimacy to this track, to Etta’s voice, that is practically irreplicable in modern music. She sounds like she’s singing directly to you, dedicating this perfect love song to a moment you once shared.

57: Steppenwolf - Sinh ra là Wild (1968)

Mặc dù bài hát của Steppenwolf, sinh ra là Wild Wild là một sự đóng gói đáng chú ý của nhạc rock thập niên 60, nhưng nó hầu như được nhớ đến vì đã sử dụng trong Easy Rider, bộ phim độc lập, đột phá đã gây ra một cuộc cách mạng làm phim của Mỹ. Rằng bán nó ngắn: Sinh ra để trở thành Wild Wild cũng thường được trích dẫn là bài hát đầu tiên của Metal Metal, hoặc, ít nhất, một số phiên bản của Proto-Metal. Và, điều quan trọng là, tự đứng lên như một tác phẩm sáng tác nhạc rock cổ điển.Steppenwolf’s song “Born To Be Wild” is a remarkable encapsulation of 60s rock ‘n’ roll, it’s mostly remembered for its use in Easy Rider, the seminal, groundbreaking indie movie that sparked a revolution of American filmmaking. That’s selling it short: “Born To Be Wild” is also often cited as the first “metal” song, or, at the very least, some version of proto-metal. And, crucially, stands up just fine on its own as a classic piece of rock songwriting.

56: Ban nhạc - Trọng lượng (1968)

Với Trọng lượng, ban nhạc đã cố gắng đưa chủ nghĩa siêu thực cho dòng chính, dịch tác phẩm phim biểu tượng phong phú của các auteurs như Ingmar Berman và Luis Buñuel thành bài hát. Giai điệu được điền bởi các nhân vật đầy màu sắc được lấy từ các cuộc gặp gỡ ngoài đời thực của nhóm, và khung cảnh thành phố, Nazareth, Pennsylvania, đã được chọn vì đây là nhà của Martin Guitars. Nhưng đối với tất cả các nền tảng, thì Trọng lượng cũng có chức năng như một bài hát rock dân gian phi thường, trong đó ban nhạc đã tạo ra nhiều người. Tay trống Levon Helm xử lý giọng hát, trong khi Rick Danko đang ở trên bass và có một vết nứt ở câu thứ tư. Giống như hầu hết các bài hát của ban nhạc, Trọng lượng đã được thúc đẩy bởi các bản hòa âm. Mọi thành viên trong nhóm đều có thể hát, nhưng trong khi các chàng trai Beach tản nhiệt trong các phần giọng hát của họ trong Technicolor Candy, ban nhạc thích làm nổi bật màn trình diễn của họ với một chút bụi bẩn và thuốc lá.The Band attempted to bring surrealism to the mainstream, translating the richly symbolic film work of auteurs like Ingmar Berman and Luis Buñuel into song. The tune is populated by colorful characters taken from the group’s real-life encounters, and the city setting, Nazareth, Pennsylvania, was chosen because it was the home of Martin Guitars. But for all the background, “The Weight” also functions as an extraordinary folk-rock song, of which The Band created many. Drummer Levon Helm handles the vocals, while Rick Danko is on the bass and takes a crack at the fourth verse. Like most songs by The Band, “The Weight” was propelled by harmonies. Every member of the group could sing, but while The Beach Boys laced their vocal parts in technicolor candy, The Band liked to rough up their performances with a little bit of dirt and tobacco.

55: Stan Getz & João Gilberto Feat. Antonio Carlos Jobim - Cô gái từ Ipanema (1964)

Cô gái từ Ipanema, là bài hát Jazz Bossa Nova dứt khoát của thập niên 60. Bài hát ban đầu được viết vào năm 1962, với âm nhạc của Antônio Carlos Jobim và lời bài hát Bồ Đào Nha của Vinícius de Moraes. Lời bài hát tiếng Anh được viết sau đó bởi Norman Gimbel. Phiên bản Stan Getz/João Gilberto ngay lập tức trở thành một hit, với sự ra mắt của giọng hát của vợ João, Astrud Gilberto. Bài hát và album đánh dấu sự hợp tác đột phá giữa nghệ sĩ saxophone người Mỹ Getz và biểu tượng Brazil Gilberto. Bài hát mà chúng tôi biết và tình yêu thực sự được rút ngắn từ phiên bản trong album cũng bao gồm lời bài hát Bồ Đào Nha được hát bởi João Gilberto. Bài hát là một hit trên khắp thế giới, mang về một giải Grammy để thu âm trong năm.Antônio Carlos Jobim and Portuguese lyrics by Vinícius de Moraes. English lyrics were written later by Norman Gimbel. The Stan Getz/João Gilberto version immediately became a hit, featuring the vocal debut of João’s wife, Astrud Gilberto. The song and album marked a groundbreaking collaboration between the American saxophonist Getz and the Brazilian icon Gilberto. The song we know and love is actually shortened from the version on the album which had also included the Portuguese lyrics sung by João Gilberto. The song was a hit throughout the world, taking home a Grammy for Record of the Year.

54: Patsy Cline - Crazy (1961)

Patsy Cline sườn 1961 Đĩa đơn Tôi Fall To Pieces, là bài hát đầu tiên của cô ấy lên bảng xếp hạng Billboard Country. Tuy nhiên, ngay sau khi bài hát trở thành một hit, Cline đã bị thương nặng trong một tai nạn ô tô, buộc cô phải dành một tháng trong bệnh viện. Sau khi hồi phục, cô đã phát hành Crazy Crazy, một trong những bản nhạc lớn nhất mà nhạc đồng quê từng thấy. Ai biết chuyện gì đã xảy ra trong bệnh viện đó, nhưng Cline nổi lên một megastar. Bài hát ban đầu được chấp bút bởi Willie Nelson, và chồng cô, Charlie Dick, cầu xin cô ghi lại nó. Cline từ chối. Tôi không quan tâm đến những gì bạn nói. Tôi không thích nó và tôi sẽ ghi lại nó. Và điều đó, mà cô ấy đã nói với anh ấy. Khi cô đến trường quay, Dick đã thuyết phục cô thử tay vào đó, và kết quả là tự giải thích. Patsy Cline là một ngôi sao nữ quốc gia trước khi mọi người quen với khái niệm này, khắc một làn đường cho chính mình và ảnh hưởng đến một thế hệ phụ nữ tương lai sẵn sàng croon.’s 1961 single “I Fall to Pieces” was her first song to top the Billboard country chart. Shortly after the song became a hit, though, Cline was seriously injured in an automobile accident, forcing her to spend a month in the hospital. After recovering, she released “Crazy,” one of the biggest hits country music had ever seen. Who knows what happened in that hospital, but Cline emerged a megastar. The song was originally penned by Willie Nelson, and her husband, Charlie Dick, implored her to record it. Cline refused. “I don’t care what you say. I don’t like it and I ain’t gonna record it. And that’s that,” she purportedly told him. When she arrived at the studio, Dick convinced her to try her hand at it, and the result is self-explanatory. Patsy Cline was a female country star before people were used to the concept, carving a lane for herself and influencing a generation of future women ready to croon.

53: Jane Birkin và Serge Gainsbourg - Je T hèaime, Moi Non Plus

Nó khó có thể truyền một bài hát với năng lượng khiêu dâm nhiều hơn Serge Gainsbourg đã làm với nhóm Je Je Tiênaime, Moi Non Plus. Ca khúc, được dịch theo, tôi yêu bạn, tôi cũng không được chấp bút cho Brigitte Bardot vào năm 1967. Gainsbourg đang hẹn hò với Bardot và cô ấy đã yêu cầu anh ấy viết bài hát lãng mạn nhất có thể. Anh ấy nghĩ ra hai. Một trong những người khác và người nổi tiếng. Sau khi Gainsbourg cố gắng thu âm bài hát với Bardot, tin tức đã đến với chồng rằng sự hợp tác đang xảy ra, và cô đã cầu xin Gainsbourg không phát hành nó. Anh ấy đã chấp nhận nhưng đã xem lại bài hát một năm sau đó khi anh ấy bắt đầu hẹn hò với Birkin. Phiên bản của họ là một trong những bài hát pop được tính tình dục nhất của thập niên 60, với sự hấp dẫn của Birkin và Gainsbourg, với nhau có thể sờ thấy trong mỗi dòng họ hát.Serge Gainsbourg did with “Je t’aime… moi non plus.” The track, which is roughly translated to, “I love you, me neither,” was originally penned for Brigitte Bardot in 1967. Gainsbourg was dating Bardot and she asked him to write the most romantic song he could. He came up with two. “Je t’aime” and “Bonnie and Clyde.” After Gainsbourg attempted to record the song with Bardot, news reached her husband that the collaboration was happening, and she begged Gainsbourg not to release it. He acquiesced but revisited the song a year later when he began dating Birkin. Their version is one of the most sexually charged pop songs of the 60s, with Birkin and Gainsbourg’s attraction to each other palpable in every line they sing.

52: Celia Cruz - Bemba Colorá (1966)

Celia Cruz sẽ khiến bạn nhảy, nhưng các bài hát của cô ấy cũng buộc bạn phải đối mặt với thực tế chính trị của thập niên 60 ở Cuba. Được phát hành vào năm 1966, có lẽ là Rumba chống phân biệt chủng tộc nổi tiếng nhất trong lịch sử âm nhạc, nhưng không dễ để trích xuất những chủ đề mạnh mẽ này từ sự phẫn nộ của sừng và phản ứng giữa Cruz và ban nhạc ủng hộ của cô ấy . Cruz, thông thường được biết đến với cái tên Nữ hoàng của Salsa, đã rời quê hương Cuba vào đầu những năm 1960, trở thành một trong những phát ngôn viên của cộng đồng Cuba lưu vong. Hers là một lịch sử hấp dẫn đưa ra những câu hỏi về bản sắc và cộng đồng, nhưng trên Bemba Colorá, mà Cruz đã thực hiện với Tito Puente, Nữ hoàng của Salsa đánh vào hit bao gồm của mình với các rãnh không thể phủ nhận.

Celia Cruz - Bemba Colora

Bấm để tải video

51: David Bowie - Không gian Oddity (1969)

Bạn có thể được tha thứ vì đã bật âm lượng trên tai nghe sau khi nhấn chơi trên không gian kỳ quặc, chỉ để có đôi tai của bạn khi đoạn điệp khúc xuất hiện. Bản hit của David Bowie, 1969 luôn bắt đầu lặng lẽ hơn dự kiến, dành nhiều thời gian để giảm bớt một trong những bản hợp xướng vĩ đại nhất trong lịch sử nhạc rock. Bài hát được lấy cảm hứng từ bộ phim Stanley Kubrick, 2001: A Space Odyssey, được phát hành một năm trước đó. Trong khi Kubrick vô trùng và chính xác, Bowie là bánh xe tự do và ngây ngất. Trống thực hiện một biến thể thô của một cuộc tuần hành quân sự, trong khi Bowie đếm chúng ta xuống và cầu xin chúng ta uống thuốc protein. Bạn biết những gì sắp tới khi Bowie hát, Lift Lifoff, nhưng nó không bao giờ cũ. Sự pha trộn âm thanh nổi chia màn trình diễn giọng hát của anh ấy vào mỗi tai, và đột nhiên, bạn là một phi hành gia, với David Bowie chúc mừng bạn trên một cuộc đổ bộ mặt trăng thành công.David Bowie’s 1969 hit always starts more quietly than expected, taking ample time to ease its way to one of the greatest choruses in rock history. The song was inspired by Stanley Kubrick’s film, 2001: A Space Odyssey, released a year earlier. Whereas Kubrick is sterile and exacting, Bowie is free-wheeling and ecstatic. The drums perform a rough variation of a military march, while Bowie counts us down and implores us to take our protein pills. You know what’s coming when Bowie sings, “liftoff,” but it never gets old. The stereo mix splits his vocal performance into each ear, and suddenly, you’re an astronaut, with David Bowie congratulating you on a successful moon landing.

50: Ennio Morricone - The Good, The Bad & The Ugly (Chủ đề chính) (1966)

Quay lưng lại với nhau, tiến ba bước về phía trước, quay lại, vẽ. Mặc dù chủ đề của Ennio Morricone, từ The Good, The Bad & The Ugly dựa vào giọng hát không lời để gợi lên phương Tây trong tất cả vinh quang lớn của nó, phần mở đầu của chủ đề đã được mở ra ngay lập tức gợi lại trận đấu cuối cùng trong một trận đấu của Sergio Leone Western. Phần tốt, The Bad & the Ugly (chủ đề chính) đã trở thành một ẩn dụ cho các bản nhạc phương Tây nói chung. Và đó là lý do tại sao nó thuộc về một danh sách các bài hát hay nhất của thập niên 60. Năm 1966, nhạc nền đã đạt vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Billboard, chủ yếu là do sự sáng chói hỗn loạn của tiếng huýt sáo, phi nước đại và các yelps tạo ra tác phẩm của Morricone. Vài khoảnh khắc nhạc phim trong lịch sử phim phù hợp với lực lượng cảm xúc tuyệt đối của nó.

49: Johnny Cash - Ring of Fire (1963)

Mặc dù rơi vào một vòng lửa có vẻ như là một đề xuất đáng ngại, nhưng nó khác xa với những gì tháng 6 Carter Cash và Merle Kilgore dự định khi họ viết bản hit. Bài hát tình yêu ban đầu được ghi lại bởi chị gái tháng sáu, Anita Carter, và mặc dù bài hát đã thất bại ở cấp độ thương mại, Johnny quyết định đâm vào đó sau khi anh nghe buổi biểu diễn được hỗ trợ bởi một ban nhạc mariachi trong một giấc mơ. Cash đã thu âm bài hát như giấc mơ của anh dự định, và kết quả là một bài hát quốc gia phương Tây hàng thập kỷ trước thời đại. Nó pha trộn cấu trúc quốc gia truyền thống với sự mờ nhạt của các thể loại, khiến nó trở thành một bản hit crossover mọi thời đại giữa những người hâm mộ quốc gia và các tín đồ âm nhạc Latin.Cash recorded the song as his dream intended, and the result is a country-western song decades ahead of its time. It blends traditional country structure with a blurring of genres, making it an all-time crossover hit amongst country fans and Latin music devotees alike.

48: Hugh Masekela - Chăn thả trên cỏ (1968)

Christopher Walken sẽ không bao giờ hét lên một chiếc chuông nhiều hơn vào Saturday Night Live nếu anh ấy chỉ đơn giản là điều khiển phiên họp cho Hugh Masekela Hồi Bell-Laden năm 1968 hit, gặm cỏ trên cỏ. Bài hát bắt đầu với những nốt nhạc thứ 16 được phát trên chuông, trước khi tiếng trống đến với cảm giác nửa thời gian và những chiếc sừng xuất hiện trên một dòng piano đang trượt. Nó có một lớp học chính trong sự căng thẳng nhịp nhàng, với tiếng kèn tuyệt vời của Masekela, chơi nhảy múa trên tất cả sự hỗn loạn. Bài hát đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard ở Hoa Kỳ, mặc dù đây là bài hát cuối cùng được thêm vào album đầu tay của Masekela, sau khi nhãn được coi là bản thu âm ba phút quá ngắn so với thời gian chạy LP đầy đủ. Bên cạnh Masekela, huyền thoại Greenwich Village Bruce Langhorne và huyền thoại bass nhạc jazz Henry Franklin đã làm tròn dàn diễn viên All-Star.Hugh Masekela’s bell-laden 1968 hit, “Grazing in the Grass.” The song begins with 16th notes played on the cowbell, before the drums come in with a half-time feel and the horns arrive atop a skittering piano line. It’s a masterclass in rhythmic tension, with Masekela’s brilliant trumpet playing dancing above all the chaos. The song reached number one on the Billboard charts in the United States, although it was the last song added to Masekela’s debut album, after the label deemed the record three minutes too short of a full LP run time. Alongside Masekela, Greenwich Village legend Bruce Langhorne and jazz bass legend Henry Franklin rounded out the all-star cast.

47: Loretta Lynn - Thành phố nắm tay (1968)

Loretta Lynn có một vài quy tắc. Donith nhìn vào người đàn ông của cô ấy, don lồng chạm vào người đàn ông của cô ấy, don thậm chí còn nghĩ về người đàn ông của cô ấy trừ khi bạn muốn mông của bạn bị đá, tất nhiên. Thành phố Fist Fist, Lynn Lynn, Ode đến những người phụ nữ cắt còng trên, những người làm mồi cho chồng trong khi cô ấy đi lưu diễn, là một bài hát cấp tiến từ một ngôi sao của nhạc đồng quê. Vào những năm 60, đất nước là một thể loại người đàn ông, và chiến đấu là một trò chơi của người đàn ông. Loretta đã thay đổi tất cả những điều đó, vênh vang lên hiện trường với một cái móc trái có ý nghĩa và giọng nói ngọt ngào nhất mà bạn từng nghe. Các thành viên của câu lạc bộ các chàng trai đã không thích cô ấy đến phải đối phó với sự lên ngôi của cô ấy, trừ khi họ muốn chịu đựng số phận giống như những người phụ nữ của thành phố Fist Fist: Trên mặt đất với một đôi môi đầy máu.

46: Phép lạ - Bản nhạc của nước mắt tôi (1965)

Những bản nhạc của nước mắt của tôi là một hit kỳ diệu, được sinh ra trong nhà máy thành công lớn nhất trong lịch sử âm nhạc linh hồn. Nhưng lời bài hát bắt đầu trong phòng tắm Smokey Robinson. Một ngày nọ, tôi đang cạo râu, và tôi nhìn vào gương, anh ấy nói với NPR vào năm 2014 đã làm." Ca khúc, với phần guitar mở đầu mang tính biểu tượng và giọng hát theo phong cách doo-wop, đã trở thành một trong những bài hát hay nhất về Heartbreak in a World đầy chúng. Nhưng đừng nói lời của chúng tôi vì nó: Bài hát đã được giới thiệu vào Hội trường danh vọng Grammy, đã được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ xếp hạng là bài hát hay nhất của thế kỷ thứ 127 #50 Trong trò chơi của họ, 500 bài hát hay nhất mọi thời đại của họ.Smokey Robinson’s bathroom. “One day I was shaving, and I looked in the mirror,” he told NPR in 2014. “And I said what if a person had cried so much until, if you look closely at their face, you could see tracks that their tears had made.” The track, with its iconic opening guitar part and doo-wop style vocals, became one of the best songs about heartbreak in a world full of them. But don’t take our word for it: The song has been inducted into The GRAMMY Hall of Fame, has been ranked by the Recording Industry Association of America as the 127th best “Songs of the Century,” and Rolling Stone included the track at #50 in their “The 500 Greatest Songs of All Time.”

45: Gilberto Gil - Aquele Abraço (1969)

Trong câu thơ đầu tiên của Gilberto Gil, 1969 Samba Sensation, Hồi Aquele Abraço, Hồi Gilberto đối xử với cây đàn guitar như nó làm bằng thủy tinh. Không có lời giải thích nào khác cho twang tinh tế của anh ta. Nó giống như anh ấy hầu như không chơi. Nhưng sau đó đến một đoạn điệp khúc mở rộng, kèm theo tiếng còi, giọng hát ủng hộ và một bộ gõ, và tất cả, Gil đối xử với nhạc cụ của mình như nó đã sai trong kiếp trước. Tất cả điều này để nói, Gil là một bậc thầy về thao túng, có thể sử dụng khối lượng và crescendos để nhấn mạnh cảm xúc và sự chuyển động của các bài hát của anh ấy. Có lẽ là một trong những bài hát Samba nổi tiếng nhất từ ​​trước đến nay, đã được chấp bút trong thời kỳ độc tài quân sự và kiểm duyệt văn hóa ở Brazil. Gil vừa xuất hiện từ một nhà tù quân sự và bị bắt giữ tại nhà, nơi anh ta viết ra Aquele. Sau khi bị đày đến châu Âu vào năm 1970, bài hát vẫn là một hit lớn ở Brazil, trở thành một tiếng khóc tập hợp cho các nhà hoạt động chính trị ở đất nước háo hức thay đổi.

44: The Byrds - Cao tám dặm (1966)

Byrds bao gồm một số nhạc sĩ giỏi nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, bao gồm Gene bị đánh giá thấp vĩnh viễn Clark, Jim (Roger) McGuinn và David Crosby. Họ đã làm cho nhạc rock ảo giác bị ảnh hưởng nặng nề bởi ragas Ấn Độ, nơi đang trở nên phổ biến bởi người chơi Sitar Ravi Shankar và John Coltrane, trong phong cách. Tám dặm cao, theo tiêu chuẩn của thế kỷ 21, là một ca khúc vô hại, nhưng trở lại vào những năm 60, bài hát đã bị cấm từ đài phát thanh Mỹ vì lời bài hát của nó. Nhưng bộ phim xung quanh bài hát này ít thú vị hơn phong cách mà nó đã giúp mở ra, điều này pha trộn nhạc psych của các ban nhạc như The Beatles với thử nghiệm diễn ra trong thế giới nhạc jazz.

43: Miriam Makeba - Pata Pata (1967)

Rất lâu trước khi các bài hát rap được sử dụng làm thức ăn gia súc cho các biên đạo múa đầy tham vọng, nghệ sĩ người Nam Phi Miriam Makeba đã tham gia buổi khiêu vũ truyền thống của Pata Pata Pata và sử dụng nó cho bài hát của riêng mình. Tiêu đề của bài hát, Pata pata pata, có nghĩa là cảm ứng cảm ứng, trong ngôn ngữ Xhosa, trong đó bài hát ban đầu được viết và hát vào năm 1959. . Chính ở đó, Makeba đã lấy cảm hứng cho bản nhạc mà ban đầu cô đã thu âm với ban nhạc The Skylarks. Sau khi tự đặt tên cho mình ở Hoa Kỳ, cô đã ghi lại bài hát vào năm 1967 với Jerry Ragovoy, và nó nhanh chóng trở thành một hit. Phiên bản của Makeba, những năm 60 của bài hát pha trộn nhịp điệu châu Phi đẩy của thời thơ ấu của cô với các rãnh samba tinh tế và một dòng giọng hát truyền nhiễm.

42: Shangri-Las-Lãnh đạo của The Pack (1964)

Trở nên trẻ và yêu là cảm giác tốt nhất trên trái đất. Trở nên trẻ trung và đau lòng, cảm thấy như một bi kịch chưa bao giờ được nhân rộng trong lịch sử của hành tinh này. Không ai nắm bắt được mức cao và mức thấp rơi vào chu kỳ này khá giống Shangri-Las và người lãnh đạo thành công của họ. Bài hát ban đầu được chấp bút bởi George, Shadow Shadow Morton cùng với Jeff Barry và Ellie Greenwich. Bài hát ban đầu được viết cho The Goodies, nhưng được trao cho Shangri-Las, người cần theo dõi cho Hồi nhớ (đi bộ trên cát). Nó đã trở thành một tác phẩm kinh điển ngay lập tức, không chỉ bởi vì việc sử dụng các âm thanh được tìm thấy sáng tạo như vòng quay xe máy và bộ gõ sáng tạo.

41: Tammy Wynette - Stand By Your Man (1969)

Người đứng của bạn là người đàn ông của bạn có trọng lượng văn hóa, tất cả đều đánh lạc hướng khỏi thực tế rằng bản hit phổ biến nhất của Wynette chỉ đơn giản là một trong những bài hát đồng quê hay nhất từng được viết. Bài hát là một cây gậy sét khi phát hành vào cuối những năm 60 khi phong trào nữ quyền Mỹ đang tiến lên trong dòng chính trong thập kỷ tiếp theo, nhưng Wynette luôn khăng khăng rằng bài hát không phù hợp hơn là nhìn ra những sai sót trong những sai sót mà bạn yêu và quý. Bài hát được cho là được viết trong 15 phút bởi Wynette và nhà sản xuất của cô, Billy Sherrill, và ca sĩ ban đầu bày tỏ sự do dự vì đó là một con cừu đen rõ ràng trong đĩa hát của cô cho đến thời điểm đó - và bao gồm một ghi chú mà cô gặp khó khăn khi tiếp cận. Tuy nhiên, trước đó, bài hát đã trở thành một điểm uốn mang tính biểu tượng trong âm nhạc đồng quê và bài hát nổi tiếng nhất của Wynette.

40: Desmond Dekker & The Aces - Israel (1968)

Đôi khi một cuộc đi bộ tốt đẹp trong công viên có thể thúc đẩy ý tưởng tuyệt vời nhất của bạn. Ít nhất, đó là những gì Desmond Dekker nói. Biểu tượng reggae lần đầu tiên gặp phải ý tưởng cho kiệt tác của mình, Hồi giáo Israel, trong khi tình cờ nghe thấy một cuộc tranh cãi trong công viên. Anh ta đang ăn một ít bỏng ngô, quan tâm đến công việc kinh doanh của chính mình, khi một cặp vợ chồng bắt đầu tranh cãi về việc đã trao đổi bao nhiêu tiền. Dekker đã hạ cánh trên tình cảm làm việc cả ngày với mức lương không đủ, và khi anh ấy về nhà từ thời gian của mình, bài hát đã hoàn thành. Đây vẫn là một trong những bài hát reggae thành công nhất mọi thời đại, xâm nhập vào bảng xếp hạng Billboard và mang đến những rung cảm rocksteady cho một khán giả xa lạ vào năm 1968.Desmond Dekker says. The reggae icon first encountered the idea for his masterpiece, “Israelites” while overhearing an argument in a park. He was eating some popcorn, minding his own business, when a couple started arguing about how much money was exchanging hands. Dekker landed on the sentiment of working all day for not enough pay, and by the time he got home from his sojourn, the song was complete. It remains one of the most successful reggae songs of all-time, infiltrating the Billboard charts and bringing rocksteady vibes to an unfamiliar audience in 1968.

39: Glen Campbell - Lineman Wichita (1968)

Glen Campbell thích hát về những nơi. Tất nhiên, năm 1968 của Wichita Lineman, tất nhiên, là về Wichita, và hit tiếp theo của ông, Gal Galveston, đã nói về thành phố ven biển Texas. Sự hấp dẫn của Campbell đối với các chủ đề này đến từ cách những nơi thể hiện tính cách của những người sống ở đó. Được viết bởi Jimmy Webb, Hồi Lineman đã được truyền cảm hứng từ một chuyến đi qua Hạt Washita ở vùng nông thôn Tây Nam Oklahoma. Webb đã cung cấp một phiên bản hoàn thành của bài hát cho Capitol Records, nhưng phiên bản của anh ấy bị thiếu phần giữa. Campbell đã nảy ra ý tưởng để lấp đầy không gian trống này bằng một bản độc tấu guitar mọi thời đại. Đó là một cuộc gọi trở lại Campbell, những ngày đầu với tư cách là một người chơi phiên với đội phá hoại nổi tiếng, nhiều người mà anh ấy đã tuyển dụng để biểu diễn trên Lineman Lineman. liked to sing about places. 1968’s “Wichita Lineman” was, of course, about Wichita, and his next hit, “Galveston,” was about the coastal Texas city. Campbell’s attraction to these themes came from the way places expressed the character of the people that lived there. Written by Jimmy Webb, “Lineman” was inspired by a trip through Washita County in rural southwestern Oklahoma. Webb delivered a completed version of the song to Capitol Records, but his version was crucially missing a middle section. Campbell came up with the idea to fill this empty space with an all-time guitar solo. It was a call back to Campbell’s early days as a session player with the famed Wrecking Crew, many of whom he recruited to perform on “Lineman.”

Wichita lineman (Remastered 2001)

Bấm để tải video

38: Kem - Sunshine of Your Love (1967)

Nếu bạn đã từng phạm sai lầm, bạn có thể thoải mái vì thực tế là bạn có thể không sai như Ahmet Ertegun và Jerry Wexler đã trở lại vào năm 1967. Cream, từ đầu ra mắt của họ, Fresh Cream, đã sẵn sàng LP thứ hai cho hồ sơ Đại Tây Dương của Ertegun. Bộ đôi này ghét Cream, âm thanh rung động, rung động mới, với Wexler thậm chí còn gọi các bản demos là psychedelic Hogwash. Rõ ràng, Wexler đã sai, bởi vì Sun Sunshine của tình yêu của bạn không chỉ được đưa vào album thứ hai cuối cùng của ban nhạc, Disraeli Gears, mà còn được thực hiện. Trong khi Clapton, chơi và hát chắc chắn đã đi một chặng đường dài trong việc thuyết phục Ertegun và Wexler rằng họ đã phạm sai lầm, thì đó là Booker T. Jones và Otis Redding đồng ký tên là Sun Sunshine của tình yêu của bạn, cuối cùng đã thuyết phục Ertegun và Wexler về lỗi của họ.Cream, off the heels of their debut, Fresh Cream, were readying their second LP for Ertegun’s Atlantic Records. The duo hated Cream’s new hard-rocking, ear-shattering sound, with Wexler even calling the demos “psychedelic hogwash.” Wexler was wrong, obviously, because “Sunshine of Your Love” was not only included on the band’s eventual second album, Disraeli Gears, but was made a single. While Clapton’s playing and singing surely went a long way in convincing Ertegun and Wexler that they were making a mistake, it was Booker T. Jones and Otis Redding co-signing “Sunshine Of Your Love” that eventually convinced Ertegun and Wexler of their error.

37: Isaac Hayes - Đi bộ trên (1969)

Số lượng tên huyền thoại được liên kết với Walk Walk On by là đáng kinh ngạc. Nó ban đầu được sáng tác bởi Burt Bacharach, với lời bài hát của Hal David, cho ca sĩ Dionne Warwick vào năm 1963. Khó để đứng đầu, phải không? Don Tiết nói với Isaac Hayes, người đã biến bài hát thành một tình yêu tình yêu, oi bức và nóng bỏng. Ngoài các khoản tín dụng đẳng cấp thế giới, phiên bản Hayes, 1969 đã trở thành chủ yếu cho các nhà sản xuất rap, người đã lấy mẫu bài hát nhiều lần. MCS đáng chú ý để nhổ những phần của Walk Walk On By? 2pac, b.i.g., MF Doom và gia tộc Wu-Tang. Phiên bản của Hayes, của Walk Walk On By là một bản hit hiếm hoi tồn tại và là một phần quan trọng trong lịch sử thể loại khác.Isaac Hayes, who turned the song into a baby-making love jam, sultry and sizzling. Aside from its world-class credits, Hayes’ 1969 version became a staple for rap producers, who sampled the song over and over. Notable MCs to spit over parts of “Walk on By”? 2Pac, The Notorious B.I.G., MF DOOM, and the Wu-Tang Clan. Hayes’ version of “Walk on By” is the rare hit that exists on its own and as a crucial part of another genre’s history.

36: Buffalo Springfield - Vì những gì nó có giá trị (1966)

Hầu hết mọi người liên kết Buffalo Springfield, vì những gì mà nó có giá trị với tình cảm chống chiến tranh, nhưng ý định của Stephen Stills, ban đầu có phạm vi nhỏ hơn nhiều. Ban đầu, ông được truyền cảm hứng để viết bài hát vì cuộc bạo loạn giới nghiêm của Sunset Strip vào tháng 11 năm 1966 rằng cảnh sát mạnh mẽ chống lại những người trẻ tuổi nổi loạn chống lại hiện trạng (nghe có quen không?). Bất kể ý định là gì, nó rất dễ hiểu tại sao thành phần Stills đã tạo ra một tác động như vậy. Bài hát năm 1966, trong đó có Neil Young trên guitar, cũng hấp dẫn như nó mạnh mẽ. Chorus nhấn mạnh nhận thức, nhưng nó cũng dễ dàng hát theo. Đối với những gì nó có giá trị, ban đầu được viết như một phản ứng với sự hỗn loạn trên dải hoàng hôn, nhưng bây giờ nó là một trong những bài hát hay nhất của thập niên 60 và một thẻ gọi cho các nhà hoạt động hòa bình trên toàn thế giới.Neil Young on guitar, is as catchy as it is powerful. The chorus implores awareness, but it’s damn easy to sing along to, as well. “For What It’s Worth” was originally written as a response to chaos on the Sunset Strip, but now it’s one of the best songs of the 60s and a calling card for peace activists across the world.

35: Jorge Ben - Mas, Que Nada! (1963)

Ồ, o Estado de S. Paulo đã sai làm sao! Sau khi phát hành Jorge Ben, Samba Esquema Novo, tờ báo lớn thứ tư của Brazil dự đoán rằng hồ sơ sẽ nhanh chóng biến mất khỏi các cửa hàng, giống như những năm 78 trước đó của Ben. Nhưng bài báo đã không thấy album Ben Ben sâu sắc - và, Mas Mas, Que Nada! Đặc biệt - sẽ định hình tương lai của âm nhạc samba. Album, có tiêu đề dịch sang phong cách mới Samba, rõ ràng trong khát vọng của nó. Ben đã mang đến một viễn cảnh mới cho thể loại này, một phong cách sẽ ảnh hưởng đến một thế hệ người chơi Samba và Nam Mỹ mới.

34: Cửa ra vào - Light My Fire (1967)

Giống như rất nhiều bài hát của các cánh cửa, Light Light My Fire đã rút ra từ những ảnh hưởng khác biệt. Bài hát ban đầu được viết bởi guitarist Robby Krieger, người đã lấy cảm hứng từ giai điệu của Hồi Hey Joe, và lời bài hát của The Rolling Stones, trò chơi chơi với lửa. Sau đó, tay trống John Densmore cho rằng nó nên có nhịp điệu Latin. Ngay sau đó, organist Ray Manzarek đã thêm mô típ cơ quan giới thiệu chịu ảnh hưởng của Bach, bởi vì tại sao không? Densmore vòng tròn trở lại để đề nghị rằng nó nên mở với một tiếng trống bẫy duy nhất. Trên tất cả các ý tưởng này, toàn bộ phần solo được lấy cảm hứng từ phiên bản bìa John Coltrane, của những điều yêu thích của tôi. Đó nói chung là cách âm nhạc tâm lý từ tính của các cánh cửa hoạt động. Họ đã hành động như một máy xay sinh tố, lấy các nguyên liệu từ các cảnh đá, nhạc jazz và blues, và biến nó thành một thứ gì đó khác và không thể sao chép.The Doors, “Light My Fire” pulled from disparate influences. The song was originally written by guitarist Robby Krieger, who took inspiration from the melody of “Hey Joe” and the lyrics of The Rolling Stones’ “Play with Fire.” Then, drummer John Densmore suggested that it should have a Latin rhythm. Shortly after, organist Ray Manzarek added the Bach-influenced introductory organ motif, because…why not? Densmore circled back to suggest that it should open with a single snare drum hit. On top of all of these ideas, the entire solo section was inspired by John Coltrane’s cover version of “My Favorite Things.” That’s generally how the magnetic psych-pop music of The Doors worked. They acted as a blender, taking ingredients from across the rock, jazz, and blues scenes, and turning it into something otherworldly and impossible to replicate.

33: Booker T. và MG, hành lá (1962)

Có hai loại người trên thế giới này: những người biết Booker T.and the MG, hành lá, những người biết bài hát nhưng chỉ cần don biết tên. Ca khúc này là một trong những bản nhạc dễ nhận biết nhất trong lịch sử âm nhạc Mỹ, một dòng nhạc blues đơn giản mà bằng cách nào đó không bao giờ cũ. Các cầu thủ thay phiên nhau thay đổi nhịp điệu. Đầu tiên, có một bản solo organ, sau đó là tiếng guitar của một cây đàn guitar, sau đó trở lại organ, sau đó trở lại cây đàn guitar. Nó là một công thức đơn giản, nhưng đôi khi đơn giản là điều khó nhất. Giai điệu truyền nhiễm đưa bài hát về phía trước được viết bởi Booker T. khi anh ta mới 17 tuổi.Booker T.And The MG’s “Green Onions,” and those that know the song but just don’t know the name. The track is one of the most recognizable in American music history, a simple blues line that somehow never gets old. The players take turns vamping over the rhythm. First, there’s an organ solo, then the squawking yelp of a guitar, then back to the organ, then back to the guitar. It’s a simple formula, but sometimes simplicity is the hardest thing to do. The infectious melody that moves the song forward was written by Booker T. when he was just 17. When most of us were just learning how to drive, Booker was redefining American R&B for generations to come.

32: Caetano Veloso - Tropicália (1968)

Các chuỗi cratchy xoáy trên đầu, giống như một âm nhạc còn thiếu cho Alfred Hitchcock, The Birds. Nó ngay lập tức rõ ràng bạn là một lãnh thổ mới, được báo trước, có lẽ là Brazil, quê hương của Caetano Veloso. Veloso là một nhân vật tiên phong trong phong trào Tropicália, đã lọc một số thể loại từ cả phía đông và phía tây qua ống kính Brazil. Ca khúc bùng nổ với năng lượng, một âm thanh thực sự mặc khải khi phát hành vào năm 1968. Bài hát dành một chút thời gian để đá vào thiết bị, nhưng một khi giọng nói ngọt ngào và đường có đường của Veloso tham gia vào các nhạc cụ, nó trở nên rõ ràng tại sao anh ta, và Tropicália, Hồi đã rất không thể thiếu đối với phong trào đang phát triển cùng tên.

31: Big Brother & The Holding Company – Piece of My Heart (1967)

Jance Joplin had the blues in her spirit, which is why she so easily channeled it into a sprawling form of rock ‘n’ roll on 60s classics like “Piece of My Heart.” Joplin’s take on the track was so unique, so original, that Erma Franklin, who first released the song in 1967, didn’t recognize it as her own when she heard it on the radio. She infused the pain and triumph of the blues into the song, a skill she honed in the image of early blues stars like Bessie Smith.

30: The Jackson 5 – I Want You Back (1969)

Believe it or not, “I Want You Back” was the first national single by the Jackson 5. It arrived via Motown on October 7, 1969, and became the first No.1 hit for the band just a few months later. It marked a new era, as it signaled the arrival of Michael Jackson, who single-handedly altered the course of music, first with his siblings and later as the most successful solo artist in pop history. “I Want You Back” was performed on the band’s first television appearances, like Diana Ross‘s The Hollywood Palace and on their groundbreaking performance on The Ed Sullivan Show. The song, though, almost never made its way to The Jackson 5. It was originally considered for Gladys Knight & the Pips and later for Diana Ross.

29: The Mamas & The Papas – California Dreamin’ (1965)

John and Michelle Phillips were sitting in their New York City apartment, huddling together for warmth, doing whatever possible to avoid the piercing cold seeping in from the city streets. It was all worth it, it turns out, as that feeling of hopelessness spawned “California Dreamin’” a tune as crucial to the mythos of sunny Los Angeles and the Bay Area as anything ever recorded to tape. The Mama & Papas (of which the Phillips’ were the main songwriters) created a song that tapped into both the idea of Manifest Destiny and 60s California as a haven for new ideas, new cultures, and a harmony unavailable anywhere else.

28: Nancy Sinatra – These Boots Are Made For Walkin’ (1965)

That descending guitar line is impossible to forget. There’s something about the way it slings towards its concluding note – one that you know will come but still surprises when it arrives. “These Boots” was originally penned for Lee Hazlewood, who figured he’d record the song himself. Nancy, however, played into the trope of female country singers being sweet and unbecoming, convincing Hazlewood that “Boots” would be too intimidating coming from a man. It ended up being for the best: “These Boots Are Made For Walkin’” remains one of the most iconic country songs of all time, covered by artists from all genres, but replicated by very few.

27: Frankie Valli - Có thể rời mắt khỏi bạn (1967)

Bob Gaudio, một thành viên ban đầu của Four Seasons và là đồng tác giả trên nhóm Can Can Lem My Eyes Yo You, Hồi luôn nhớ bài hát này là một bài hát gần như biến mất trong sự lãng quên. Được ghi nhận vào năm 1967, Gaudio và Valli đã dựa vào CKLW, nơi phục vụ khu vực Metro Detroit, để đưa bài hát vào vòng quay, thực tế đảm bảo một số mức độ thành công. Nhưng Paul Drew, giám đốc chương trình tại nhà ga, ban đầu đã vượt qua giai điệu. Đó là cho đến khi anh ấy thấy Valli biểu diễn trực tiếp, anh ấy đã quyết định thêm nó vào vòng quay của nhà ga, và khi quay đầu tiên, bài hát đã trở thành một cú đánh lớn. Bạn có thể rời mắt khỏi bạn, bạn đã vượt qua thời gian, và gần đây hơn là không gian. Cổ điển thập niên 60 đã được NASA sử dụng như một bài hát thức dậy trên STS-126 Space Shuttle Mission năm 2008.

26: Pete Rodriguez - Tôi thích nó như vậy (1967)

Dù bạn có tin hay không, trước khi Cardi B nổi lên với tôi thích nó, có hai nhạc sĩ, tên là Tony Pabon và Manny Rodriguez, người đã làm một bài hát về cách họ thích mọi thứ trở lại vào năm 1967. Pabon đã hát bài hát cho bài hát , trong khi các nhạc cụ được biểu diễn bởi Dàn nhạc Pete Rodriguez. Bài hát, có lẽ nổi tiếng với sự pha trộn tiên phong của lời bài hát tiếng Anh, giọng hát gọi và trả lời, nhịp điệu samba và giai điệu Cuba, đã kết hợp một số phong cách thành một hodgepodge không thể chối cãi. Giai điệu không thể tin được bài hát đã làm cho nó thức ăn cho cover, mẫu và sắp xếp lại, với sự mất điện All-Stars phát hành một phiên bản, và Burger King áp dụng sự kiềm chế cho một trong những quảng cáo của họ.

25: Toots và Maytals-54-46 đó là số của tôi (1968)

Càng 54-46 mà số của tôi là một trong những bài hát reggae đầu tiên nhận được sự phổ biến rộng rãi bên ngoài Jamaica, và vẫn được coi là một thời điểm xác định trong toàn cầu hóa thể loại này. Giao hàng của Toots, thư giãn và vui tươi, trống lớn và vui nhộn. Lời bài hát mô tả thời gian của Toots trong tù sau khi bị bắt vì sở hữu cần sa, mặc dù những rung cảm tích cực don don phản bội trầm cảm liên quan đến việc bị nhốt. Dù bằng cách nào, bài hát đã giúp xác định cảnh Rocksteady của thập niên 60 ở Jamaica, và được coi là tiền thân của phong cách du lịch có ảnh hưởng lớn của reggae, sẽ đóng một vai trò nặng nề trong sự trưởng thành của âm nhạc điện tử Mỹ trong những năm 1990 và 2000s.Toots’ delivery is relaxed and playful, the drums massive and jangly. The lyrics describe Toots’ time in prison after being arrested for possession of marijuana, though the positive vibes don’t betray the depression associated with being locked up. Either way, the song helped define the 60s rocksteady scene in Jamaica, and is widely seen as a precursor for the highly influential dub style of reggae, which would go on to play a heavy role in the maturation of American electronic music in the 1990s and 2000s.

24: The Supreme - Bạn có thể vội vàng tình yêu (1966)

Nó tất cả về sự kiên nhẫn. Tình yêu don don đến dễ dàng. Lời khuyên âm thanh của nó đã làm cho tất cả những gì ngọt ngào phát ra từ tiếng nói của Supreme, Diana Ross, một trong những giọng nói quan trọng nhất trong R & B và Soul. Bạn có thể vội vã tình yêu, được viết bởi đội ngũ sản xuất Motown nổi tiếng, Holland, Dozier, Holland Holland, và là một câu chuyện thành công ngay lập tức và đáng kinh ngạc, đứng đầu bảng xếp hạng độc thân của Billboard. Với Funk Brothers cung cấp nhạc cụ, câu chuyện Supreme, về việc để tình yêu đến vào thời gian là một trong những bài hát bán kết từ những năm 60 Motown, một người nổi bật trong số những tác phẩm kinh điển như tình yêu của chúng ta đi đâu? và dừng lại! Nhân danh tình yêu. ”The Supremes’ Diana Ross, one of the most important voices in R&B and soul. “You Can’t Hurry Love” was written by the famed Motown production team, Holland–Dozier–Holland, and was an immediate and staggering success story, topping the Billboard pop singles chart. With The Funk Brothers providing instrumentation, The Supremes’ tale of letting love arrive in due time is one of the seminal songs from 60s Motown, a standout amongst a bevy of classics like “Where Did Our Love Go?” and “Stop! In The Name Of Love.”

23: Frank Sinatra - Con đường của tôi (1969)

Điều duy nhất từ ​​tính hơn so với đôi mắt xanh của Frank Sinatra, là giọng nói nhung của anh ấy. Mặc dù đặt tên của anh ấy cùng với các ban nhạc lớn, nhưng những sự tinh tế trong giọng nói của Sinatra, luôn được nhấn mạnh trên những giai điệu đơn giản hơn, như bản nhạc tuyệt vời của tôi, từ năm 1969. Sinatra có Paul Anka để cảm ơn vì bài hát không thể xóa nhòa này. Đó là Anka, người đã nghe phiên bản gốc của Pháp khi đi nghỉ ở miền Nam nước Pháp, và ngay lập tức bay tới Paris để đàm phán các quyền đối với tác phẩm. Từ đó, Sinatra uốn cong cơ bắp của mình, chuyển từ những quan sát yên tĩnh sang thắt lưng trên phổi.Frank Sinatra’s blue eyes is his velvet voice. Despite making his name blasting alongside big bands, the subtleties in Sinatra’s voice were always highlighted on simpler tunes, like the brilliant “My Way” from 1969. Sinatra has Paul Anka to thank for this indelible 60s song. It was Anka who heard the original French version while on vacation in the South of France, and immediately flew to Paris to negotiate the rights to the composition. From there, Sinatra flexed his muscles, moving from quiet observations to top-of-his-lungs belting.

22: Sam Cooke - Một sự thay đổi sẽ đến (1964)

Việc tạo ra Sam Cooke, một sự thay đổi sẽ trở nên phong phú với lịch sử. Có một câu chuyện hậu trường, trong đó Cooke dành một phòng trọ với vợ Barbara, chỉ bị từ chối khi đến vì họ là người da đen. Họ rời khỏi tài sản sau khi Cooke chiến đấu, thổi còi xe của họ và hét lên những thám hiểm trên đường ra. Vào thời điểm họ đến một nhà nghỉ khác, cảnh sát đã đến và bắt giữ Cooke vì đã làm xáo trộn hòa bình. Điều này, ngoài việc Cooke, hấp dẫn với Bob Dylan trong thời gian trong gió, và thực tế là một bài hát phản đối mạnh mẽ như vậy có thể được thực hiện bởi một người đàn ông da trắng, đã khiến Cooke cuối cùng tham gia vào các vấn đề chủng tộc với tư cách là một nhạc sĩ. Trong suy nghĩ của anh ta, quyết định của anh ta sẽ khiến anh ta phải trả giá nhiều cho khán giả da trắng của mình, nhưng Cooke quyết định viết tác phẩm kinh điển trong khí quyển phong phú của anh ta, quyết tâm nói lên suy nghĩ và nhu cầu thay đổi. Chúng tôi rất may mắn anh ấy đã làm.Sam Cooke’s “A Change Is Gonna Come” is rich with history. There’s the backstory, in which Cooke reserved a motel room with his wife Barbara, only to be turned away upon arrival because they were Black. They left the property after Cooke put up a fight, blaring their car horn and shouting expletives on their way out. By the time they reached another motel, the police had arrived, and arrested Cooke for disturbing the peace. This, in addition to Cooke’s enrapture with Bob Dylan’s “Blowin’ In The Wind,” and the fact that such a powerful protest anthem could be made by a white man, led Cooke to finally engage with racial issues as a songwriter. The decision would, in his mind, cost him much of his white audience, but Cooke decided to write his richly atmospheric, string-laden classic, determined to speak his mind and demand change. We’re all fortunate he did.

21: Alton Ellis - Tôi vẫn còn yêu bạn (1967)

Vài bài hát đã thu hút được các đặc điểm của âm nhạc Jamaica khá giống Alton Ellis, trong thời gian, tôi vẫn yêu bạn. Cả hai khi nó được phát hành vào năm 1967, và trong thời hiện đại hơn, đường ray của Vua The King of Rocksteady đã có tác động của Mammoth đối với sự tiến hóa của reggae, Rocksteady và nhiều lần lặp lại khác nhau trong văn hóa âm nhạc chính thống. Nhịp của bài hát đã được nhiều ngôi sao sử dụng kể từ khi bản gốc của Ellis được phát hành, bao gồm cảm giác trên toàn thế giới năm 1977 của Althea và Donna Cổ điển đã truyền cảm hứng cho các thế hệ nhạc sĩ, nhưng một vài bản tái hiện khá khó khăn như bản gốc của Ellis.

20: Ike & Tina Turner - River Deep Mountain High (1966)

River River Deep Mountain High bắt đầu đơn giản. Giọng Tina Turner, rõ ràng là tuyệt vời, nhưng trên đỉnh giọng hát và một bộ sưu tập nhạc cụ ù ù, nó không đặc biệt nổi bật so với các buổi biểu diễn mang tính biểu tượng khác từ ca sĩ nổi tiếng. Nhưng khoảng ba mươi giây trong, một cái gì đó thay đổi và giọng nói của cô ấy sáng lên như một bảng quảng cáo neon. Thật bất ngờ, nó rõ ràng tại sao cô ấy được coi là giọng ca hàng đầu của thế hệ của cô ấy. Nó là một màn trình diễn sterling, quay phim, hơi khàn khàn, cực kỳ cảm xúc. Bài hát, được sản xuất bởi Phil Spector, có giá 22.000 đô la khi nó được thu âm vào năm 1966, khiến nó trở thành một trong những bài hát đắt nhất trong thập niên 60. Để đạt được phong cách tường đặc trưng của Spector, ông đã thuê 21 nhạc sĩ phiên để đi cùng Turner. Bản ghi âm của cô là một bài tập đặc biệt mệt mỏi, và Turner kể lại rằng cô đã đổ mồ hôi quá nhiều đến nỗi cuối cùng cô đã ghi âm trong áo ngực. Bài hát, bị che giấu trong truyền thuyết và kịch, vẫn là một trong những khoảnh khắc tuyệt vời của sự nghiệp Turner, một thành tựu đáng kinh ngạc khi xem xét có bao nhiêu hit mà cô ấy đã gắn bó.

19: Creedence Clearwater Revival - Con trai may mắn (1969)

Bộ phim nào xuất hiện trong tâm trí khi bạn nghe thấy sự giao hàng của John Fogerty, trong những khoảnh khắc mở đầu của Creedence Clearwater Revival, một người may mắn? Có phải là Forrest Gump? Biệt đội cảm tử? Logan Lucky? Bất kể, người con trai may mắn có tình trạng hiếm hoi là một hit chính hãng cho cả ban nhạc và trong ngành công nghiệp điện ảnh. Được xem rộng rãi là một trong những bài hát phản đối tuyệt vời trong lịch sử Hoa Kỳ, người con trai may mắn với niềm đam mê và catharsis. Và, mặc dù nó đã được sử dụng vô số lần trong các bộ phim, nhưng nó không bao giờ bị mất sức mạnh.John Fogerty’s yelping delivery in the opening moments of Creedence Clearwater Revival’s “Fortunate Son”? Is it Forrest Gump? Suicide Squad? Logan Lucky? Regardless, “Fortunate Son” has the rare status as a genuine hit both for the band and within the film industry. Widely viewed as one of the great protest songs in American history, “Fortunate Son” sears with passion and catharsis. And, even though it’s been used countless times in films, it’s never lost its power.

Creedence Clearwater Revival - Con trai may mắn (video âm nhạc chính thức)

Bấm để tải video

18: Máy bay Jefferson - Thỏ trắng (1967)

Thỏ trắng có cấu trúc như một leo núi. Nó tất cả lên dốc, lên dốc, khó khăn, và sau đó bạn đạt đến đỉnh cao và nó đã vượt qua. Được phát hành vào năm 1967 và được truyền cảm hứng trực tiếp bởi Alice in Wonderland, Slick đã viết lời bài hát trong nỗ lực trừng phạt các bậc cha mẹ, những người đọc tiểu thuyết của con họ như Alice và sau đó trở nên bối rối khi những đứa trẻ đó bắt đầu dùng thuốc. . không có phạm vi để hát).

17: Neil Diamond - Sweet Caroline (1969)

Neil Diamondneed để có được câu chuyện của mình. Ca sĩ mang tính biểu tượng thường lật đổ nguồn gốc của món caroline ngọt ngào. Tại một thời điểm, bài hát kinh điển của thập niên 60 được lấy cảm hứng từ một Caroline Kennedy trẻ tuổi, với giai điệu chiến thắng thưởng thức niềm vui của tuổi trẻ. Sau đó, Diamond khẳng định rằng bài hát là một sự tôn vinh cho vợ Marcia, nhưng anh ta cần một cái tên với ba âm tiết. Bất kể nguồn gốc là gì, thì Sweet Sweet Caroline đã trở thành một bài quốc ca bền bỉ và một bài hát người hâm mộ New York Yankees trên toàn cầu hoàn toàn sợ hãi. Bài hát đã được thông qua bởi Fenway Park Faithful trước khi người đứng đầu Boston Red Sox để dơi ở cuối hiệp thứ 8. Nó là một bài hát thể thao hiếm hoi không liên quan gì đến thể thao, một megahit đàn hồi được viết cho một người phụ nữ nhưng biến thành một thứ mà tất cả chúng ta có thể hát theo.needs to get his story straight. The iconic singer has often flip-flopped on the origins of “Sweet Caroline.” At one point, the classic 60s song was inspired by a young Caroline Kennedy, with the triumphant tune relishing the joy of youth. Later on, Diamond asserted that the song was a tribute to his wife Marcia, but he needed a name with three syllables. Regardless of origin, “Sweet Caroline” has become an enduring anthem and a song New York Yankees fans across the globe absolutely dread. The song has been adopted by the Fenway Park faithful before the Boston Red Sox head to bat in the bottom of the 8th inning. It’s the rare sports song that has nothing to do with sports, an elastic megahit written for a woman but turned into something we can all sing along to.

16: Ray Charles - Georgia trong tâm trí tôi (1960)

Ban đầu, Georgia Georgia, ban đầu được viết vào năm 1930 bởi Hoagy Carmichael và Stuart Gorrell, và lần đầu tiên ghi lại cùng năm đó bởi Hoagy Carmichael. Bài hát thực tế đã trở thành một bản gốc của Ray Charles, sau khi anh đưa nó vào album năm 1960 của mình, The Genius lên đường. Phiên bản Charles, khá đơn giản là một trong những bài hát nổi tiếng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, từ phiên bản gốc đến bìa từ Willie Nelson, Michael Bolton và Wes Montgomery. Nelson đã thực hiện nó tại đám tang Charles, trong đó nhanh chóng trở thành một trong những bản biểu diễn mạnh mẽ nhất của bài hát. Giọng nói của Charles, bùng nổ qua sự pha trộn trong bản gốc, đứng trên đỉnh các hợp âm piano mượt mà của anh ấy, giọng hát ủng hộ và một nhóm dây sưng. Phiên bản Charles, đã chính thức ra lệnh cho bài hát nhà nước của Georgia vào năm 1979, mang đến một tiêu đề chính thức cho thời điểm âm nhạc quan trọng nhất của bang bang.Ray Charles original, though, after he included it on his 1960 album, The Genius Hits The Road. Charles’ version is quite simply one of the most popular songs in American history, from its original version to covers from Willie Nelson, Michael Bolton, and Wes Montgomery. Nelson performed it at Charles’ funeral, in what quickly became one of the most powerful renditions of the song. Charles’ voice booms through the mix in the original, standing atop his smooth piano chords, backing vocals, and a swelling group of strings. Charles’ version was officially decreed the State Song of Georgia in 1979, giving an official title to the state’s most important musical moment.

15: Jimi Hendrix - Tất cả dọc theo Tháp Canh (1968)

Sau khi John Wesley Harding, tác phẩm kinh điển của Bob Dylan, John Wesley Harding được phát hành vào năm 1967, nhà báo Michael Goldstein, người làm việc cho người quản lý của Dylan, Albert Grossman, đã cho Jimi Hendrix một bản sao của hồ sơ. Hendrix sau đó đã lấy một trong những bài hát, tất cả dọc theo Tháp Canh, về cơ bản đã gắn một loạt các tên lửa chai và gửi nó lên mặt trăng. Hendrix ban đầu đã tuyển dụng Leave Mason, Hendrix để chơi một cây guitar 12 dây, nhưng sau khi bassist Noel Redding rời phiên trong sự thất vọng, Hendrix đã nghe và chuyển Mason đến bass. Nó khó có thể làm cho sự hỗn loạn âm thanh dễ dàng này, nhưng ít ai có thể kéo sự chuyển đổi này dễ dàng hơn Hendrix.Jimi Hendrix a copy of the record. Hendrix then took one of the songs, “All Along the Watchtower,” essentially attached a bunch of bottle rockets, and sent it to the moon. Hendrix initially recruited Traffic-legend Dave Mason to play a 12-string guitar, but after bassist Noel Redding left the session in frustration, Hendrix audibled and moved Mason to the bass. It’s hard to make chaos sound this effortless, but few could pull this transformation off more easily than Hendrix.

14: Marvin Gaye - Tôi đã nghe nó qua The Grapevine (1968)

Chúng tôi đã dao động giữa cái này và người Ain Ain không có núi cao đủ cao với Tammi Terrell, nhưng cuối cùng lại cảm thấy rằng đây là khoảnh khắc Marvin xác định của thập niên 60. Đó là kế hoạch. Marvin Gaye xông vào Tôi đã nghe nó thông qua Grapevine, hầu như không bao giờ được phát hành như một đĩa đơn. Bài hát - theo kiểu Motown điển hình - được ghi lại bởi một số nghệ sĩ nhãn hiệu. Gladys Knights và Pips đã khiến nó trở thành một hit, vì vậy Berry Gordy đã truyền lại việc đưa nó ra như một giai điệu độc lập. Một khi nó lên kệ như một phần của Gaye, trong rãnh, các DJ sẽ không ngừng chơi nó. Gordy đã mủi lòng và bài hát đã đạt đến đỉnh cao của các bảng xếp hạng, cuối cùng trở thành đĩa đơn bán hàng lớn nhất trong lịch sử Motown (đến thời điểm đó). Bài hát nó thay thế cho tiêu đề đó? Một tác phẩm kinh điển khác của thập niên 60: Tôi đã nghe thấy nó qua The Grapevine, bởi Gladys Knight và Pips.Marvin Gaye’s “I Heard It Through The Grapevine” was almost never released as a single. The song – in typical Motown fashion – was recorded by a number of the label’s artists. Gladys Knights and the Pips made it a hit, so Berry Gordy passed on putting it out as a stand-alone tune. Once it hit the shelves as part of Gaye’s In the Groove, the DJs wouldn’t stop playing it. Gordy relented and the song hit the top of the charts, eventually becoming the biggest selling single in Motown’s history (to that point). The song it replaced for that title? Another 60s classic: “I Heard It Through the Grapevine” by Gladys Knight and the Pips.

Tôi đã nghe nó qua các nhà nho

Bấm để tải video

13: Os Mutantes - A Minha Menina (1968)

Các đột biến hệ điều hành vẫn còn đi trước thời kỳ hiện đại. Một người Minha Menina là một bài hát trong tương lai, được phát hành vào cuối những năm 60. Nhóm này là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy các ban nhạc như The Beatles rất phổ biến ở khắp mọi nơi, và các nhóm mới có thể nội suy các phong cách này thành những ý tưởng mới đáng kinh ngạc. Đây là một ban nhạc Nam Mỹ, biến một bản gốc của Jorge Ben thành một chuyến tàu chở hàng của một bài hát, hoàn chỉnh với một bản độc tấu guitar và giọng hát của Hendrix-esque, đôi khi giống như một bộ tứ tiệm hớt tóc. Os Mutantes đối xử với biên giới như Kool-Aid Man đối xử với các bức tường, dậm chân trên mọi khái niệm được hình thành trước trên đường hướng tới một sự thật ngây ngất về sức mạnh của âm nhạc.

12: Martha và Vandellas - Nhảy múa trên đường phố (1964)

Khiêu vũ trên đường phố bắt đầu với ý định khiêm tốn. Bài hát, được viết bởi William, Mickey Mickey Stevenson, Ivy Jo Hunter và Marvin Gaye được truyền cảm hứng một phần từ Stevenson chứng kiến ​​những đứa trẻ tự mát bằng một vòi cứu hỏa ở Detroit. Nhưng căng thẳng chủng tộc vào giữa những năm60 đã khiến các nhà hoạt động đen chấp nhận bài hát này như một bài hát phản đối, kêu gọi những người biểu tình tràn ngập đường phố để kháng chiến với luật pháp Jim Crow. Bài hát này rất phổ biến khi phát hành ban đầu, nhưng một phần sức mạnh lưu trú của nó đến từ cách nó đại diện cho một trong những thời đại quan trọng nhất trong lịch sử nước Mỹ.

Khiêu vũ trên đường phố (âm thanh nổi)

Bấm để tải video

13: Os Mutantes - A Minha Menina (1968)

Các đột biến hệ điều hành vẫn còn đi trước thời kỳ hiện đại. Một người Minha Menina là một bài hát trong tương lai, được phát hành vào cuối những năm 60. Nhóm này là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy các ban nhạc như The Beatles rất phổ biến ở khắp mọi nơi, và các nhóm mới có thể nội suy các phong cách này thành những ý tưởng mới đáng kinh ngạc. Đây là một ban nhạc Nam Mỹ, biến một bản gốc của Jorge Ben thành một chuyến tàu chở hàng của một bài hát, hoàn chỉnh với một bản độc tấu guitar và giọng hát của Hendrix-esque, đôi khi giống như một bộ tứ tiệm hớt tóc. Os Mutantes đối xử với biên giới như Kool-Aid Man đối xử với các bức tường, dậm chân trên mọi khái niệm được hình thành trước trên đường hướng tới một sự thật ngây ngất về sức mạnh của âm nhạc.Otis Redding’s life. It was an incredible swan song for an artist that helped build Stax Records in the 60s. Its seemingly simple subject matter – someone watching the tide rolling in and out, reflecting on their life – is universal, allowing the listener to fill in the blanks any which way they want. The whistling coda is similarly open-ended, sounding carefree or lonely, depending on your frame of mind. (According to co-writer Steve Cropper, it only came about because Redding couldn’t remember what ad-libs he wanted to add to the song.)

12: Martha và Vandellas - Nhảy múa trên đường phố (1964)

Bấm để tải video

13: Os Mutantes - A Minha Menina (1968)

Các đột biến hệ điều hành vẫn còn đi trước thời kỳ hiện đại. Một người Minha Menina là một bài hát trong tương lai, được phát hành vào cuối những năm 60. Nhóm này là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy các ban nhạc như The Beatles rất phổ biến ở khắp mọi nơi, và các nhóm mới có thể nội suy các phong cách này thành những ý tưởng mới đáng kinh ngạc. Đây là một ban nhạc Nam Mỹ, biến một bản gốc của Jorge Ben thành một chuyến tàu chở hàng của một bài hát, hoàn chỉnh với một bản độc tấu guitar và giọng hát của Hendrix-esque, đôi khi giống như một bộ tứ tiệm hớt tóc. Os Mutantes đối xử với biên giới như Kool-Aid Man đối xử với các bức tường, dậm chân trên mọi khái niệm được hình thành trước trên đường hướng tới một sự thật ngây ngất về sức mạnh của âm nhạc.’s Packard hearse gave Queen Elizabeth seriously bad vibes. Townshend’s vehicle was such an eyesore for Queen Elizabeth that, after passing it on her daily drive, she demanded it be towed. Townshend channeled this injustice into the song “My Generation,” a 60s anthem for outsiders everywhere looking for acceptance. The song is less about fitting in than being allowed to not fit in. Lyrically, the song changed rock ‘n’ roll history, and Roger Daltry’s signature sneer as he delivers the line, “I hope I die before I get old” has been spewed by rebellious teenagers towards their parents ever since. Like much of The Who’s earlier Mod output, the song is heavily indebted to American rhythm and blues, most notably in the call-and-response arrangement of the lyrics. Daltry’s occasional stutter has also been the subject of debate, with some suggesting he’s impersonating a Mod high on methamphetamines. Regardless of Daltry’s intention, it’s one of the most impactful vocal tics to emerge from the 60s. It’s an era-defining song, an anthem for anyone without a community.

Thế hệ của tôi (Hỗn hợp âm thanh nổi 2014)

Bấm để tải video

09: The Ronettes - Be My Baby (1963)

Stomp. Stomp stomp vỗ tay. Stomp. Stomp stomp vỗ tay. Mô hình trống đã được khắc vào văn hóa phổ biến của Mỹ như Elvis hay cờ Mỹ. Được chơi bởi Hal Blaine, bài hát đã được bắt chước bởi rất nhiều nhạc sĩ, nhưng rất ít người đạt được giai điệu mà Blaine có thể tạo ra với tiếng trống bẫy của mình. Bài hát được viết bởi Phil Spector, Jeff Barry và Ellie Greenwich. Ronettes, dẫn đầu bởi Ronnie Spector, đã mang lại ý tưởng cho cuộc sống, truyền nó với sự ngây thơ và đam mê của tình yêu trẻ. Spector mô tả phương pháp sản xuất của mình là một cách tiếp cận của Wagnerian đối với Rock & Roll, cuối cùng đã phát triển thành phong cách của bức tường âm thanh của anh ấy. Em bé của tôi là một trong những lần đầu tiên Phil Spector sử dụng một dàn nhạc đầy đủ trong bản thu âm của mình, một chủ đề mà nhà sản xuất sẽ trở lại nhiều lần.

08: Những cám dỗ - cô gái của tôi (1965)

Cô gái của tôi là một thành phần bồn rửa nhà bếp. Có những đoạn phim sẵn sàng cho bộ phim, sừng tại tòa án, và một dòng guitar gay gắt mà âm thanh sẽ không còn gì trên một bài hát quốc gia. Cô gái của tôi là người duy nhất là một trong những cám dỗ đầu tiên có David Ruffin về giọng hát chính, và đó là một phần giới thiệu. Bài hát thập niên 60 mang tính biểu tượng ban đầu được viết cho các phép lạ, với Smokey Robinson dự định tuyển dụng Ruffin để hát giọng hát. Nhưng các thành viên của những cám dỗ đã thuyết phục Robinson để cho họ có nó, một vết thương đã chữa lành khá nhanh chóng khi xem xét sự nghiệp mà Smokey sẽ tiếp tục.Temptations single to feature David Ruffin on lead vocals, and what an introduction it is. The iconic 60s song was originally penned for the Miracles, with Smokey Robinson planning on recruiting Ruffin to sing the vocals. But the members of The Temptations convinced Robinson to let them have it, a wound that healed rather quickly considering the career Smokey would go on to have.

07: James Brown - I Got You (Tôi cảm thấy tốt) (1965)

Có một khoảnh khắc mang tính biểu tượng hơn trong lịch sử âm nhạc hơn là giới thiệu của Brown về bài hát nổi tiếng nhất của anh ấy không? Chắc chắn có những khoảnh khắc như biểu tượng, nhưng nó khó tìm thấy một thứ có ảnh hưởng hơn. Brown định nghĩa lại ý nghĩa của việc trở nên mát mẻ trong thập niên 60 với bài hát này, thâm nhập vào nhạc rock và tâm hồn chính thống với thương hiệu nhạc funk tự yêu của mình. Đó là tự chăm sóc trước khi thuật ngữ tồn tại. Brown đã giúp tiên phong thể loại funk đang phát triển bằng cách nhấn mạnh một trong mỗi thanh, trái ngược với các bài hát rock, thường nhấn mạnh hai và bốn. Sự khác biệt này hoàn toàn theo nghĩa đen, đặt Fun Funk trong trò chơi Fun Funky, và và mãi mãi thay đổi tiến trình của âm nhạc hiện đại với những bài hát như thế này, Pap Papa, có một chiếc túi mới, và nhiều, nhiều hơn nữa.Brown’s introduction to his best-known song? There are certainly moments as iconic, but it’s hard to find one that is more impactful. Brown redefined what it meant to be cool in the 60s with this song, infiltrating mainstream rock and soul with his intoxicating brand of self-loving funk music. It was self-care before the term existed. Brown helped pioneer the developing funk genre by emphasizing the one of each bar, as opposed to rock songs, which generally emphasized the two and the four. This distinction quite literally put the “funk” in “funky,” and forever changed the course of modern music with songs like this one, “Papa’s Got A Brand New Bag,” and many, many more.

06: Bob Dylan - Giống như một viên đá lăn (1965)

Các cú đánh snare, sau đó có một nhịp đập nhanh của một cái trống bass, và sau đó nó rèm cửa. Có một khoảnh khắc ngắn để định hướng bản thân trước khi lịch sử âm nhạc thay đổi cho tốt. Đó là những gì Bob Dylan hoàn thành với 1965, giống như một viên đá lăn. Dylan bắt đầu viết bài hát đối đầu sau một chuyến lưu diễn đặc biệt mệt mỏi của Vương quốc Anh, và đó là năng lượng hung hăng này di chuyển sự ấm áp uốn khúc của dòng organ vào lãnh thổ mới. Tambourine tinh tế làm nổi bật sự lạc quan, trong khi dòng piano kiểu ragtime mang đến cho bài hát một chất lượng lỗi thời. Mặc dù nhạc cụ là một màn hình hoàn hảo của nhạc rock dân gian, nhưng hiệu suất của Dylan Dylan đã đánh cắp chương trình. Các dòng mà bạn nói rằng bạn không bao giờ thỏa hiệp với người khác và làm thế nào để tính phí? xác định sức đề kháng của toàn bộ thế hệ.

05: Aretha Franklin - (bạn làm cho tôi cảm thấy như) một người phụ nữ tự nhiên (1967)

Nó không khó để nghe nguồn gốc Tin Mừng của Aretha Franklin trong màn trình diễn không thể xóa nhòa của cô ấy (bạn làm tôi cảm thấy như) là một người phụ nữ tự nhiên. Để trích dẫn tác giả Anthony Heilbut, trong khi The Beatles buôn bán các bậc thầy, Arethra đã khai quật nguồn gốc phúc âm, Chúa Giêsu của cô chống lại Maharishi của họ. Người phụ nữ đã được viết bởi Carole King và Gerry Goffin, với sự hỗ trợ từ người đứng đầu Atlantic Records Jerry Wexler, nhưng đó là một cách chuyên nghiệp hóa tất cả, đẩy và kéo. Khi Aretha giữ bạn trong cây cầu, việc duy trì cường độ của đoạn điệp khúc trước đó trước khi thậm chí còn lớn hơn trong đoạn điệp khúc cuối cùng, đó là một trong những bài hát hay nhất của thập niên 60.

Aretha Franklin - (bạn làm cho tôi cảm thấy như) một người phụ nữ tự nhiên (âm thanh chính thức)

Bấm để tải video

04: The Rolling Stones - (Tôi có thể nhận được không) sự hài lòng (1965)

Chọn một bài hát Stones Stones để đại diện cho ban nhạc trong danh sách thập niên 60 này là không thể, nhưng vì chúng tôi giới hạn bản thân thành một, nên sự hài lòng, cảm thấy như là sự đặt cược tốt nhất do câu chuyện, tác động và di sản văn hóa của nó. Câu chuyện? Keith Richards có thể viết các bài hát trong giấc ngủ của mình tốt hơn hầu hết có thể trong khi tỉnh táo. Richards rõ ràng đã viết đoạn riff cho (tôi có thể nhận được sự hài lòng) và ghi lại một bản demo thô trên máy ghi âm của anh ấy mà không nhận ra điều đó. Bản demo đã có khoảng hai phút guitar acoustic chơi đoạn riff hài lòng trước khi bạn có thể nghe thấy Richards thả máy ghi âm và ngủ lại. Đĩa đơn được phát hành vào tháng 6 năm 1965 và được đưa vào phát hành ban nhạc từ tháng 7 năm đó, ra khỏi đầu chúng tôi. Tuy nhiên, trở về nhà ở Anh, bài hát chỉ có sẵn cho những người được điều chỉnh vào các đài phát thanh cướp biển, vì bài hát ban đầu được coi là quá gợi cảm cho khán giả thương mại.Keith Richards can write songs in his sleep better than most can while awake. Richards apparently wrote the riff for “(I Can’t Get No) Satisfaction” and recorded a rough demo on his tape recorder without realizing it. The demo had about two minutes of acoustic guitar playing the “Satisfaction” riff before you can hear Richards drop the recorder and fall back asleep. The single was released in June of 1965 and was included Stateside on the band’s release from July of that year, Out of Our Heads. Back home in the UK, though, the song was only available to those tuned into pirate radio stations, as the song was initially deemed too sexually suggestive for commercial audiences.

The Rolling Stones - (Tôi không thể nhận được) sự hài lòng (video lời bài hát chính thức)

Bấm để tải video

03: The Beach Boys - Good Rung động (1966)

Ban đầu được coi là một nhóm theo phong cách Jan & Dean bị ám ảnh bởi lướt sóng, ô tô và cô gái, The Beach Boys đã chứng minh rằng có nhiều hơn nữa nghệ thuật của họ với âm thanh thú cưng và những bài hát như God God chỉ biết. Những rung động tốt đẹp là một kiệt tác nhạc pop thập niên 60 từ The Beach Boys, một phép lạ của một bài hát bằng cách nào đó đứng đầu trên đỉnh cao của âm thanh thú cưng huyền thoại của nhóm. Không có gì ngạc nhiên khi - vào thời điểm đó - đó là một trong những bài hát đắt nhất từng được thu âm. Nó nghe như nó. Sản phẩm của BEACH BOY BRIAN WILSON, đã tạo ra một âm thanh xoay tròn, xoay quanh các thế hệ nghệ sĩ sử dụng hãng phim như một nhạc cụ. Brian đã đưa ra ý tưởng cơ bản cho bài hát, và Mike Love cuối cùng đã viết lời bài hát, gọi nó là nhóm Hồi giáo Psychedelic Anthem hoặc cung cấp sức mạnh hoa. Thật là một lời đề nghị.

The Beach Boys - Good Rung (video âm nhạc chính thức)

Bấm để tải video

03: The Beach Boys - Good Rung động (1966)

Ban đầu được coi là một nhóm theo phong cách Jan & Dean bị ám ảnh bởi lướt sóng, ô tô và cô gái, The Beach Boys đã chứng minh rằng có nhiều hơn nữa nghệ thuật của họ với âm thanh thú cưng và những bài hát như God God chỉ biết. Những rung động tốt đẹp là một kiệt tác nhạc pop thập niên 60 từ The Beach Boys, một phép lạ của một bài hát bằng cách nào đó đứng đầu trên đỉnh cao của âm thanh thú cưng huyền thoại của nhóm. Không có gì ngạc nhiên khi - vào thời điểm đó - đó là một trong những bài hát đắt nhất từng được thu âm. Nó nghe như nó. Sản phẩm của BEACH BOY BRIAN WILSON, đã tạo ra một âm thanh xoay tròn, xoay quanh các thế hệ nghệ sĩ sử dụng hãng phim như một nhạc cụ. Brian đã đưa ra ý tưởng cơ bản cho bài hát, và Mike Love cuối cùng đã viết lời bài hát, gọi nó là nhóm Hồi giáo Psychedelic Anthem hoặc cung cấp sức mạnh hoa. Thật là một lời đề nghị.Paul McCartney. Listening to the lyrics, though, it’s clear that Lennon is once again sketching a silly self-portrait, a notion confirmed by famed Beatles historian Jonathan Gould.

The Beach Boys - Good Rung (video âm nhạc chính thức)

Bấm để tải video

03: The Beach Boys - Good Rung động (1966)

Ban đầu được coi là một nhóm theo phong cách Jan & Dean bị ám ảnh bởi lướt sóng, ô tô và cô gái, The Beach Boys đã chứng minh rằng có nhiều hơn nữa nghệ thuật của họ với âm thanh thú cưng và những bài hát như God God chỉ biết. Những rung động tốt đẹp là một kiệt tác nhạc pop thập niên 60 từ The Beach Boys, một phép lạ của một bài hát bằng cách nào đó đứng đầu trên đỉnh cao của âm thanh thú cưng huyền thoại của nhóm. Không có gì ngạc nhiên khi - vào thời điểm đó - đó là một trong những bài hát đắt nhất từng được thu âm. Nó nghe như nó. Sản phẩm của BEACH BOY BRIAN WILSON, đã tạo ra một âm thanh xoay tròn, xoay quanh các thế hệ nghệ sĩ sử dụng hãng phim như một nhạc cụ. Brian đã đưa ra ý tưởng cơ bản cho bài hát, và Mike Love cuối cùng đã viết lời bài hát, gọi nó là nhóm Hồi giáo Psychedelic Anthem hoặc cung cấp sức mạnh hoa. Thật là một lời đề nghị.Nina Simone on “Sinnerman,” a song that sees the icon turn in one of her most powerful vocal performances. “Sinnerman” is one of the most important songs in American music history, a stirring anthem on race, religion, and music. It has the energy of the sun, the restraint of a monk. At ten minutes long, it doesn’t waste a moment. Every clap during the breakdown, every “power” Simone sings. Simone grasped the power of music better than anyone, and “Sinnerman” is art at its apex.

The Beach Boys - Good Rung (video âm nhạc chính thức)

Bài hát hit lớn nhất của thập niên 1960 là gì?

Billboard hàng đầu Hot 100 hit của những năm 1960..

Vật tist, Checker Chubby Checker.....

Mùi Hey Jude, người Beatles.....

Chủ đề từ 'một nơi mùa hè', Faith Faith và dàn nhạc của anh ấy.....

Mùi Tossin 'và Turnin,' Bobby Bobby Lewis.....

Tôi muốn nắm tay bạn, The Beatles.....

Tôi là một tín đồ, người Monkees.....

“....

Bài hát được nghe nhiều nhất trong những năm 70 là gì?

Top 100 bài hát của thập niên 70..

Tình yêu của bạn sâu sắc như thế nào bởi Bee Gees ..

Tôi chỉ muốn trở thành tất cả mọi thứ của bạn bởi Andy Gibb ..

Bạn thắp sáng cuộc sống của tôi bởi Debby Boone ..

Le freak by Chic ..

Ở lại sống bởi ong gees ..

Y.M.C.A.bởi người dân làng ..

Shadow Dancing của Andy Gibb ..

Công cụ nóng của Donna Summer ..

100 bài hát được chơi nhiều nhất là gì?

Spotify Top 100 bài hát phát trực tiếp nhất.

Ai có 40 lượt truy cập hàng đầu trong những năm 1960?

The Beatles thống trị các bảng xếp hạng và thúc đẩy cuộc xâm lược của Anh đặc trưng cho phần lớn thập kỷ.Dưới đây là 100 bài hát hàng đầu của Nolan Phương pháp của thập niên 1960 (1960-1969).

Lên kế hoạch cho một bữa tiệc? Những cái này & nbsp; Chicago dj pros & nbsp; Biết 1960 1960!

Thứ hạngTên bài hátHọa sĩNămThể loại
1 Caroline ngọt ngào (thời gian tốt đẹp chưa bao giờ tốt như vậy)Neil Diamond1969 Oldies
2 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1967 Oldies
3 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1967 Oldies
4 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1964 cô gái mắt nâu
5 Van MorrisonCách bạn nhìn tối nay1963 Oldies
6 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1961 Oldies
7 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1967 cô gái mắt nâu
8 Van MorrisonCách bạn nhìn tối nay1965 Oldies
9 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1961 cô gái mắt nâu
10 Van MorrisonCách bạn nhìn tối nay1960 Oldies
11 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1968 Oldies
12 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1965 Oldies
13 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1961 Oldies
14 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1964 cô gái mắt nâu
15 Van MorrisonCách bạn nhìn tối nay1965 Oldies
16 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1967 Oldies
17 Kêu laCách bạn nhìn tối nay1967 Oldies
18 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1963 Oldies
19 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1968 Oldies
20 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1966 Oldies
21 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1967 Oldies
22 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1966 Oldies
23 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1966 Oldies
24 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1964 cô gái mắt nâu
25 Van MorrisonCách bạn nhìn tối nay1967 Oldies
26 Kêu laNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1961 Oldies
27 cô gái mắt nâuVan Morrison1969 Oldies
28 Cách bạn nhìn tối nayCách bạn nhìn tối nay1966 Oldies
29 Van MorrisonCách bạn nhìn tối nay1962 Oldies
30 miễn cước SinatraCách bạn nhìn tối nay1965 Oldies
31 miễn cước SinatraBản ballad1964 Oldies
32 Xoắn và hétNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1962 Oldies
33 cô gái mắt nâuVan Morrison1962 Oldies
34 Cách bạn nhìn tối naymiễn cước Sinatra1964 Oldies
35 Bản balladXoắn và hét1969 Oldies
36 BeatlesCuối cùng1969 Oldies
37 Etta JamesMột thế giới thật tuyệt vời1962 Oldies
38 Louis ArmstrongCách bạn nhìn tối nay1964 Oldies
39 miễn cước SinatraCách bạn nhìn tối nay1964 Oldies
40 miễn cước SinatraBản ballad1965 Oldies
41 Xoắn và hétBeatles1965 Oldies
42 Cuối cùngCách bạn nhìn tối nay1961 Oldies
43 miễn cước SinatraBản ballad1967 Oldies
44 Xoắn và hétBeatles1968 Oldies
45 Cuối cùngCách bạn nhìn tối nay1969 miễn cước Sinatra
46 Bản balladXoắn và hét1965 Oldies
47 BeatlesCuối cùng1960 Oldies
48 Etta JamesMột thế giới thật tuyệt vời1961 Louis Armstrong
49 Cô gái của tôiNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1966 Oldies
50 cô gái mắt nâuCách bạn nhìn tối nay1967 Oldies
51 miễn cước SinatraBản ballad1960 Oldies
52 Xoắn và hétCách bạn nhìn tối nay1967 Oldies
53 miễn cước SinatraBản ballad1964 Xoắn và hét
54 BeatlesNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1969 Oldies
55 Cuối cùngEtta James1966 Oldies
56 Một thế giới thật tuyệt vờiNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1966 Oldies
57 Louis ArmstrongCách bạn nhìn tối nay1964 Oldies
58 miễn cước SinatraCách bạn nhìn tối nay1964 Oldies
59 miễn cước SinatraCách bạn nhìn tối nay1968 Oldies
60 miễn cước SinatraBản ballad1962 Oldies
61 Xoắn và hétVan Morrison1969 Oldies
62 Cách bạn nhìn tối nayCách bạn nhìn tối nay1969 Oldies
63 miễn cước SinatraNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1965 Oldies
64 Bản balladNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1966 Oldies
65 cô gái mắt nâuVan Morrison1967 Louis Armstrong
66 Cô gái của tôiCám dỗ1964 Oldies
67 Có thể giúp đỡ trong tình yêuElvis Presley với Jordanaires1964 Oldies
68 VắtNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1964 Oldies
69 cô gái mắt nâuNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1963 Oldies
70 cô gái mắt nâuVan Morrison1967 Oldies
71 Cách bạn nhìn tối naymiễn cước Sinatra1968 Oldies
72 Bản balladXoắn và hét1965 Oldies
73 BeatlesCuối cùng1968 Oldies
74 Etta JamesMột thế giới thật tuyệt vời1968 Oldies
75 Louis ArmstrongCô gái của tôi1963 Oldies
76 Cám dỗCách bạn nhìn tối nay1964 Oldies
77 Có thể giúp đỡ trong tình yêuElvis Presley với Jordanaires1969 Oldies
78 VắtCách bạn nhìn tối nay1968 Oldies
79 Checker ChubbyCách bạn nhìn tối nay1964 Oldies
80 Xây dựng cho tôi lên MaoNền tảng1962 cô gái mắt nâu
81 Giai điệu Unchainedanh em chân chính1965 Oldies
82 Đứng bên tôiNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1968 Oldies
83 cô gái mắt nâumiễn cước Sinatra1968 Oldies
84 Bản balladXoắn và hét1960 Oldies
85 BeatlesNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1968 Oldies
86 cô gái mắt nâuCách bạn nhìn tối nay1965 Oldies
87 Van MorrisonCách bạn nhìn tối nay1963 Oldies
88 miễn cước SinatraCách bạn nhìn tối nay1964 cô gái mắt nâu
89 Bản balladCách bạn nhìn tối nay1969 Oldies
90 Xoắn và hétXoắn và hét1969 Oldies
91 BeatlesBản ballad1964 Oldies
92 Xoắn và hétBeatles1965 Oldies
93 Cuối cùngNgày Otis và anh em Hiệp sĩ/Isley1966 Oldies
94 những cô gái CaliforniaBEACH BOYS1965 Oldies
95 Tất cả yêu thương của tôiBeatles1964 Oldies
96 Sinh ra để trở nên hoang dãSteppenwolf1968 Oldies
97 Xuống góc/con trai may mắnCreedence Clearwater Revival1969 Oldies
98 Khoảnh khắc kỳ diệu nàyTrôi dạt1960 Oldies
99 Cherie Amour của tôiStevie thắc mắc1969 Oldies
100 Chuỗi của những kẻ ngốcAretha Franklin1967 Oldies

Các bài hát hàng đầu của 1960 1960 được cập nhật theo phút của Gigbuilder - hệ thống quản lý sự kiện phổ biến nhất thế giới.

10 bài hát hàng đầu trong những năm 1960 là gì?

Billboard hàng đầu Hot 100 hit của những năm 1960..
Vật tist, Checker Chubby Checker.....
Mùi Hey Jude, người Beatles.....
Chủ đề từ 'một nơi mùa hè', Faith Faith và dàn nhạc của anh ấy.....
Mùi Tossin 'và Turnin,' Bobby Bobby Lewis.....
Tôi muốn nắm tay bạn, The Beatles.....
Tôi là một tín đồ, người Monkees.....
“....

Hit lớn nhất vào năm 1960 là gì?

Billboard năm kết thúc nóng 100 đĩa đơn năm 1960.

Bài hát số 1 trong thập niên 60 là gì?

"Tôi xin lỗi" của Brenda Lee đứng đầu danh sách vào lúc 23 tuần và ở phía dưới là "Penny Lane" của Beatles trên bảng xếp hạng chỉ trong 10 tuần.Trong những năm 1960, một kỷ lục đã được thiết lập bởi "The Twist" của Chubby Checker vì là bài hát duy nhất của kỷ nguyên Rock and Roll để đứng đầu bảng xếp hạng hai lần. tops the list at 23 weeks, and at the bottom is the Beatles' "Penny Lane" which was on the charts for only 10 weeks. During the 1960s, a record was set by Chubby Checker's "The Twist" for being the only song of the rock and roll era to ever top the charts twice.

Bài hát bán hàng lớn nhất của thập niên 60 là gì?

Theo dữ liệu bán hàng do công ty biểu đồ chính thức biên soạn, đĩa đơn bán hàng lớn nhất của thập niên 1960 là cô yêu bạn bởi The Beatles.She Loves You by The Beatles.